Văn hoá doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
Xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp của nước ta hiện nay có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ thực tiễn, xin thử gợi ra một số suy nghĩ để cùng trao đổi về vấn đề văn hoá doanh nghiệp trong thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.......
Về văn hoá doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
Xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp của nước ta hiện nay có tác dụng
rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh
nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế. Từ thực tiễn, xin thử gợi ra một số suy nghĩ để cùng trao
đổi về vấn đề văn hoá doanh nghiệp trong thể chế kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay.
Văn hoá doanh nghiệp: nền tảng của sự phát triển
Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị tinh thần mà doanh nghiệp tạo ra
trong quá trình sản xuất kinh doanh tác động tới tình cảm, lý trí và hành vi của
các thành viên cũng như sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Văn hoá
doanh nghiệp gắn với đặc điểm từng dân tộc, trong từng giai đoạn phát triển
cho đến từng doanh nhân, từng người lao động, do đó, rất phong phú, đa dạng.
Song Văn hoá doanh nghiệp cũng không phải là vô hình, khó nhận biết mà rất
hữu hình, thể hiện rõ một cách vật chất, chẳng những trong hành vi kinh doanh
giao tiếp của công nhân, cán bộ trong doanh nghiệp, mà cả trong hàng hoá và
dịch vụ của doanh nghiệp, từ mẫu mà, kiểu dáng đến nội dung và chất lượng.
Văn hoá doanh nghiệp là cơ sở của tồn bộ các chủ trương, biện pháp cụ thể
trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi phối kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Chính vì vậy, có thể nói thành công hoặc thất bại của các doanh
nghiệp đều gắn với việc có hay không có văn hoá doanh nghiệp theo đúng nghĩa
của khái niệm này.
Ở nước ta nếu chỉ tính trong 100 năm qua, thì trong những năm đất nước bị đô
hộ, nhiều doanh nhân đã khởi xướng những ý tưởng rất mới trong việc phát
triển công thương nghiệp, hình thành những nền móng đầu tiên của văn hoá
doanh nghiệp nước ta, đó là tinh thần dân tộc trong kinh doanh, dũng cảm cạnh
tranh với tư bản Pháp, Hoa lúc đó đang làm chủ trên thị trường. Lịch sử đã ghi
lại tên tuổi của những doanh nhân thời đĩ là "tư sản dân tộc" như Bạch Thái
Bưởi, được coi là "vua vận tải Bắc Việt đầu thế kỷ", "bậc anh hùng trong kinh
tế giới nước nhà" (lời nhà học giả Nguyễn Văn Tố), như Nguyễn Sơn Hà, chủ
hãng sơn Resistanco dùng thương hiệu của mình đáng bại nhiều hãng sơn
đương thời, như Trần Chánh Chiếu, đã chủ trì nhiều cơ sở kinh doanh và ra
báo, là một trong những nhân vật quan trọng của phong trào Minh Tân đất Nam
Kỳ vào những năm đầu của thế kỷ XX như Trương Văn Bền với nhãn hiệu xà
phịng Cơ Ba nổi tiếng cả nước. Thời đĩ, phong trào Duy Tân dấy lên rầm rộ từ
miền Trung đến miền Bắc, ngồi việc khuyến khích nâng cao dân trí, canh tân
đất nước, đã kích thích nhiều doanh nhân người Việt lập ra các hiệu buơn, đề
cao tinh thần dân tộc trong kinh doanh. Rồi đây, chúng ta cịn cĩ dịp tổng kết để
đánh giá một cách đầy đủ hơn những bước phát triển của doanh nhân Việt Nam
trong lịch sử, nhưng điều cĩ thể khẳng định là: trên khắp đất nước ta, trong
những năm bị đế quốc thống trị, đã cĩ khơng ít những doanh nhân ý thức được
nỗi đau mất nước, luơn luơn đề cao tinh thần dân tộc trong kinh doanh, - một
nội dung cơ bản của văn hố doanh nghiệp.
Trong những năm thực hiện thể chế kế hoạc hố tập chung, do thị trường và các
quy luật của thị trường khơng được cơng nhận, các doanh nghiệp nước ta tiến
hành sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu pháp lệnh được ban hành từ trên, sản
phẩm làm ra được giao nộp lên cấp trên, khơng tính đến nhu cầu thị trường,
khơng hoạch tốn đến giá cả, cộng với tiền lương, tiền thưởng trong doanh
nghiệp khơng gắn với kết quả sản xuất, v.v... Thể chế kế hoạch hố tập trung
cũng khơng bảo đảm trách nhiệm và quyền hạn của doanh nghiệp với tư cách
là một thực thể kinh doanh, hạn chế tính sáng tạo, tinh thần kinh doanh của
người quản lý doanh nghiệp. Tình trạng đĩ đã làm sai lệch bản chất của kinh
doanh, cũng cĩ thể gọi đĩ là "sản xuất mà khơng kinh doanh".
Tuy vậy, cũng trong thời kỳ này, cĩ những cán bộ quản lý doanh nghiệp đã
mạnh dạn tìm tịi, thử nghiệp cách làm ăn mới, tạo ra một số mơ hình kinh
doanh cĩ hiệu quả. Những mơ hình này đã nêu lên một số nét đặc trưng của văn
hố doanh nghiệp thời kỳ đĩ: tinh thần dám nghĩ dám làm, năng động sáng tạo,
vươn lên khắc phục khĩ khăn, thiếu thốn. Truyền thống văn hố đĩ đã cĩ ảnh
hưởng tốt đối với thế hệ doanh nhân ngày nay.
Cơng cuộc đổi mới được khẳng định từ Đại hội tồn quốc lền thứ VI của Đảng
(12-1986) và thể chế kinh tế thị trường được cơng nhận đã mở ra cho các doanh
nghiệp, doanh nhân nước ta những điều kiện mới cĩ ý nghĩa quyết định để từng
bước hình thành văn hố doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội ở
nước ta, đĩ là văn hố doanh nghiệp Việt Nam. Cơng cuộc đổi mới đã đem lại
sự giải phĩng các lực lượng sản xuất, quyền tự do kinh doanh của mọi cơng
dân trong những lĩnh vực mà pháp luật khơng cấm. Đĩ cũng là phát huy sức
mạnh của tồn dân tộc cho cơng cuộc trấn hưng đất nước; mọi người được tự
do phát huy tài năng, trí tuệ trong kinh doanh, làm giàu cho mình và cho đất
nước,như Đại hội IX của Đảng đã quyết định. Cĩ thể nĩi đây là sự thể hiện nổi
bật nhất của văn hố lãnh đạo, văn hố quản lý: là sự lãnh đạo phù hợp quy luật
phát triển của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của cả dân tộc, một dân tộc
gan gĩc đấu tranh chống ngoại xâm trong hàng thế kỷ, nay khơng cam tâm chịu
mãi cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Chính cơng cuộc đổi mới đã mở đường cho sự ra
đời và phát triển các doanh nghiệp dân doanh và đội ngủ doanh nhân mới, mở
đường cho sự hình thành và phát triển văn hố doanh nhân mới, mở đường cho
sự hình thành và phát triển văn hố doanh nghiệp Việt Nam.
Cụ thể, văn hố doanh nghiệp thể hiện trên hai mặt: mục đích kinh doanh và
phương pháp kinh doanh, trong đĩ mục đích kinh doanh là quyết định.
Về mục đích kinh doanh, thường cĩ hai điểm chung như sau:
- Đạt hiệu quả cao, tức là lợi nhuận tối đa cho cá nhân và cho cộng đồng và
hiệu quả xã hội. Điều cần phải coi trọng là mục đích lợi nhuận và hiệu quả cá
nhân, vì đĩ là động lực trực tiếp của mỗi doanh nhân khi tiến hành kinh doanh;
nhưng cũng cĩ trường hợp mục đích lợi nhuận và hiệu quả cá nhân mâu thuẫn
với mục đích và hiệu quả xã hội; muốn đảm bảo sự thống nhất giữa mụ đích
cá nhân và mục đích cộng đồng thì cần phải xác định đúng mức độ của từng
mcụ đích và phương pháp để đạt cả hai phần mục đích.Xác định cho đúng mức
độ và phương pháp, đĩ chính là văn hố doanh nhân.
- Cĩ tính nhân văn, thể hiện về hai mặt: đối với con người và đối với thiên
nhiên. Đối với con người (là quan trọng nhất ) đĩ là đáp ứng đến mức cao nhất
nhu cầu của con người; là tơn trọng phẩm giá, nhân cách con người, loại trừ
việc xây dựng sự giầu cĩ của mình trên sự khánh kiệt của người khác; cũng là
khơng chơi xấu, dùng những thủ đoạn, mánh khoé, cạm bãy để hại nhau trong
kinh doanh. Đối với thiên nhiên, đĩ là gắn kinh doanh với bảo vệ mơi trường
sinh thái, khơng làm ơ nhiễm, huỷ hoại mơi trường cũng tức là bảo đảm sự
bền vững của mỗi doanh nhiệp cũng như của tồn bộ nền kinh tế.
Về phương pháp kinh doanh (phong cách kinh doanh) cũng tức là doanh nghịêp
đạt tới mục đích bằng con đường nào với những nguồn lực nào. Tuy mục đích
kinh doanh là nhân tốa quyết định nhưng phương pháp kinh doanh lại liên quan
chặt chẽ đối với việc thực hiện mục đích, cĩ nghĩa là khơng thể đạt mục đích
băng bất cứ mục đích nào mà phải tuân theo những nguyên tắc luật pháp và đại
đức trong khi thực hiện cac phương pháp kinh doanh, đĩ chính là văn hố trong
phương pháp kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong thực tế, cĩ những điểm chung về phương pháp kinh doanh, đĩ là:
- Tuân thủ pháp luật (kể cả pháp luật quốc gia, quốc tế cũng như điều lệ, nội
quy của từng doanh nghiệp); bảo đảm minh bạch, cơng khai trong kinh doanh.
- Chú trọng khoa học quản lý, tuân theo các nguyên lý quản lý khoa học, dựa
vào khoa học mà tổ chức bộ máy quản lý, thực hiện các phương pháp kinh
doanh.
- Dựa vào vào khoa học, kỹ thuật, vận dụng cơng nghệ tiên tiến trong điều
hành sản xuất kinh doanh.
- Chú trọng quan hệ con người (đây cũng là một khuynh hướng mới của
phương pháp kinh doanh hiện đại); phát huy năng lực xã hội (cũng cịn gọi là
vốn xã hội) bao gồm năm nhân tố: giới lãnh đạo chính trị, quan chức quản lý, trí
thức, doanh nhân, và người lao động; quan trọng nhất là khơi dậy và phát huy
tổng hợp các tiềm năng, thực hiện sự cố kết của các nhân tố đĩ vì mục tiêu
chung.
Cĩ thể coi đĩ là những điểm chung nhất của văn hố doanh nghiệp. Những điểm
chung đĩ được vận dụng cụ thể trong từng thời kỳ nhất định, chịu ảnh hưởng
của chế độ sở hữu , hệ thống thể chế (trong đĩ chủ yếu là thể chế chính trị,
thể chế kinh tế, thể chế hành chính, thể chế văn hố) của từng nước mà cĩ
những thay đổi theo những chiều hướng khác nhau. Điều quan trọng cần nhấn
mạnh là mục đích kinh doanh quyết định phương pháp kinh doanh; mục đích
kinh doanh nĩi lên tầm vĩc cao, thấp của văn hố doanh nghiệp.
Về văn hĩa doanh nghiệp Việt Nam
Văn hĩa doanh nghiệp Việt Nam được hình thành là một phần quan trọng của
văn hĩa Việt Nam được lưu truyền và bồi đắp từ thế hệ này đến thế hệ khác
mà chúng ta cần gìn giữ và bồi đắp tiếp trong giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện
đại hố hiện nay và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Văn hố doanh nghiệp
nước ta tiếp thu những nhân tố văn hố trong kinh doanh hình thành qua nhiều
năm của các nền kinh tế hàng hố trên thế giới, đồng thời tíêp thu và phát huy
những tinh hoa văn hố trong kinh doanh của cha ơng, vận dụng phù hợp với đặc
điểm của xã hội ngày nay, đĩ là hiện đại hố truyền thống đi đơi với sự truyền
thống hố hiện đại. Chỉ cĩ như vậy mới kết hợp được tốt truyền thống và hiện
đại, đĩ là sự kết hợp cĩ chọn lọc và nâng cao, từng bước hình thành văn hố
doanh nghiệp mang đặc sắc Việt Nam.
Cĩ thể nêu lên một số điểm nổi bật về văn hố doanh nghiệp nước ta trong giai
đạon hiện nay như sau:
Trước hết, từ cơng cuộc đổi mới được bắt đầu đến nay, ở nước ta đã dần dần
hình thành mục đích kinh doanh mới, đĩ là kinh doanh vì lợi ích của mỗi doanh
nghiệp và lợi ích của cả dân tộc. Đương nhiên, tranh thủ lợi nhuận tối đa là
động cơ thúc đẩy ý trí kinh doanh của các doanh nghiệp, của mỗi doanh nhân,
chúng ta cần đặc biệt quan tâm, khơng vì nhấn mạnh lợi ích chung mà coi nhẹ
mục đích kinh doanh của mỗi cá nhân doanh nhân. Song, ngay trong thời kỳ Pháp
thuộc, chúng ta cũng cĩ những doanh nhân khơng chỉ làm giàu cho mình mà cịn
làm giàu cho đất nước như Bạch Thái Bưởi, vừa làm giàu vừa quan tâm những
hoạt động xã hội từ thiện như Nguyễn Sơn Hà. Ngày nay, mục đích kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp gắn với cơng cuộc phát triển kinh tế của đất nước, vì
lợi ích của cá nhân, gia đình và lợi ích của cả đất nước, dân tộc. Khác với
doanh nhân các nước kinh tế phát triển và cũng khơng nên bị nhìn nhận như giai
cấp bĩc lột, doanh nhân nước ta ngày nay cũng cĩ nỗi nhục của một dân tộc kiên
cường, thơng minh mà vẫn phải chịu cảnh lạc hậu, kém phát triển. Mỗi doanh
nghiệp phát triển khơng chỉ vì bản thân doanh nhân, mà cịn vì sự phát triển của
quê hương, của mỗi huyện, tỉnh; động cơ đĩ thúc đẩy mỗi doanh nhân vươn lên.
Mục đích ấy đang được thể hiện ngày càng rõ nét trong chiến lược phát triển
của mỗi doanh nghiệp; cũng đã được thể hiện trong các doanh nghiệp cĩ hàng
hố được người tiêu ding bình chọn đạt chất lượng cao trong những năm gần
đây.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng mục đích kinh doanh của mỗi doanh nhân ở
nước ta hiện nay cũng rất đa dạng về tính chất, bởi vì lẽ sống của con người là
đa dạng, phong phú, nhiều màu vẻ, nhất là trong điều kiện nền kinh tế đang
trong giai đoạn chuyển đổi, thể chế kinh tế cũng đang được chuyển đổi từng
bước. Qua các cuộc kiểm tra xã hội học, cĩ thể thấy một số khuynh hướng nổi
bật như: cĩ những người chỉ mong kiếm được nhiều tiền; cũng cĩ người muốn
qua kinh doanh mà, cĩ danh tiếng lớn, uy tín và địa vị xã hội cao; cĩ người muốn
vươn lên, tiếp nỗi truyền thống gia đình, báo hiếu cha mẹ; lại cĩ những người
kinh doanh vì khao khát tự hồn thiện bản thân, cĩ ý chí mạnh về sự phát triển tự
do của con người trong chế độ xã hội mới, v.v…
Hai là, văn hố doanh nghiệp địi hỏi gắn bĩ chặt chẽ hiệu quả kinh doanh và tính
nhân văn trong kinh doanh; khơng thể đạt hiệu quả bằng bất cứ giá nào mà coi
nhẹ những giá trị nhân văn (tơn trọng con người, bảo vệ mơi trường). Điều
đặc biệt quan trọng là nâng cao tinh thần cộng đồng dân tộc trong mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, một đặc điểm của văn hố
doanh nghiệp mà chúng ta cần xây dựng: chúng ta đề cao ý chí tự lập, tự cường,
sức vươn lên của mỗi doanh nghiệp, đồng thời huy động tính cộng đồng, tính
truyền thống "chị ngã, em nâng" của dân tộc. Đồng thời chúng, khuyến khích
doanh nghiệp tham gia các hoạt động xã hội, như xố đĩi giảm nghèo, cứu trợ
đồng bào gặp thiên tai, tham gia các hoạt động từ thiện.v.v…
Điều cần nhấn mạnh hiện nay là khắc phục chủ nghĩa thực dụng, dùng mọi
thủ đoạn để đoạt lợi nhuận cao, thậm chí siêu lợi nhuận, bất kể việc làm đĩ cĩ
hại cho người khác, các thủ đoạn làm giàu bất chấp tình nghĩa, thậm chí làm
giàu trên sự đau khổ của đối tác, trên sự phá sản của những doanh nghiệp yếu
thế. Cĩ thể thấy rõ nhược điểm về mặt này của doanh nghiệp nước ta trong
nhiều trường hợp như cạnh tranh bất hợp pháp, tranh giành thị trường, đáng phê
phán nhất là những thủ đoạn hạ giá, phá giá khi xuất khẩu hàng hố. Trong bối
cảnh kinh tế thế giới và khu vực hiện nay, khi cuộc cạnh tranh về chất lượng
và giá cả hàng hố diễn ra gay gắt, chúng ta đề cao việc nâng cao khả năng cạnh
tranh của mỗi doanh nghiệp lại càng phải đề cao tính tập thể, truyền thống đồn
kết dân tộc trong kinh doanh.
Do vậy, cần đặc biệt phát huy vai trị của các hiệp hội doanh nghiệp. Đĩ là
những tổ chức xã hội – nghề nghiệp nhằm khai thác mọi nguồn lực của xã hội,
kể cả thu hút tài trợ từ bên ngồi, để phát triển các hoạt động trợ giúp một cách
trực tiếp, cĩ hiệu quả thiết thực, khắc phục những yếu kém của doanh nghiệp.
Các hiệp hội doanh nghiệp cĩ thể cung cấp nhiều loại dịch vụ đa dạng cho hội
viên (như cung cấp thơng tin, tư vấn, đào tạo), cùng nhau thương thảo giải
quyết những vấn đề cụ thể mà tong doanh nghiệp riêng lẻ khơng tự giải quyết
được để bảo đảm lợi ích của mỗi ngành nghề, bảo đảm văn hố doanh nghiệp,
khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Đương nhiên, lợi ích của doanh
nghiệp phải gắn bĩ hài hịa với lợi ích của cộng đồng, của tồn xã hội, khơng nên
chỉ đơn thuần coi trọng lợi ích của doanh nghiệp cùng ngành nghề trở thành lợi
ích phường hội.Đồng thời hiệp hội doanh nghiệp cũng được tạo điều kiện để
làm tốt vai trị cầu nối giữa hội viên với cơ quan của Chính phủ, đại diện và
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, nhất là trong việc tham gia soạn
thảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Ba là, hình thành và phát huy văn hố doanh nghiệp trước hết là phải dựa vào con
người. Đĩ là vì phát triển doanh nhân khơng chỉ tăng vốn, tăng lợi nhuận, tăng
thu nhập cho người lao động mà cịn phải tạo ra mơi trường văn hố doanh
nghiệp tiến bộ cũng tức là tạo ra một sức mạnh tổng thể cố kết và cổ vũ
người lao động trong doanh nghiệp lao động sáng tạo với niềm tin, một lý
tưởng cao đẹp.Văn hố doanh nghiệp là lý tưởng và các nguyên tắc chi phối
hành động của doanh nghiệp cũng như của mỗi thành viên là hệ giá trị tạo nên
nguồn lực cho sự phát triển bền vững của một doanh nghiệp, do vậy, càng cần
thiết phát huy nhân tố con người trong doanh nghiệp. Trình độ nhân lực của ta
hiện nay đang cịn thấp so với yêu cầu (kể cả trình độ của người lao động cũng
như của người quản lý doanh nghiệp) càng làm nổi bật ý nghĩa hết sức cấp
bách của việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người trong khi xây dựng văn
hố doanh nghiệp.
Cĩ thể nêu lên ba cấp độ trong việc phát huy nhân tố con người trong doanh
nghiệp; cấp độ thứ nhất là nâng cao năng lực tiềm tàng của mỗi cơng nhân,
viên chức (thơng qua biện pháp giáo dục, đào tạo về kinh tế, cơng nghệ, quản
lý ); cấp độ thứ hai là biến năng lực tiềm tàng đĩ thành hiện thực, thơng qua các
biện pháp khuyến khích, kích thích sức sáng tạo trong lao động sản xuất; cấp
độ thứ ba là tập trung cho được các tiềm lực cá nhân của cơng nhân viên chức
vào việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp , thơng qua các biện pháp tổ
chức quản lý sản xuất và nhân sự. Cấp độ thứ ba cĩ ý nghĩa đặc biệt quan trọng
bởi vì văn hố doanh nghiệp khơng phải kết quả của sự phát triển tự phát trong
quá trình sản xuất kinh doanh mà nĩ được định hướng xây dựng và hình thành
trong ý thức tự giác của người quản lý doanh nghiệp, biểu hiệnn tập trung
quản lý doanh nghiệp, bởi người quản lý doanh nghiệp. Do vậy, phải đào tạo
và trọng dụng đội ngũ doanh nhân nắm được và vận dụng được văn hố doanh
nghiệp vào trong tong hoạt động sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp, trong
quan hệ với các đối tác cũng như trong cơng việc quản lý, điều hành nội bộ
doanh nghiệp .
Bốn là, văn hố doanh nghiệp của từng doanh nghiệp Việt Nam cĩ những nét
chung của văn hố doanh nghiệp Việt Nam và những nét riêng của từng doanh
nghiệp. Những nét riêng ấy là của quý đặc sắc, là truyền thống tốt đẹp, độc
đáo của từng doanh nghiệp. Ví dụ nét độc đáo của doanh nghiệp A la rất nhã
nhặn, chu đáo với khách hàng và đối tác, nét độc đáo của doanh nghiệp B là
nhiều sáng kiến vận dụng cơng nghệ cao, nét độc đáo của doanh nghiệp C là
tận tình bồi dưỡng, đào tào nguồn nhân lực và phát triển con người.
Mỗi doanh nghiệp phải hình thành được những nét chung của văn hố doanh
nghiệp Việt Nam và tạo lập được một số nét riêng. Khơng trộn lẫn dược của
văn hố doanh nghiệp mình. Cĩ thể nĩi văn hố doanh nghiệp là cái nhãn hiệu, cái
"mác" vinh quang của doanh nghiệp, niềm tự hào của doanh nghiệp (và cĩ thể
của cả ngành, cả địa phương, cả đất nước) được lưu truyền và bồi đắp từ thế
hệ này sang thế hệ khác các cơng nhân và cán bộ của doanh nghiệp. Chúng ta
đang nhấn mạnh việc tạo dựng và bảo vệ thương hiệu của doanh nghiệp; đĩ là
vì thương hiệu là một bộ phận khơng thể thiếu của văn hố doanh nghiệp, thể
hiện uy tín, vị thế của sản phẩm, của doanh nghiệp, là tài sản được xây dựng,
tích tụ một cách cĩ ý thức trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. Thương
hiệu là niềm tự hào của doanh nghiệp, tạo ra niềm tin của người tiêu dùng đối
với sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng; trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu càng cĩ ý nghĩa
cấp bách.
Mơi trường cho văn hố doanh nghiệp
Cĩ thể thấy rõ: văn hố doanh nghiệp bao gồm các yếu tố pháp luật và đạo đức.
Văn hố doanh nghiệp khơng thể hình thành một cách tự phát mà phải được hình
thành thơng qua nhiều hoạt động của bản thân mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh
nhân, của Nhà nước và các tổ chức xã hội. Thực tiễn cho thấy hệ thống thể
chế, đặc biệt là thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế hành chính, thể chế
văn hố tác động rất sâu sắc đến việc hình thành và hồn thiện văn hố doanh
nghiệp.
Xin nêu lên một số điểm về thể chế cần được quan tâm để hình thành và ngày
càng hồn thiện văn hố doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm nước ta.
Trước hết, đĩ là khơi dậy tinh thần kinh doanh trong nhân dân, khuyến khích
mọi người, mọi thành phần kinh tế cùng hăng hái tìm cách làm giầu cho mình
và cho đất nước. Xố bỏ quan niệm cho kinh doanh là xấu, coi thường thương
mại, chỉ coi trọng quan chức, khơng coi trọng thậm chí đố kỵ doanh nhân. Xố
bỏ tâm lý ỉ lại, dựa vào bao cấp của Nhà nước, đề cao những nhân tố mới trong
kinh doanh, những ý tưởng sáng tạo, sáng kiến tăng năng xuất lao động, tăng
khả năng cạnh tranh của hàng hố. Tơn vinh những doanh nhân năng động, sáng
tạo, kinh doanh đạt hiệu quả cao, cĩ ý chí vươn lên, làm rạng rỡ thương hiệu
Việt Nam trên thị trường thế giới.
Trong thực tế, trải qua những năm đổi mới, bằng thể nghiệm của bản thân
cũng như của mỗi gia đình, ngày nay, nhân dân ta đã thấy rõ việc chuyển đổi từ
kế hoạch hố tập trung sang thể chế kinh tế thị trường là tất yếu; thái độ của
dân chúng đối với kinh tế thị trường là thái độ thiện cảm. Vấn đề cịn lại là các
cơ quan Nhà nước phải tiếp tục thay đổi tư duy quản lý, đề xuất những chủ
trương, chính sách quản lý đủ mạnh để khuyến khích hơn nữa tinh thần kinh
doanh trong các thành phần kinh tế, tạo mơi trường thuận lợi về thể chế và tâm
lý xã hội cho sự phát triển kinh tế tư nhân, xố bỏ sự phân biệt đối xử đối với
kinh tế tư nhân kể cả trong tư duy cũng như trong các chủ trương, chính sách
cụ thể.
Hai là, Nhà nước cần tiếp tục hồn chỉnh hệ thống thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường,
từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm nước ta.
Thực tế cho thấy, thể chế kinh tế cĩ tác động rất lớn đối với việc hình thành
văn hố doanh nghiệp. Do đĩ, điều cần nhấn mạnh là thể chế kinh tế phải đủ
sức khuyến khích doanh nhân phát huy truyền thống văn hố trong kinh doanh
của cha ơng, bổ sung những nhân tố mới trong văn hố doanh nghiệp của thời
đại, kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống và hiện đại, bảo đảm cho kinh tế thị
trường triển khai lành mạnh, đạt hiệu quả cao, văn hố doanh nghiệp được hình
thành với những đặc điểm của nước ta.
Thể chế đĩ phải chú trọng khuyến khích doanh nghiệp xác định đúng đắn chiến
lược kinh doanh, cĩ mục tiêu phấn đấu lâu dài nâng cao sức cạnh tranh, cĩ
chương trình làm ăn căn cơ theo định hướng quy hoạch, kế hoạch chuyển đổi
cơ cấu của nền kinh tế, khơng những phải thành cơng trong nước mà cịn vươn
ra thế giới, đạt hiệu quả cao trong hội nhập kinh tế quốc tế, khắc phục tâm lý
kinh doanh cị con, manh mún, khơng đầu tư lớn, làm ăn lâu dài.
Thế chế đĩ cũng phải khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các biện pháp hợp
pháp trong việc mưu cầu lợi ích cá nhân, đạt lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và
doanh nhân, đương nhiên cĩ sự kết hợp hài hồ với lợi ích tồn xã hội nhưng
khơng vì thế mà đi đến triệt tiêu lợi ích cá nhân cũng tức là triệt tiêu dộng lực
kinh doanh. Đồng thời, phải ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, gian
lạn thương mại, những kiểu làm ăn phi văn hố, chạy chat cvửa sau, lợi dụng
các quan hệkhơng lành mạnhk để kiếm lời. Doanh nghiệp phải tơn trọng, đặc
biệt là giữ chữ tín đối với khách hàng và đối tác kinh doanh.
Thể chế đĩ phải khuyến khích mọi thành phần kinh tế, khắc phục phân biệt đối
xử, bảo đảm cho các thành phần kinh tế hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trong
khuơn khổ luật pháp; khắc phục tình trạng biến độc quyền nhà nước thành độc
quyền doanh nghiệp, tạo ra cạnh tranh khơng bình đẳng, tạo ra cạnh tranh
khơng bình đẳn, những khoản lợi nhuận khơng do tài năng kinh doanh của
doanh nghiệp mà do vị thế độc quyền mang lại, những điểm dẫn đến triệt tiêu
văn hố doanh nghiệp. Điều cấp bách là Nhà nước phải cĩ các qui phạm pháp
luật về khuyến khích cạnh tranh hợp pháp, kiểm sốt và hạn chế độc quyền.
Thể chế đĩ cũng phải chú trọng nhân tố con người, phát triển con người, đặc
biệt coi trọng việc bồi dưỡng nhân tài, đãi ngộ xứng đáng, tơn vinh doanh nhân
giỏi. Trong doanh nghiệp, đĩ là đảm bảo thu nhập hợp pháp của chủ doanh
nghiệp tư nhân, là tơn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, đối
xử bình đẳng, tạo ra mơi trường hồ thuận, sự cố kết, chung sứ chung lịng tập
trung vào việc thực hiện mục tiêu kinh doanh, vì sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp và lợi ích của mỗi thành viên trong doanh nghiệp.
Ba là, việc hình thành văn hố doanh nghiệp cũng địi hỏi đẩy mạnh cuộc cải
cách hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp và hiện đại
hố. Đây là một yêu cầu hết sức bức xúc đối với tồn bộ sự phát triển kinh tế
đất nước ũng như đối với việc hình thành văn hố doanh nghiệp nước ta hiện
nay. Điều cần nhấn mạnh hiện nay là tiếp tục xố bỏ cơ chế "xin-cho", xố bỏ
những thủ tục hành chính rườm rà gây tốn kém, tăng chi phí đầu tư và giảm
năng lực cạnh tranh của hàng hĩ. Phải sắp xếp lại bộ máy tinh gọn, khắc phục
chồng chéo, quan liêu, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy hành chính
trong quản lý điều hành. Việc lành mạnh hố cán bộ, cơng chức là rất cần thiết
để khắc phục tình trạng một số cơng chức do kém năng lực và phẩm chất
khơng những đã làm sai lệch những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà
nước gây trở ngại, phiền hà dối với doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh,
mà trong khơng ít trường hợp đã câu kết, tiếp tay cho những hành vi tiêu cực, vi
phạm pháp luật của doanh nghiệp, làm xấu văn hố doanh nghiệp.
Rất cần phát triển một cáh thường xuyên, định kỳ các cuộc tiếp xúc trực tiếp
giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp, để cùng trao đổi ý kiến về việc thực
hiện các cơ chế, chính sách, qua đĩ doanh nghiệp hiểu thêm nội dung các cơ
chế, chính sách và cơ quan Nhà nước cũng nghe được tâm tư, nguyện vọng của
doanh nghiệp, nắm thêm thực tế giúp cho việc hoạch định chính sách được sát
thực tế hơn. Các cơ quan Nhà nước cần tạo thĩi quen làm việc với hiệp hội
doanh nghiệp, tơn trọng vcác quyền của Hiệp hội, lắng nghe và giải quyết
đúng pháp luật những kiến nghị của Hiệp hội doanh nghiệp. Đây cũng chính là
một nội dung quan trọng trong văn hố quản lý.
Như vậy, văn hố doanh nghiệp chỉ cĩ thể được xây dựng và hình thành trong
mơi trường văn hố lãnh đạo, văn hố quản lý được đổi mới, nâng cao, đúng tầm,
cĩ ảnh hưởng tích cực trở lại đối với văn hố doanh nghiệp.