Xây dựng nhà trái phép lớp quản lý nhà nước
Thực hiện chủ trương đổi mói trong những năm qua đàng và nhà nước ta đã chủ trương tập trung đẩy mạnh kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, kinh tế- xã hội của cả nước luôn có sự tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được nâng cao, bộ mặt thành thị và nao6ng thôn được cải thiện.
Trường Chính trị tỉnh Long An Giáo viên hướng dẫn: Hồ Văn
Hạnh
MỤC LỤC
- PH Ầ N M Ở Đ Ầ U. ......................................................trang 1
- M Ụ C L Ụ C. ...........................................................................2
- N Ộ I DUNG .............................................................................
1/-Tóm t ắ t tình hu ố ng .............................................................
2/- Di ễ n bi ế n tình hu ố ng .......................................................
3/- Phân tích tình hu ố ng .........................................................
3.1 Bà Nguy ễ n Th ị A. .............................................................
3.2 Phòng Công th ươ ng. .........................................................
3.3 Cán b ộ đ ị a chính th ị tr ấ n K. ............................................
3.4 Thanh tra S ở Xây d ự ng. ...................................................
3.5 Ch ủ t ị ch UBND huy ệ n H .................................................
- NGUYÊN NHÂN VÀ H Ậ U QU Ả .......................................
4/- Các ph ươ ng án x ử lý tình hu ố ng. ...................................
5/- L ự a ch ọ n ph ươ ng án t ố i ư u ............................................
- KI Ế N NGH Ị -K Ế T LU Ậ N .....................................................
1/- Ki ế n ngh ị ............................................................................
2/- K ế t lu ậ n ..............................................................................
- TÀI LI Ệ U THAM KH Ả O
Học viên: Nguyễn Văn Lợi trang1
Trường Chính trị tỉnh Long An Giáo viên hướng dẫn: Hồ Văn
Hạnh
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện chủ trương đổi mới, trong những năm qua Đảng và Nhà
nước ta tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN; kinh tế - xã hội của cả nước luôn có sự
tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được nâng cao, bộ mặt thành thị và
nông thôn được cải thiện đáng kể.
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp
hóa hiện đạo hóa nông nghiệp và nông thôn, nhà nước đã tập trung đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân. Các
công trình thủy lợi, giao thông, điện, nước, chợ, bưu điện văn hóa,... được
đầu tư xây dựng ngày càng nhiều, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân...
Nhờ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, giá trị đất một số nơi tăng lên
nhanh chóng, nhất là những nơi hạ tầng hoàn chỉnh, khu vực thị trấn, thị tứ,
khu công nghiệp phát triển.
Kinh tế xã hội phát triển, thu nhập người dân có sự cải thiện và
nâng lên, nên việc cải tạo, sửa chữa, xây mới nhà ở tại các khu dân cư, nhất
là tại các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của thành phố và các
huyện trong tỉnh tăng nhanh, hình thành các dãy phố khang trang, đúng quy
hoạch.
Do giá đất tăng cao, tốc độ xây dựng nhà ở dân cư tăng nhanh
nhưng hiểu biết về pháp luật của một bộ phận nhân dân có mặt hạn chế
nên nhiều trường hợp xây dựng nhà vi phạm các quy định chung của nhà
nước, có không ít trường hợp xây dựng lấn ranh, lấn đất công, xây dựng sai
phép…ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước và đoàn kết nội bộ trong
cộng đồng dân cư.
Trường hợp bà Nguyễn Thị A, cư ngụ tại thị trấn K, khi xây dựng
nhà ở có hành vi lấn đất công; Quá trình xử phạt, cơ quan có thẩm quyền đã
phạt vi phạm hành chính và buộc tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà, trả lại hiện
trạng ban đầu; Sau đó bà Nguyễn Thị A khiếu nại gửi đến UBND huyện H
và Sở Xây dựng tỉnh. Đây là một trường hợp cụ thể cần nghiên cứu, xem
xét nhằm góp phần giải quyết tình trạng xây dựng nhà ở lấn ranh, lấn đất
công ở tỉnh ta hiện nay.
Sau đây chúng ta nghiên cứu về trường hợp khiếu nại nói trên.
Học viên: Nguyễn Văn Lợi trang2
Trường Chính trị tỉnh Long An Giáo viên hướng dẫn: Hồ Văn Hạnh
NỘI DUNG
1/. Tóm tắt tình huống:
Bà Nguyễn Thị A, cư ngụ tại thị trấn K, làm đơn xin giấy phép xây
dựng nhà trên nền nhà cũ và ngày 02/3/2009 được phòng Công thương huyện
H cấp giấy phép xây dựng với diện tích là 4m X 15 m.
Phòng Công Thương cùng cán bộ địa chính thị trấn K tiến hành cắm
mốc xây dựng, có sự xác nhận không lấn ranh của hộ ông B và đất công cộng
giáp ranh với bà A.
Nhưng khi tiến hành, Bà Nguyễn Thị A đã xây dựng nhà theo quy
cách 01 trệt, 01 lầu với diện tích là 120m2 và nhà xây lại lấn ranh đất công
cộng 4,5 m2.
Sau đó, Thanh tra Sở xây dựng phát hiện việc xây nhà trái pháp luật
của Bà Nguyễn Thị A và đã làm văn bản kiến nghị phòng Công thương huyện
H xem xét lại việc xây dựng nhà trái phép này, đồng thời Đoàn Thanh tra Sở
xây dựng xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà Nguyễn Thị A là 7.500.000
đồng.
Thực hiện kiến nghị của Đoàn Thanh tra Sở xây dựng, Phòng Công
thương huyện H kiểm tra việc xây dựng và buộc Bà Nguyễn Thị A tháo dỡ
phần xây dựng trái phép; Đồng thời kiến nghị Chủ tịch UBND huyện xử phạt
vi phạm hành chính 20.000.000 đồng.
Sau đó , Chủ tịch UBND huyện H ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với Bà Nguyễn Thị A là 20.000.000 đồng và buộc Bà tháo dỡ
toàn bộ ngôi nhà, trả lại hiện trạng ban đầu.
Ngày 10/8/2009, Bà A làm đơn gửi đến UBND huyện H và Sở Xây
dựng tỉnh khiếu nại với lý do tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà là quá nặng, ảnh
hưởng đến kinh tế của gia đình.
2/. Diễn biến tình huống:
Bà Nguyễn Thị A, cư ngụ tại thị trấn K, huyện H có nhu cầu xây lại
căn nhà và đã làm đơn xin giấy phép xây dựng nhà trên nền nhà cũ. Ngày
02/3/2009, Bà Nguyễn Thị A được phòng Công thương huyện H cấp giấy
phép xây dựng đúng theo theo diện tích được phép xây dựng là 4m X 15 m.
Ngày 15/3/2009, Phòng Công Thương huyện H cùng cán bộ địa chính
thị trấn K tiến hành cắm mốc xây dựng tại thực địa, có sự xác nhận không lấn
ranh của hộ ông B và đất công cộng giáp ranh với bà A.
Khi xây dựng, Bà Nguyễn Thị A đã xây dựng nhà theo quy cách 01
trệt, 01 lầu với diện tích là 120m2 và Bà A đã lấn ranh đất công cộng 30 cm
suốt chiều dài căn nhà, tổng cộng diện tích lấn chiếm là: 30 cm X 15 m = 4,5
m2 .
Học viên: Nguyễn Văn Lợi trang3
Ngày 10/7/2009, Thanh tra Sở xây dựng phát hiện việc xây nhà trái
phép của Bà Nguyễn Thị A; Thanh tra sở đã làm văn bản kiến nghị phòng
Công thương huyện H xem xét lại việc xây dựng nhà trái phép của Bà A, đồng
thời Đoàn Thanh tra Sở xây dựng đã xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A
là 7.500.000 đồng.
Nhận được công văn của Đoàn Thanh tra Sở xây dựng, Phòng Công
thương huyện H đã tiến hành kiểm tra việc xây dựng nhà của Bà A; Qua kiểm
tra, phòng Công thương huyện nhận thấy:
- Bà A xây dựng nhà không đúng với giấy phép được cấp.
- Bà A lấn ra đất công cộng 4,5 m2 là sai với biên bản cắm mốc giáp
ranh.
Phòng Công thương huyện H đã buộc Bà A tháo dỡ phần xây dựng
trái phép; Đồng thời kiến nghị Chủ tịch UBND huyện xử phạt vi phạm hành
chính đối với Bà A là 20.000.000 đồng.
Ngày 05/8/2009, trên cơ sở đề nghị của Phòng Công thương huyện,
Chủ tịch UBND huyện H ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
Bà A là 20.000.000 đồng và buộc Bà tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà, trả lại hiện
trạng ban đầu.
Ngày 10/8/2009, Bà A làm đơn gửi đến UBND huyện H và Sở Xây
dựng tỉnh khiếu nại với lý do tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà là quá nặng, ảnh
hưởng đến kinh tế của gia đình.
3./ Phân tích tình huống:
* Cơ sở pháp lý viện dẫn:
Một số văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng để phân tích tình
huống:
- Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003
Trong đó chú ý các Điều liên quan như:
+ Tại Khoản 2, Điều 66 quy định thẩm quyền cấp giấy phép xây
dựng: Uỷ ban nhân dân cấp huyện cấp giấy phép xây dựng đối với các công
trình xây dựng trong đô thị, các trung tâm cụm xã thuộc địa giới hành chính do
mình quản lý, trừ các công trình xây dựng quy định tại khoản 1 Điều này.
+ Tại Khoản 3, Điều 67 quy định về trách nhiệm của cơ quan cấp
giấy phép xây dựng phải kiểm tra việc thực hiện xây dựng theo giấy phép,
đình chỉ xây dựng, thu hồi giấy phép xây dựng khi chủ đầu tư xây dựng công
trình vi phạm; Khoản 6 quy định Giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc cấp
giấy phép xây dựng.
+ Khoản 1, khoản 2, Điều 68 quy định về Quyền và nghĩa vụ của
người xin cấp giấy phép xây dựng: Người xin cấp giấy phép xây dựng có
quyền yêu cầu cơ quan cấp giấy phép xây dựng giải thích, hướng dẫn và thực
hiện đúng các quy định về cấp giấy phép xây dựng; Thực hiện đúng nội dung
4
của giấy phép xây dựng; khi có sự điều chỉnh, thay đổi thiết kế phải được sự
chấp thuận của cơ quan cấp giấy phép xây dựng.
+ Khoản 4, Điều 112 về cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng có
quy định Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước
về xây dựng trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.
+ Điều 113, 114, 115 về Thanh tra xây dựng có quy định về nhiệm
vụ của thanh tra xây dựng trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm
quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm
pháp luật về xây dựng; Có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung
cấp tài liệu và giải trình những vấn đề cần thiết; áp dụng các biện pháp ngăn
chặn theo quy định của pháp luật; Lập biên bản thanh tra, xử lý theo thẩm
quyền hoặc kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện
các biện pháp xử lý; Có trách nhiệm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, trình tự,
thủ tục thanh tra theo quy định.
+ Điều 116, quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thuộc
đối tượng thanh tra.
+ Điều 117 quy định quyền khiếu nại, tố cáo, trách nhiệm giải quyết
khiếu nại, tố cáo; Cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo; Cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền về xây dựng các cấp có trách nhiệm giải quyết khiếu
nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền của mình; trong trường
hợp nhận được khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền của mình thì có
trách nhiệm chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết và thông
báo bằng văn bản cho người khiếu nại, tố cáo biết.
+ Điều 118 quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố
cáo: Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện
theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Luật Nhà ở số 56/2005/QH11 do Quốc hội thông qua ngày
29/11/2005; Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nh2 ở và Điều 121 của
Luật Đất đai số 34/2009/QH12 ngày 29/6/2009.
+ Điều 1 quy định phạm vi điều chỉnh về sở hữu nhà ở và quản lý
nhà nước về nhà ở.
+ Điều 7 quy định về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện và giám
sát việc thực hiện pháp luật về nhà ở.
+ Điều 21, Điều 22 quy định quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở;
Quản lý, sử dụng, bảo trì, cải tạo, phá dỡ, xây dựng lại nhà ở của mình theo
quy định của pháp luật nhưng không được làm ảnh hưởng hoặc gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác.
5
+ Điều 149 quy định việc xử lý đối với người vi phạm pháp luật về
nhà ở; Người có hành vi vi phạm pháp luật về nhà ở thì tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
Tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở sai quy hoạch, không có giấy phép xây dựng
đối với trường hợp phải có giấy phép hoặc xây dựng sai với giấy phép thì
phải bị xử lý theo quy định của pháp luật; Người nào lợi dụng chức vụ,
quyền hạn làm trái các quy định của pháp luật về nhà ở, thiếu trách nhiệm
trong quản lý để xảy ra vi phạm hoặc có hành vi vi phạm khác làm thiệt hại
đến quyền và lợi ích của chủ sở hữu nhà ở, người sử dụng hợp pháp nhà ở thì
tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
- Bộ Luật dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005.
Điều 265 quy định Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không
gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù
hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và
không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác.
- Luật đất đai năm 2003 và các luật sửa đổi, bổ sung luật đất đai.
Điều 107 quy định nghĩa vụ của người sử dụng đất phải sử dụng đất
đúng mục đích, đúng ranh giới.
- Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998; Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 24/6/2004 và Luật sử
đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày12/12/2005.
+ Điều 1 quy định tổ chức, công dân có quyền khiếu nại quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng
quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của mình.
+ Điều 3 quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra,
xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ
luật của mình, nếu thấy trái pháp luật thì kịp thời sửa chữa, khắc phục để
tránh phát sinh khiếu nại.
+ Điều 17 quy định quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại: Tự mình
khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại; Được nhận
văn bản trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại; nhận quyết định giải
quyết khiếu nại; Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết.
+ Điều 18 quy định quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại: Tiếp
nhận, giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
bị khiếu nại; thông báo bằng văn bản về việc thụ lý để giải quyết, gửi quyết
định giải quyết cho người khiếu nại và phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc giải quyết của mình.
6
+ Điều 20 quy định thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) về việc giải
quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình.
+ Điều 35 quy định trong quá trình giải quyết khiếu nại, nếu xét thấy
việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc
phục, thì người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định tạm đình chỉ
việc thi hành quyết định đó. Thời hạn tạm đình chỉ không vượt quá thời gian
còn lại của thời hạn giải quyết lần đầu.
+ Điều 37 quy định về việc đối thoại; Khi cần thiết, người giải quyết
khiếu nại lần đầu gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại để làm rõ
nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu
nại.
- Nghị định số 23/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2009 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh
bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý
công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở (có hiệu lực
ngày 01/5/2009)
+ Điều 57 quy định thẩm quyền xử phạt của Chánh thanh tra Sở Xây
dựng được phạt tiền đến 30.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy phép
xây dựng, giấy chứng nhận, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm quyền của cấp
huyện, cấp sở cấp; Ban hành quyết định xử phạt hành chính trong trường
hợp Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện chậm ban hành quyết định xử phạt
theo quy định; Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả:. Buộc khôi phục
lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra;
+ Điều 60 quy định thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch ủy ban nhân dân
cấp huyện được phạt tiền đến 30.000.000 đồng; Áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi
phạm hành chính gây ra.
- Thông tư số 24 /2009/TT-BXD của Bộ Xây dựng ngày 22 tháng 7
năm 2009:
+ Điều 11 quy định về thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt bổ sung
của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện; Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp
huyện còn có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung tước
quyền sử dụng giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy phép xây dựng, các loại
giấy phép và chứng chỉ hành nghề khác thuộc thẩm quyền ủy ban nhân dân
cấp huyện cấp;
3.1 Bà Nguyễn Thị A:
*Mặt tích cực:
- Khi có nhu cầu xây dựng nhà ở trên nền ngôi cũ, Bà đã làm đủ thủ
tục xin phép xây dựng gửi đến Phòng Công thương huyện H, thể hiện ý thức
trong việc chấp hành quy định của nhà nước trên lĩnh vực xây dựng.
7
- Trong quá trình phòng Công thương và cán bộ địa chính của thị trấn
K đến cắm mốc xây dựng, Bà thống nhất ranh đất liền kề theo xác nhận
không lấn ranh của hộ Ông B và ranh đất công cộng.
- Khi được cấp phép xây dựng và được cắm mốc, Bà mới tiến hành
xây dựng nhà.
- Khi vi phạm các quy định và bị xử phạt, Bà đã chấp hành quy định
xử phạt bằng tiền.
- Thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc khiếu
nại, trực tiếp khiếu nại và có đơn ghi rõ nội dung khiếu nại; Đơn khiếu nại
gửi đến UBND huyện H là cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
* Mặt hạn chế:
- Khi tiến hành xây dựng nhà, Bà đã vi phạm so với quy định của
giấy phép được cấp. Bà xây dựng sai so với giấy phép được cấp, vi phạm
khoản 2, Điều 68 Luật xây dựng quy định việc xây dựng phải thực hiện đúng
nội dung của giấy phép xây dựng; khi có sự điều chỉnh, thay đổi thiết kế phải
được sự chấp thuận của cơ quan cấp giấy phép xây dựng; Vi phạm Điều 149
Luật Nhà ở quy định tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở sai với giấy phép thì
phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.
- Quá trình xây dựng Bà đã lấn ra đất công cộng 4,5 m2, mặc dù trước
khi xây dựng Bà đã được cơ quan chức năng cắm mốc cụ thể. Hành vi trên vi
phạm Điều 265 Bộ Luật dân sự (Nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất
động sản. Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất
theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy
hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được
làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác); Điều 107
Luật đất đai (Nghĩa vụ chung của người sử dụng đất; Sử dụng đất đúng mục
đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng đất
và chiều cao trên không).
- Việc gửi đơn khiếu nại vào ngày 10/8/2009 đến Sở Xây dựng là
không đúng, vì UBND huyện H mới là cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu
theo quy định tại Điều 17 Luật Khiếu nại, tố cáo quy định quyền và nghĩa vụ
của người khiếu nại.
3.2 Phòng Công thương huyện:
*Mặt tích cực:
- Tiếp nhận hồ sơ và cấp phép xây dựng nhà ở cho Bà A; Cùng cán
bộ địa chính thị trấn K cắm mốc xây dựng cho Bà A, đảm bảo có xác nhận
không lấn ranh của hộ liền kề và ranh đất công cộng là đúng thẩm quyền quy
định.
8
- Nhận được công văn kiến nghị của Đoàn Thanh tra Sở xây dựng,
phòng đã tiến hành kiểm tra việc xây dựng của hộ Bà A và có kết luận cụ thể
việc xây dựng sai phép và lấn ranh đất công cộng.
- Việc buộc Bà A tháo dỡ phần xây dựng trái phép và kiến nghị Chủ
tịch UBND huyện xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A là 20.000.000
đồng là đúng thẩm quyền và mức phạt.
*Mặt hạn chế:
- Là cơ quan quản lý, cấp phép trên lĩnh vực xây dựng nhưng thiếu
kiểm tra, không kịp thời phát hiện vi phạm trong việc xây dựng không đúng so
với giấy phép và lấn ranh đất công cộng của Bà A. Khi nhận được Công văn
kiến nghị của Đoàn Thanh tra Sở xây dựng mới tiến hành kiểm tra.
- Chưa chủ động phối hợp Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện,
cán bộ địa chính thị trấn K để lập biên bản hành vi lấn chiếm đất công của Bà
A.
3.3 Cán bộ địa chính thị trấn:
* Mặt tích cực:
Có sự phối hợp tốt với Phòng Công thương trong việc cắm mốc xây
dựng, xác định không lấn ranh hộ liền kề và đất công cộng cho Bà A trước
khi xây dựng nhà ở.
*Mặt hạn chế:
Không kịp thời kiểm tra, phát hiện, báo cáo UBND thị trấn và cơ quan
chức năng cấp huyện việc lấn chiếm đất công cộng khi xây nhà của Bà A.
3.4 Thanh tra Sở Xây dựng:
*Mặt tích cực:
- Kịp thời phát hiện việc xây nhà trái phép của Bà A; Kiến nghị phòng
Công thương huyện H xem xét việc xây dựng của Bà A.
- Xử phạt vi phạm hành chính trong việc xây dựng của Bà A với mức
7.500.000 đồng là đúng thẩm quyền của Đoàn Thanh tra Sở Xây dựng.
*Hạn chế:
Chưa thường xuyên nhắc nhỡ cơ quan chuyên môn cấp huyện trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng.
3.5 Chủ tịch UBND huyện K:
*Mặt tích cực:
- Xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A số tiền 20.000.000 đồng
và buộc tháo dỡ toàn bộ căn nhà là đúng thẩm quyền quy định.
*Mặt hạn chế:
- Chưa thường xuyên kiểm tra, nhắc nhỡ phòng Công thương trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng.
9
- Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A, về
hình thức phạt bổ sung buộc tháo dỡ toàn bộ căn nhà là đúng thẩm quyền
nhưng chưa lấy ý kiến các phòng chuyên môn, chưa nghiên cứu đến tính khả
thi và thiệt hại kinh tế của Bà A. Mặt khác, việc để bà A xây dựng ngôi nhà
sai phép và lấn ranh đất công cộng còn là trách nhiệm của các phòng liên quan
và UBND thị trấn K chưa kịp thời kiểm tra, ngăn chặn ngay từ đầu.
Qua những phân tích tình huống nêu trên chúng ta thấy nổi lên những
nguyên nhân và hậu quả sau:
NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ:
*Nguyên nhân:
- Nguyên nhân chủ quan:
Ý thức chấp hành pháp luật, nhất là pháp luật trên lĩnh vực xây dựng
của một bộ phận nhân dân chưa cao.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng của cơ quan
chuyên môn cấp huyện còn hạn chế, chưa kịp thời theo dõi, kiểm tra việc xây
dựng đối với nhà ở được cấp phép.
+ Công tác phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói
chung và pháp luật về xây dựng nói riêng cho nhân dân có mặt còn hạn chế.
* Hậu quả:
- Về Kinh tế:
Hành vi vi phạm của người dân trên lĩnh vực xây dựng khi bị xử phạt
hành chính có mức phạt bằng tiền cao, cụ thể đối với trường hợp của Bà A
đã phải nộp phạt bằng tiền 27.500.000 đồng. Nếu thực hiện việc tháo dỡ toàn
bộ ngôi nhà thì thiệt hại là rất lớn, ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình Bà A.
Các cơ quan có liên quan phải kiểm tra, xử lý vi phạm và tập trung
giải quyết khiếu nại gây tốn kém thời gian và kinh phí.
- Về xã hội:
+ Do ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân chưa cao,
dẫn đến hành vi vi phạm và bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đã
ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của họ đối với xã hội.
+ Cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng chưa thực hiện
hết trách nhiệm, thiếu kiểm tra, ngăn chặn việc xây nhà không đúng so với
giấy phép và lấn ranh đất công cộng đã tạo dư luận xã hội không tốt, ảnh
hưởng đến hoạt động của cơ quan chuyên môn.
TÓM LẠI:
Vấn đề xử lý vi phạm hành chính của bà Nguyễn Thị A xây dựng nhà
trái pháp luật được phân tích trên cơ sở Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Đất
đai, Bộ Luật Dân sự và các Nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. Qua
10
nghiên cứu, phân tích diễn biến tình huống xét thấy việc xử phạt của Thanh
tra Sở Xây dựng và xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch UBND huyện K
là đúng thẩm quyền và mức phạt. Tuy nhiên, hình thức phạt bổ sung buộc
tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà trả lại hiện trạng ban đầu là quá nặng, ảnh hưởng
đến kinh tế gia đình của Bà A.
Do đó, việc phân tích diễn biến, xem xét, lựa chọn phương án phù
hợp nhằm giải quyết đúng pháp luật, không ảnh hưởng đến dư luận xã hội,
tạo tiền lệ không tốt và hạn chế thiệt hại về kinh tế cho Bà A là cần thiết.
4/- Các phương án giải quyết khiếu nại của Bà Nguyễn Thị A:
4.1. Phương án 1:
Giữ nguyên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, buộc Bà A tháo
dỡ toàn bộ ngôi nhà.
Ưu điểm: Việc giữ nguyên quyết định này giữ nghiêm được trật tự,
kỷ cương trong quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng, bảo đảm tính hiệu
lực của các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Hạn chế: Việc giữ nguyên quyết định này không bảo đảm tính khả
thi; Việc buộc tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà sẽ thiệt hại lớn về kinh tế cho bà A.
Quá trình buộc tháo dỡ có thể phát sinh những khiếu nại kéo dài và phải tiến
hành cưỡng chế thi hành quyết định nếu bà A không tự giác thi hành.
Mặt khác, việc vi phạm của bà A có phần trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng đã không kịp thời kiểm tra phát hiện,
ngăn chặn việc xây dựng trái phép và lấn ranh đất công của Bà A. Nếu việc
xây dựng trái pháp luật của Bà A được phát hiện, ngăn chặn kịp thời sẽ
không ảnh hưởng lớn về kinh tế.
4.2. Phương án 2:
Chủ tịch UBND huyện K thu hồi Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính ngày 05/8/2009 đối với Bà A, ban hành quyết định xử phạt mới mức
phạt bằng tiền là 20.000.000 đồng và buộc Bà A làm cam kết tháo dỡ phần
lấn chiếm đất công khi nhà nước có nhu cầu sử dụng.
Ưu điểm: Đảm bảo việc thi hành quyết định, trước mắt giảm thiệt
hại về kinh tế, hạn chế việc khiếu nại, thắc mắc hoặc cưỡng chế thi hành
quyết định.
Hạn chế: Việc thay đổi Quyết định xử phạt vi phạm hành chính như
trên không bảo đảm tính hiệu lực của các văn bản do Chủ tịch UBND huyện
ban hành, có thể tạo ra tiền lệ không tốt sau này. Mặt khác, việc cam kết tháo
dỡ phần lấn chiếm khi nhà nước có nhu cầu sử dụng làm Bà A không an tâm,
ảnh hưởng đến sinh hoạt và đời sống.
4.3. Phương án 3:
Chủ tịch UBND huyện K thu hồi Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính ngày 05/8/2009 đối với Bà A, ban hành quyết định xử phạt mới mức
11
phạt bằng tiền là 30.000.000 đồng; Đồng thời tiến hành các thủ tục giao đất
có thu tiền sử dụng đất cho Bà A với diện tích là 4,5 m2 (phần lấn chiếm)
theo quy định hiện hành.
Ưu điểm: Giảm thiệt hại về kinh tế, tạo điều kiện cho Bà A khắc
phục hậu quả của việc lấn chiếm đất công. Việc lấn ranh đất công của Bà A
là sai, nhưng diện tích lấn ranh không lớn (chỉ 30 cm suốt chiều dài căn nhà),
do đó phương án giao đất có thu tiền sử dụng đất cho Bà A sẽ không ảnh
hưởng nhiều về dư luận xã hội.
Hạn chế: Việc giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với phần đất lấn
chiếm của Bà A như trên không bảo đảm tính hiệu lực của các văn bản do
Chủ tịch UBND huyện ban hành, có thể tạo ra tiền lệ không tốt sau này.
5/- Chọn phương án tối ưu:
Chọn phương án 3 vì các lý do:
- Đảm bảo việc thi hành quyết định, giảm thiệt hại về kinh tế, hạn
chế việc khiếu nại, thắc mắc hoặc cưỡng chế thi hành quyết định.
- Giữ nguyên hiện trạng ngôi nhà, tạo điều kiện cho Bà A khắc phục
hậu quả của việc lấn chiếm đất công, an tâm trong cuộc sống.
- Mặt khác mức phạt bằng tiền 30.000.000 đồng là mức phạt cao
nhất thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND huyện, có tác dụng răn đe đối
với hành vi vi phạm của Bà A.
- Việc không buộc Bà A tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà có thể ảnh hưởng
đến dư luận xã hội và tạo tiền lệ không tốt sau này. Tuy nhiên, khi tiến hành
trao quyết định, UBND huyện sẽ tổ chức cuộc họp kiểm điểm về hành vi vi
phạm của Bà A, giải thích về các quy định pháp luật nhằm tạo sự đồng thuận
trong xã hội.
12
Trường Chính trị tỉnh Long An Giáo viên hướng dẫn: Hồ Văn Hạnh
KIẾN NGHỊ-KẾT LUẬN:
1/-Kiến nghị:
Qua giải quyết khiếu nại của Bà Nguyễn Thị A đối với quyết định
của UBND huyện, xin có một số kiến nghị sau:
- UBND huyện cần chỉ đạo phòng Công thương phối hợp UBND thị
trấn K tổ chức công bố thực hiện quyết định của Chủ tịch UBND huyện;
đồng thời phải kiểm điểm Bà A về việc vi phạm quy định trên lĩnh vực xây
dựng và quản lý đất đai.
Kiểm điểm trách nhiệm của Phòng Công thương trong việc thực
hiện chức năng quản lý trên lĩnh vực xây dựng; Nâng cao chất lượng đội ngũ
CB-CC cả về năng lực và tinh thần trách nhiệm trong việc thi hành công vụ,
đặc biệt là đối với vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Cần phê bình đối với cán bộ địa chính và UBND thị trấn K về tinh
thần trách nhiệm trong việc quản lý đối với địa bàn phụ trách.
- UBND huyện cần giao ngành chức năng lập các thủ tục tiến hành
giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với phần đất công bị bà A lấn chiếm theo
quy định. Đồng thời điều chỉnh Quyền sử dụng đất ở theo diện tích mới.
- Việc ban hành một quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với Bà
A ngày 05/8/2009 tuy không sai sót, nhưng UBND huyện cũng cần kiểm điểm
rút kinh nghiệm về trình tự ban hành quyết định, xem xét kỹ hình thức xử phạt
bổ sung buộc tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà trước khi ban hành.
2/- Kết luận:
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN; kinh tế - xã hội của cả nước luôn có sự tăng
trưởng khá, đời sống nhân dân được nâng cao, bộ mặt thành thị và nông thôn
được cải thiện đáng kể. Kinh tế xã hội phát triển, thu nhập người dân có sự
cải thiện và nâng lên, việc cải tạo, sửa chữa, xây mới nhà ở tại các khu dân
cư, nhất là tại các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của thành phố và
các huyện trong tỉnh tăng nhanh, hình thành các dãy phố khang trang, đúng quy
hoạch. Do đó, công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng cần có sự tập
trung nhiều hơn nữa.
Qua việc khiếu nại của Bà Nguyễn Thị A cho thấy công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và phát luật trên lĩnh vực xây
dựng nói riêng cần tiến hành rộng rãi trong nhân dân; Cần phải xác định đây là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên nhằm nâng cao ý thức và
hiểu biết về pháp luật trong nhân dân. Các cơ quan chuyên môn cần phối hợp
thật tốt với MTTQ và các Đoàn thể cùng cấp trong công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật. Phát huy hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối
Học viên: Nguyễn Văn Lợi trang13
hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp và tủ sách pháp luật
các xã, thị trấn.
Cũng qua sự việc trên cho thấy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trên một số lĩnh vực, nhất là đối với lĩnh vực xây dựng chưa cao. Nguyên nhân
còn một ít phòng chuyên môn và CB-CC chưa thực hiện tốt chức năng nhiệm
vụ được giao, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc. Do đó cần tăng
cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, đặc biệt là trên lĩnh vực
xây dựng; cần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên môn, trước
hết là vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Sống và làm theo pháp luật là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi công
dân; Đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp trong công tác chuyên môn,
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, theo dõi kiểm tra xử lý kịp
thời hành vi vi phạm… là một trong các biện pháp nhằm ngăn chặn các hành
vi vi phạm, nhất là trên lĩnh vực xây dựng. Thực hiện tốt hai yêu cầu trên sẽ
góp phần vào việc giữ gìn trật tự kỷ cương hành chính./.
Làm tại Tân Trụ 11/10/2009.
14