XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC
Tham khảo tài liệu 'xây dựng, hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước', kinh tế - quản lý, quản lý nhà nước phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC
VÀ CÔNG DÂN - MỘT NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA
DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN Ở NƯỚC TA
Ths. Trần Quang Trung
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân ở nước ta. Từ đó đến nay, chúng ta đã làm được nhiều việc, đạt được nhiều
thành tựu to lớn trong lĩnh vực này, từ việc nghiên cứu, hình thành cơ sở lý luận,
quan điểm, cho tới xây dựng mô hình, cơ cấu tổ chức và thể chế pháp lý cho hoạt
động nhà nước. Tuy nhiên, việc xây dựng nhà nước ta cũng mới chỉ đạt những
thành tích bước đầu. Chúng ta còn rất nhiều việc cơ bản phải làm, mà một trong
những việc đó là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước và công
dân. Đây là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách trong điều kiện hiện nay của nước ta.
Bình đẳng - công bằng là một giá trị cao đẹp mà nhân loại luôn hướng tới
suốt chiều dài lịch sử. Trải qua hàng nghìn năm, các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc và cách mạng xã hội, suy cho cùng cũng nhắm tới mục tiêu là tạo ra
một xã hội công bằng, bình đẳng hơn. Sự thay thế nhau của các chế độ nhà nước từ
chiếm hữu nô lệ cho đến chế độ xã hội chủ nghĩa, xét về bản chất và thực chất, đó
là tiến bộ của sự công bằng, bình đẳng.
Nhà nước pháp quyền – dù là tư sản hay xã hội chủ nghĩa, đều có những đặc
trưng chung, đó là một nhà nước chịu sự chi phối của quyền lực pháp luật, đồng
thời là một nhà nước mang tính dân chủ. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
pháp luật, sử dụng pháp luật để quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước được xây
dựng trên cơ sở thừa nhận nguyên tắc “ nguồn gốc quyền lực nhà nước bắt nguồn
từ nhân dân”. Trong một xã hội pháp quyền như vậy, đương nhiên phải thừa nhận
và xác lập mối quan hệ bình đẳng giữa các công dân với nhau và mối quan hệ bình
đẳng giữa nhà nước và công dân. Việc thừa nhận và xác lập sự bình đẳng giữa các
công dân với nhau trước pháp luật, tuy là một vấn đề không dễ dàng, nhưng việc
thừa nhận và xác lập sự bình đẳng giữa nhà nước và công dân mới thực sự là một
vấn đề nan giải.
Nhà nước ta, với bản chất xã hội chủ nghĩa, thực sự là nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Việc xây dựng, hoàn thiện mối quan hệ thực sự bình đẳng giữa nhà
nước và công dân là vấn đề thuộc về bản chất. Chúng ta có những điều kiện thuận
lợi to lớn và rất cơ bản để thực hiện việc này, đó là: lợi ích cơ bản giữa nhà nước
1
và nhân dân là nhất trí, không có mâu thuẫn đối kháng. Nhà nước có sự thống nhất
giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc. Nhân dân ta lại có
một quá trình lâu dài đi theo và bằng chính kinh nghiệm bản thân, chấp nhận sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành lấy chính quyền và tự xây dựng
chính quyền của mình. Nhân dân ta có Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của dân tộc, lãnh đạo nhà nước
và xã hội, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân. Đó là những nền
tảng tự nhiên, khách quan, cơ bản vững chắc cho việc xác lập mối quan hệ bình
đẳng giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với nhân dân - công dân hiện nay ở nước ta.
Tuy nhiên, trong vấn đề này, chúng ta có những khó khăn không nhỏ, cả về
khách quan và chủ quan. Về khách quan, sự phát triển kinh tế - xã hội còn thấp,
ảnh hưởng tâm lý của một xã hội tiểu nông còn nặng nề, tàn dư tư tưởng phong
kiến, thực dân còn chi phối trong một bộ phận không nhỏ xã hội… Tất cả những
điều đó sẽ ảnh hưởng - một cách tự nhiên, trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước, từ việc xây dựng, ban hành các quy định pháp luật, cho đến thái độ, trách
nhiệm của cán bộ, công chức trong giải quyết các công việc của nhân dân, mà một
trong những biểu hiện của nó là hiện tượng cửa quyền, hách dịch, vô trách nhiệm.
Về chủ quan, chúng ta còn chưa xây dựng hoàn thiện hệ thống lý luận về nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và lý luận về mối quan hệ bình đẳng giữa
nhà nước và công dân nói riêng. Do đó hệ thống pháp luật - cơ sở pháp lý phản ánh
và thể chế hóa lý luận, cũng còn rất nhiều hạn chế về vấn đề này. Mặt khác, sự
thiếu bình đẳng đó còn biểu hiện phổ biến trong quan hệ giữa các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước với nhân dân khi giải quyết công việc liên quan
đến quyền công dân, mặc dù các quyền đó đã được pháp luật quy định.Trong khi
nhà nước, các cơ quan nhà nước buộc công dân phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ,
trách nhiệm của mình, thì ngược lại, trong nhiều trường hợp, nhà nước, cơ quan
nhà nước lại thiếu hoặc gần như “ vô trách nhiệm” trong việc quy định hay thực
hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đã được pháp luật quy định. Đặc biệt, với sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường như hiện nay, đã và sẽ nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp hơn đối với việc giải quyết mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà
nước và công dân (ví dụ, quan hệ giữa nhà nước - doanh nghiệp - công dân trong
việc thu hồi, đền bù quyền sử dụng đất, giải phóng mặt bằng…) Trên nhiều vấn đề,
pháp luật đã không theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội, hoặc quá lạc hậu với nó.
Tất cả những vấn đề trên đã làm tình hình xã hội, trên nhiều lĩnh vực, trở nên phức
tạp, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Từ đó, việc hoàn thiện
mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân trở thành một trong những vấn
đề cấp bách hiện nay.
2
Mặc dù vậy, đây là vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, không thể giải
quyết trong một sớm một chiều. Trong thời gian tới, chúng ta nên tập trung vào
một số việc cơ bản, cần thiết:
1. Nghiên cứu hoàn thiện cơ sở lý luận về sự bình đẳng giữa Nhà nước và
công dân. Trên cơ sở thừa nhận nguyên tắc đó của nhà nước pháp quyền, tiến tới
làm rõ thực chất và cụ thể quan điểm, nội dung, phương thức thực hiện, hệ thống
công cụ, phương tiện…hay nói cách khác, làm rõ nội hàm khoa học của nguyên tắc
này trong nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, đặc biệt nghiên cứu phân tích
chính xác, đầy đủ nội dung khái niệm “ bình đẳng” giữa nhà nước và công dân.
Đây là vấn đề phức tạp, nhưng nếu không làm rõ thì sẽ không thể giải quyết được
những vấn đề tiếp theo một cách đúng đắn và rất dễ sai lầm.
Trong một nhà nước dân chủ, người ta hay hoặc thích dùng từ “ bình đẳng”
như một mỹ từ, như một khẩu hiệu, hoặc để ca ngợi, hoặc để chê bai, tùy vào động
cơ của người dùng. Nhưng không phải ai cũng hiểu một cách đúng đắn về bình
đẳng, nhất là sự bình đẳng giữa nhà nước và công dân - một vấn đề rất mới mẻ ở
nước ta. Nhà nước - một tổ chức đặc biệt của xã hội, sinh ra từ xã hội, được sử
dụng quyền lực của xã hội trao cho, để chuyên làm nhiệm vụ tổ chức, quản lý, điều
hành công việc của xã hội. Nhà nước có quyền lực đặc biệt- quyền lực công, với hệ
thống công cụ, phương tiện đặc biệt, trong đó có cưỡng chế bằng bạo lực, để thực
hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của mình. So với nhà nước, công dân có vẻ “
nhỏ bé”, “ thấp cổ, bé họng” hơn nhiều. Vậy làm sao bình đẳng? ( nhất là mỗi khi “
các ngài công dân”- các “ ông chủ”, đến công sở gặp các quan chức Nhà nước -
các “ đầy tớ” của mình, lại phải thấy những khuôn mặt lạnh lùng, thái độ kẻ cả,
hách dịch) Thật là khó thừa nhận giữa Nhà nước và công dân có tồn tại sự bình
đẳng…!
Thực chất, sự bình đẳng ở đây phải được hiểu là sự bình đẳng theo quy định
của pháp luật. Trong quan hệ này, mỗi bên - Nhà nước và công dân, đều có quyền
và có nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của Nhà nước được bảo
đảm bằng nghĩa vụ công dân, quyền của công dân được bảo đảm bằng nghĩa vụ
của Nhà nước. Nếu mỗi bên khi xác lập quan hệ với nhau, đều thực hiện đúng và
đầy đủ những gì mà pháp luật quy định, thì đó là bình đẳng. Nhà nước, các cơ quan
Nhà nước, mỗi cán bộ, công chức Nhà nước đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ
của mình trước nhân dân và ngược lại, công dân cũng vậy, khi đó sự bình đẳng sẽ
được xác lập. Như vậy, bình đẳng không có nghĩa là cào bằng, các bên như nhau.
Bình đẳng là tự do, nhưng không đồng nghĩa với sự tùy tiện, vô chính phủ, vì suy
3
cho cùng, ngay cả trong một chế độ dân chủ nhất, thì “nhà nước vẫn là nhà
nước”…
2. Như vậy, vấn đề cơ bản còn lại có ý nghĩa quyết định bình đẳng hay
không, lại là bản thân pháp luật. Nhà nước có quyền xây dựng, ban hành pháp
luật, nhưng pháp luật phải được xây dựng thành một đại lượng mang tính chuẩn
mực, tiêu biểu cho sự khách quan, công lý, là hiện thân của lẽ phải và công bằng.
Muốn vậy, pháp luật phải là sự phản ánh một cách thực chất ý chí chung của xã
hội, của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ quá trình xây
dựng cho đến nội dung. Điều đó lại tùy thuộc vào những điều kiện chính trị, kinh
tế - xã hội cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác, không thể nói đến pháp
luật công bằng, nếu không có sự “ phản kháng” của xã hội trước những quy định
không công bằng của Nhà nước. Ở đây, sự phản biện của xã hội – nhân dân, đóng
vai trò là “ đối trọng” vô cùng quan trọng. Suy đến cùng, sự bình đẳng cao nhất và
khái quát nhất trong nhà nước xã hội xã hội chủ nghĩa của chúng ta là: Nhà nước
(và pháp luật ) thực sự là công cụ, phương tiện của nhân dân để phục vụ nhân dân,
tất cả vì lợi ích của nhân dân. Trong thời gian tới, cần tập trung xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này theo hướng: một mặt, quy định đầy đủ hơn,
cụ thể hơn, rõ ràng hơn về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan Nhà nước, của các
chức danh, chức vụ của cán bộ, công chức nhà nước, về các chế độ trách nhiệm mà
cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải chịu khi có hành vi gây thiệt hại cho
công dân trong thi hành nhiệm vụ, công vụ; hoàn thiện cơ chế bảo đảm và những
ràng buộc pháp lý về chế độ chịu trách nhiệm của nhà nước trước công dân. Mặt
khác, hoàn thiện quy định của pháp luật cụ thể hóa các quyền công dân theo hướng
“ công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm”. Trong đó, đặc biệt chú
trọng hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do
cơ quan, cán bộ, công chức Nhà nước gây ra; xác định cụ thể trách nhiệm của công
dân nhằm bảo đảm quyền của Nhà nước; quy định rõ và thực hiện đúng các khoản
nghĩa vụ đóng góp của công dân như các loại phí, lệ phí, và các khoản thu khác
v.v…
Tập trung xây dựng, hoàn thiện chế độ chịu trách nhiệm của cơ quan, cán
bộ, công chức Nhà nước trước công dân, theo hướng nâng cao và cụ thể hóa. Hiện
nay chế độ này còn nhiều thiếu sót, hạn chế trong cả hai mặt: quy định của pháp
luật và trong thực hiện thực tế. Mặc dù, chúng ta đã có một số văn bản về vấn đề
này, như Bộ luật dân sự quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước bồi thường
thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra; cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi
thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra khi tiến hành các hoạt
động tố tụng. Luật hành chính có một số quy định về trách nhiệm bồi thường vật
4
chất của cơ quan và cán bộ, công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ gây ra thiệt
hại cho công dân…Tuy nhiên, những quy định như trên còn ít và chưa được cụ thể
hóa, vì vậy rất khó thực hiện. Nhưng vấn đề quan trọng hiện nay lại là ở chỗ: mặc
dù đã có quy định của pháp luật, nhưng trong nhiều trường hợp, cơ quan, cán bộ,
công chức nhà nước vẫn không muốn thực hiện trách nhiệm của mình, cố tình đổ
lỗi, né tránh hoặc đùn đẩy cho cơ quan khác, người khác. Hiện tượng cán bộ, công
chức giải quyết công việc chậm trễ, dây dưa quá thời gian quy định, gây tốn kém
công sức, thời giờ, tiền bạc… của dân mà không phải chịu trách nhiệm, đang là
việc bình thường trong quản lý Nhà nước của chúng ta hiện nay. Quy định bảy giờ
rưỡi làm việc, dân chờ “dài cổ” đến tám giờ, thậm chí chín giờ, mới thấy “ông cán
bộ” lững thững đến…Chẳng sao, đến là tốt rồi…không đến, còn tệ hơn! Dân theo
giấy hẹn đến nhận hồ sơ, cán bộ bảo: chưa xong! Về, tuần sau đến! Tuần sau, mà
không biết ngày, giờ nào? Hỏi lại, được trả lời: cứ tuần sau đến, chưa biết xong
ngày nào, việc nhiều quá… Những quy định về đền bù thiệt hại đã có, nhưng để
nhận được đền bù, công dân phải vượt qua một con đường đầy gian nan, tốn kém
mà không chắc chắn có đến được đích… Những hiện tượng trên cứ diễn ra, nơi
này, nơi khác mà không biết đến khi nào mới hết, mặc dù chúng ta đã có rất nhiều
cố gắng để hạn chế, khắc phục, nhất là từ khi thực hiện cải cách hành chính đến
nay. Nguyên nhân chính là ở chỗ, chúng ta còn thiếu quy định về nhiều chế độ
trách nhiệm, những chế độ đã có lại thiếu cụ thể; mặt khác, ý thức chịu trách nhiệm
của cơ quan, cán bộ, công chức chưa cao, thiếu lương tâm, danh dự trong việc tôn
trọng lẽ phải, lẽ công bằng.
3. Tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm trước công dân cho đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đề cao trách nhiệm bảo đảm các quyền của công
dân và thái độ dám chịu trách nhiệm trong thi hành nhiệm vụ, công vụ, chống hiện
tượng khi phải chịu trách nhiệm lại tìm cách “ chạy trách nhiệm”, né tránh, đùn
đẩy… Dám chịu trách nhiệm phải được đề cao, coi đó là danh dự công vụ.
4. Hoàn thiện quy chế pháp lý về phản biện xã hội, giám sát xã hội, nhằm
tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng, các cơ quan thông
tin đại chúng, nhất là vai trò của báo, đài… trong việc kiểm tra, giám sát các cơ
quan, cán bộ, công chức Nhà nước, phát hiện những vi phạm trong các mối quan
hệ giữa Nhà nước và công dân, góp phần bảo đảm công lý, công bằng.
5. Đề cao vai trò, trách nhiệm của Đảng, nhất là của các tổ chức đảng và
đảng viên trong lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về mối quan hệ
giữa nhà nước và công dân. Tăng cường công tác kiểm tra của Ban chấp hành
Trung ương Đảng, của các tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra đảng các cấp đối với các
5
cơ quan nhà nước, với đảng viên giữ chức vụ trong các cơ quan nhà nước. Xử lý
nghiêm minh đối với đảng viên vi phạm quy định của Đảng và pháp luật nhà nước
về quan hệ nhà nước và công dân.
Xây dựng hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở nước ta hiện
nay là một vấn đề rất lớn, rất mới mẻ, do đó phải làm từng bước, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm. Phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, huy động
đông đảo nhân dân tham gia, trong đó sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định;
Nhà nước đóng vai trò nòng cốt trong thể chế hóa và tổ chức thực hiện. Trong quá
trình này, việc phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức, các nhà khoa học chính trị và
pháp lý là rất quan trọng.
XÂY DỰNG VĂN HÓA THỊ DÂN- MỘT NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ
CẤP BÁCH CỦA VIỆC XÂY DỰNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY.
Trần Quang Trung
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn nhất trong cả nước, là trung tâm
về nhiều mặt của đất nước và trong tương lai, sẽ là một trung tâm lớn về nhiều mặt
của khu vực Đông Nam Á. Thành phố đang trong quá trình đô thị hóa nhanh cả về
chiều rộng và chiều sâu. Quá trình đó đã và đang đặt ra nhiều vấn đề lớn, cơ bản
mà tổ chức Đảng, chính quyền và nhân dân thành phố phải giải quyết, trong đó có
6
vấn đề xây dựng văn hóa, lối sống cho dân cư đô thị,( thị dân) nhằm góp phần xây
dựng thành phố văn minh và hiện đại. Đây là một vấn đề vừa cơ bản, vừa mang
tính cấp bách hiện nay.
Văn hóa nói chung và văn hóa thị dân nói riêng, là một khái niệm có nội
hàm rất rộng. Bài viết này chỉ đề cập đến khái niệm văn hóa thị dân theo nghĩa
hẹp, đó là văn hóa tinh thần, lối sống, ý thức, phương thức ứng xử của con người
thành phố- con người đô thị.
1. Vai trò của văn hóa thị dân đối với sự phát triển của TPHCM.
- Vai tro của văn hóa
- Vai trò của văn hóa thị dân.
2. Những yếu tố khách quan tác động đến sự hình thành và phát triển
của văn hóa thị dân ở TPHCM.
- Yếu tố kinh tế: các mối quan hệ về lợi ích vật chất trong làm ăn, sinh sống
- Yếu tố chính trị: yêu cầu về quản lý nhà nước, về dân chủ ở đô thị.
- Yếu tố môi trường xã hội: mật độ dân số cao quan hệ xã hội ( ngoài quan hệ gia
đình, huyết thống) đa dạng, phức tạp hơn vùng phi đô thị.( sự tác động lẫn nhau
thường xuyên), tính biến động cao.làm cho ý thức, tư tưởng có thể thay đổi nhanh,
phức tạp, nhiều chiều..
- Yếu tố văn hóa: sự nhạy bén và đa dạng văn hóa, đan xen văn hóa.tác động
nhanh và thường xuyên của văn hóa, lối sống nước ngoài
2. Khó khăn, thuận lợi trong xây dựng…
- Khó khăn
+ Tàn dư văn hóa cũ, ( nông nghiệp tiểu nông, đế quốc thực dân) thói quen cũ
+ Thiếu truyền thống pháp chế.
+ Lối sống chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hưởng thụ, xa hoa, đồi trụy
+ Ảnh hưởng kinh tế thị trường
- Thuận lợi
+ Đời sống vật chất nâng cao
+ Truyền thống dân tộc: nhân nghĩa, lá lành đùm…thương người như…tôn trọng
con người.
+ Quan tâm giáo dục của Đảng nhà nước chính quyền địa phương.
7
+ Các phong trào thi đua xây dưng đời sống văn hóa mới, chống hiện tượng tiêu
cực về văn hóa
2. Các tiêu chí của văn hóa thị dân cần xây dựng.
- Dân trí cao.đời sống văn hóa tinh thần phong phú, giàu có
- nhận thức pháp luật cao.
- Ý thức xã hội- cộng đồng cao.trách nhiệm với cộng đồng.mỗi người
vì…
- Ý thức tự giác pháp chế cao.
- phương thức ứng xử trong quan hệ người- người văn minh, lịch sự( lời
ăn, tiếng nói, thái độ, cử chỉ, xử sự theo pháp luật.( không theo luật giang hồ)
Văn hóa của cán bộ công chức làm việc ở đô thị (cần có đặc trưng riêng.)
3. Các giải pháp xây dựng.( hệ thống công cụ)
- Các giải pháp về tư tưởng.
+ Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đào tạo, nâng cao học vấn
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đa dạng.nhiều hình thức,
thường xuyên
- các giải pháp về pháp lý.
+ Hệ thống pháp luật nhà nước
+ Quy định của địa phương.
+ Thực hiện pháp luật nghiêm minh, xử lý vi phạm, nhất là cán bộ, đảng viên
- Các giải pháp về tổ chức quản lý.
+ Công tác tổ chức các phong trào thi đua nêu người tốt, việc tốt.
+ Tổ chức bình xét gia đình văn hóa, khu phố văn hóa…
+ Tổ dân phố neu gương.
+ Quản lý đảng viên của tổ chức Đảng
+ Quản lý của cơ quan đối với cán bộ công chức
+ Quản lý của tổ chức xã hội
+ Quản lý của Tổ dân phố.
4.Các lực lượng tổng hợp( là sự nghiệp toàn dân)
8
- Đảng
- Nhà nước, cq cơ sở khu phố, tổ dân phố
- Tổ chức xã hội
- Phương tiện TTĐC( báo. Đài)
- Dư luận xã hội
KẾT LUẬN.
9