Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam
Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã xúc tiến thành lập một chính Đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam và Người đã cùng Trung Ương Đảng ta trực tiếp lãnh đạo cách mạng, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam
GÓP PHẦN TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG VIỆT
NAM
NGÔ QUANG ĐỊNH (*)
Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã xúc tiến
thành lập một chính Đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam và Người đã cùng Trung ương Đảng ta
trực tiếp lãnh đạo cách mạng, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam vượt qua
mọi gian khổ, khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống
ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong
cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả đời. Đề cập đến tư tưởng của Người
về vấn đề nêu trên, chúng tôi xin trình bày khái quát một số quan điểm lớn sau đây:
Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành
độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước.
Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi,
mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm
lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự
do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân
xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư
tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và
của cả nhân loại có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng
đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt
Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử.
Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, họp ngày
29 tháng 12 năm 1920: Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản
đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi
hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ
quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.” (1)
Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe
Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ông ta mong muốn của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái
mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…” (2)
Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói chuyện với đồng chí Võ Nguyên
Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải cương quyết giành cho được độc lập.” (3)
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, Hồ
Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập tự do.” (4)
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ
quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền
độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc
lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi
người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc
còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống
bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân
tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách
bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc.
Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường
ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng
có ý nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt
Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết
định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo
nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của
nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành.” (5)
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải quyết một cách triệt để và thiết
thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được ước nguyện đó nhân dân
các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư không
chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp
và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những người sáng lập ra học thuyết cách mạng
và khoa học của thời đại cũng chính là ở chỗ đó.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có
và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph.
Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ
không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ
sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là
thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn,
hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có
thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ…
tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã
hội.” (6)
Thứ ba, phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta khồng hề có dân tộc lớn
(dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ (dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc
với nhau là quan hệ anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana…
đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng
nhau, nó đói giúp nhau.”(7)
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến dùng chính sách “chia để trị”
nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm hãm các dân tộc trong vòng nghèo nàn và dốt nát, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ tính ưu việt của chế độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt
Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết
chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào
miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt.” (8)
Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch chống phá cách mạng để lại ở Việt
Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu quả đó nhằm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào miền xuôi cũng như miền ngược, Hồ Chí Minh
luôn coi trọng tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em ở trong nước. Bởi,
chỉ có trên cơ sở đoàn kết mới tạo nên sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng
lợi các mục tiêu của cách mạng đã đề ra.
Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thức Tám (5 – 1941), nhận thấy cơ hội cứu nước đang đến
gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào cả nước, trong thư Người viết: “…Hỡi các bậc phú hào yêu
nước, thương nòi! Hỡi các bạn công nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương! Trong lúc
này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và
bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng.” (9)
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đoàn kết dân tộc, mà chính Người là hiện thân của
sự đoàn kết đó, là người trực tiếp tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống lại
mọi biểu hiện gây chia rẽ, hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện tình đoàn kết trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn kết trong cách mạng Việt Nam được Người tổng kết
thành 14 chữ vàng như sau:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia
đình các dân tộc Việt Nam, xuất phát từ hoàn cảnh và điều kiện sống của các dân tộc ở Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người, sống ở miền núi, vùng sâu và vùng xa
của đất nước. Bởi, theo Người so với đồng bào sống ở miền xuôi, vùng đồng bằng và đô thị, thì đời
sống của đồng bào ở miền núi, xét trên mọi phương diện, còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế
cho thấy, miền núi và vùng sâu, vùng xa của đất nước ta, là nơi có điều kiện tự nhiên không thuận lợi,
trình độ sản xuất và văn hoá của nhân dân nơi đây còn rất thấp. Nơi ăn, chốn ở, trường hợc, cơ sở y tế
và giao thông đi lại còn nhiều khó khăn và thiến thốn. Bên cạnh đó, do trình độ dân trí thấp nên những
thủ tục lạc hậu, mê tín, di đoạn còn rất nặng nề.
Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta – nơi làm ăn sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc ít người,
là nơi giáp biên giới với số nước láng giềng, xa đồng bằng, địa bàn hiểm trở, dân cư thưa thớt, nhiều
vùng vốn là căn cứ địa cách mạng quan trọng của cách mạng Việt Nam trước đây. Bởi vậy, quan tâm
đến đồng bào dân tộc ít người vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh trong chế độ mới,
vừa có ý nghĩa kinh tế và quốc phòng to lớn đối với cả hiện tại và tương lai của đất nước.
Sự quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí Minh, là trách nhiệm của toàn
Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương, bằng những việc
làm cụ thể và thiết thực.
Thứ tư, phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân thiện với người nước
ngoài sống ở Việt Nam.
Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến một thực tế của đời
sống thế giới, là người dân của nước này đến cư trú và
làm ăn sinh sống ở nước khác và ngược lại. Giải quyết
thực trạng đó ở mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi chính đảng,
thậm chí với từng nhà lãnh đạo có những quan điểm và
chủ trương chính sách khác nhau.
Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, thương yêu họ, kêu gọi họ
hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất tổ của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu
Hồng” của đất Việt. Đồng thời, Người cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân
thiện với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp của họ. Trong những năm chiến tranh và cách
mạng, với lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước
phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trong đó có người đã trở thành anh hùng của Việt Nam.
Đối với người nước ngoài sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn thể hiện thái độ ôn hoà và thân thiện với
họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về (23 tháng 10 năm 1946), Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Người Pháp ở Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt đối với người Pháp cũng nên thân
thiện. Đối với quân đội Pháp ta phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp ta phải ôn hoà. Để tỏ cho thế giới
biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho số người Pháp ủng hộ ta càng thêm đông, sức ủng hộ
càng thêm mạnh. Để cho những kẻ thù khiêu khích muốn chia rẽ, không có thể và không có cớ mà
chia rẽ. Để cho công cuộc thống nhất và độc lập của chúng ta chóng thành công.” (10)
Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thể hiện quan điểm trước sau như một là đoàn
kết, thân thiện và bảo vệ tài sản, tính mạng cũng như quyền làm ăn chính đáng của họ trên đất nước
Việt Nam, như công dân Việt Nam. Theo Người, chẳng phải hôm qua hôm nay người Hoa kiều mới
đến Đông Dương. Họ đã ở đây, họ đã luôn giữ một địa vị rất quan trọng trong đời sống kinh tế của
Đông Dương. Nhưng chưa bao giờ lại có những cuộc xung đột giữa người Việt Nam với người Hoa trên
đất nước Việt Nam.
Trong “Thư gửi anh em Hoa kiều” nhân ngày Độc lập 2 – 9 – 1945, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hai dân tộc
Trung Việt chúng ta, mấy ngàn năm nay, huyết thống tương thông, chung nền văn hoá, trong lịch sử
vẫn được gọi là hai nước anh em; hơn nữa, đất nước liền kề, núi sông kế tiếp, càng như môi vớI răng
che chở cho nhau. Ngót trăm năm nay, đế quốc xâm lược Viễn Đông, giặc Pháp cưỡng chiếm nước ta,
lấy đó làm bàn đạp xâm lược Trung Quốc. Hai dân tộc anh em phương Đông chúng ta lại chịu chung
nổi khổ cực bị áp bức và xâm lược.”
Xuất phát từ quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc và hai nước anh em, trong thư, Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh đến chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đối với bà con Hoa Kiều đang làm ăn, sinh
sống ở Việt Nam: “Chính phủ nhân dân lâm thời Việt Nam đã lập tức tuyên bố xoá bỏ mọi luật pháp
của Pháp trước đây áp đặt lên Hoa kiều, xác định chính sách cơ bản là bảo đảm tự do, hoan nghênh
Hoa kiều cùng nhân dân Việt Nam chung sức xây dựng nước Việt Nam mới.
Mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì giải quyết với nhau theo
nguyên tắc hợp pháp lý với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau, không được vì những việc tranh
chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai dân tộc…” (11)
Ngoài ra, đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan điểm của Hồ Chí Minh là tôn trọng
nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc khác, đồng thời
thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Quan điểm đó của Người được khẳng
định trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (12)
Chẳng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung
thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và những quan điểm tư tưởng của Hồ
Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đề ra chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp
với xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã được cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận
với niềm phấn khởi và đầy tin tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh to lớn
để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
o0o
Tư tưởng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh những năm 20 của thế kỷ XX
(Cập nhật: 26/7/2007)
Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã tìm thấy con đường giải
phóng cho dân tộc mình theo con đường cách mạng vô sản, tức là đã tiếp thu lý luận về cách mạng
giải phóng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Người nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản và đã vận dụng sáng tạo lý luận vào việc giải quyết
nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phù hợp với đặc điểm lịch sử - xã
hội của nước ta.
Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về sự nghiệp và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, song chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu cơ sở hình thành, nội dung và giá trị lý
luận, thực tiễn của tư tưởng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh những năm 20 của thế kỷ XX. Trên
cơ sở các tư liệu lịch sử và có sự kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, đặc
biệt qua nghiên cứu các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh trong những năm này, tác giả Phạm Quốc
Thành đã biên soạn cuốn “Tư tưởng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh những năm 20 của
thế kỷ XX”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản.
Nội dung chủ yếu của cuốn sách được thể hiện qua việc phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá
trình hình thành, hoàn chỉnh và vận dụng đúng đắn, phát triển một cách sáng tạo lý luận về cách
mạng thuộc địa của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ
XX. Các quan điểm cách mạng sáng tạo của Hồ Chí Minh được hiện thực hóa trong xã hội Việt Nam,
đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đồng thời cuốn sách cũng nêu
bật những giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Tiểu luận môn tư tưởng Hồ Chí Minh
Lời nói đầu
Lịch sử cách mạng của nước ta gần 70 năm qua gắn liền với tên tuổi sự
nghiệp, tư tưởng và đạo đức Nguyễn Ái Quốc
-
Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách
mạng Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh
ra biết bao tên tuổi vĩ đại nhưng không ai có sự nghiệp lừng lẫy như Chủ tịch
Hồ Chí Minh, không ai có được tầm vóc thời đại, được thế giới ca ngợi và
thừa nhận như Hồ Chí Minh.
Địa vị có một không
hai trong lịch sử dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được xác lập và củng
cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống hiến
cho cách mạng Việt Nam.
Công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa Người
lên địa vị người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng, nhà lí luận
sáng tạo của chủ nghĩa Mác
-
LêNin được các dân tộc đang đấu tranh giải phóng và nhân loại tiến bộ hết
lòng ca ngợi và khâm phục.
Thực tế lịch sử gần 80 năm qua đã chứng tỏ: thắng lợi của cách mạng Việt
Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác
-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một thực tế khác cũng cho thấy: khi nào
chúng ta xa rời hoặc quán triệt không đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh thì sẽ
không tránh khỏi vấp váp và sai lầm. Cùng với chủ nghĩa
Mác-
LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh quyết định sự thành bại của cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng của Người không chỉ có ý nghĩa dân tộc mà còn có ý nghĩa với
toàn nhân loại.
Chính vì thế em chọn
đề tài tìm hiểu về những
đóng góp của Hồ chí Minh đối với cách mạng Việt
Nam
. Để tìm hiểu rõ hơn vai trò lớn lao của Hồ Chí Minh cũng như tấm gương
cao cả của Người .
Bài tiểu luận được chia thành các chương chính sau:
+ Chương 1: Nhũng đóng góp của
Bác về mặt lý luận và tư tưởng, trong việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
+ Chương 2: Những đóng góp trong Cách Mạng Thang 8, cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mĩ xâm lược.
+ Chương 3: Những đóng góp trong cuộc cách mạng về văn hóa giáo dục
+ Chương 4: Tư tưởng của Người đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
+ Chương 5: Cảm
nhận bản thân và vai trò của Người đối với thế hệ trẻ hiện nay.
Chương 1: Những đóng góp của Bác về mặt lý luận và tư tưởng, và việc
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là
Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên
là Nguyễn ái Quốc), sinh ngày 19
-5-
1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất
ngày 2
-9-1969
tại Hà Nội.
Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một nhà nho yêu nước, nguồn gốc
nông dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày.
Ngày 3-6-
1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động cách
mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc
lập, tự do của dân tộc
mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác
-
Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước
thuộc địa. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại
hội Tua. Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc
địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người
được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự
Đại hội lần thứ V của Quốc tế
Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực
tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản
án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh
(1927).
Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở
Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức “Cộng sản đoàn” làm nòng cốt cho Hội
đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác
-Lênin
vào Việt Nam.
Ngày 3-2-
1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương
Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều
lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam (sau
đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là
Đảng Cộng sản Việt Nam ).
Những năm tuổi trẻ bôn ba nước ngoài Người đã tìm ra đường lối cứu nước,
giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Muốn giành được độc
lậ p
không còn
con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản, đó là con đường kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Từ đó
chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối mở ra một thời đại mới vô cùng
oanh liệt trong lịch sử dân tộc và thời đại Hồ Chí Minh.
Người đã có công trong việc truyền bá và vận dụng sáng toạ chủ nghĩa Mác –
LêNin vào Việt Nam, vận dụng thế giới quan và phương pháp luận Mác
-
LêNin để đánh thức tiềm năng, tinh thần truyền thống Việt Nam, bồi dưỡng
nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Viêt Nam.
Người đã xây dựng nhiều tiền đề tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời
của chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam và đã thống nhất các tổ
chức cộng sản đầu tiên ở trong nước để sáng lập nên Đảng cộng sản Việt
Nam.
Chủ nghĩa Mác
-
Lê nin được Người vận dụng thành công cho cáh mạng Việt Nam. Người
khẳng định:
Chủ nghĩa Mác
- Lê-
nin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, "muốn cách
mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lê
-
nin". Đối với Người, chủ nghĩa Mác
- Lê-
nin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa M
ác - Lê-
nin, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác
- Lê-
nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tố
t
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại" (2)
Ở luận điểm này, có hai vấn đề cần làm rõ:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác
- Lê-nin,
lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng
là sự kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật
là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, cả phương Đông và phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái
độ của mình đối với việc học tập, tiếp thu những học thuyết của các lãnh tụ
chính trị, xã hội, tôn giáo trong lịch sử. Người nói: "Học thuyết Khổng Tử có
ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng
nhân ái cao cả.Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với
điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê
-
su, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ
đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội...". Tôi
cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy"(3). Như vậy, tư tưởng Hồ Chí
Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác
- Lê-
nin, bắt nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác
- Lê-
nin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa Mác
- Lê-
nin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền thống Việt
Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác
- Lê-nin,
trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lê-nin.
*******Hồ Chí Minh (chữ Hán: : ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là
một nhà cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu
tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Ông là người viết và đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm
1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước trong thời gian 1945-1969, Chủ
tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 - 1969,
kiêm Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng từ 10/1956 đến 1960. Là nhà lãnh đạo
được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, lăng của ông được xây ở Hà Nội, nhiều tượng
đài của ông được đặt ở khắp mọi miền Việt Nam, hình ảnh của ông được nhiều người
dân treo trong nhà, đặt trên bàn thờ [1], và được in ở hầu hết mệnh giá đồng tiền Việt Nam.
Ông được thờ cúng ở một số đền thờ và chùa Việt Nam[2]. Ông đồng thời cũng là một nhà
văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng cả tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Pháp
và tiếng Nga và tiếng Anh.
Hoạt động ở nước ngoài
Bài chi tiết: Hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1911-1941
Thời kì 1911-1919
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với
nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi
những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-
cuối 1913), ông quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách
sạn. Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
Thời kì ở Pháp
Tấm biển đồng gắn tại nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17 Paris: "Tại đây, từ năm 1921-
1923, Nguyễn Ái Quốc đã sống và chiến đấu vì quyền độc lập và tự do cho nhân dân Việt
Nam và các dân tộc bị áp bức"
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất
Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8
điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống
Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và
các đoàn đại biểu đến dự hội nghị[15]. Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt
Nam sống ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành,
cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc[16]. Từ đây, Nguyễn Tất Thành công
khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc[17] và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó[18].
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống
trị của thực dân Pháp
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin,
từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội
Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của
Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp
và tách khỏi đảng Xã hội. Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa
Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de
toutes les colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc.
Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng
khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa
đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp"
bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất
bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào
đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Thời kì ở Liên Xô lần thứ nhất
Nguyễn Ái Quốc, chụp tại Liên Xô năm 1923
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương
Đông. Tại đây ông đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến
ngày 15 tháng 10 năm 1923), ông được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế
Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8
tháng 7 năm 1924), ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương
Nam.
Thời kì ở Trung Quốc (1924-1927)
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm
phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa
Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.
Năm 1925, ông thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng
Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được phiên âm là Mác–
Lê-nin) vào Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Cuốn Đường Kách mệnh, mà ông là t ác giả, tập hợp các
bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
Hội, được xuất bản năm 1927.
Theo nghiên cứu của một số sử gia có tên tuổi tại Hoa Kỳ, Pháp, và Trung Quốc, trong thời
gian ở Quảng Châu, ông đã kết hôn với một thiếu nữ Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh
(ngày 18 tháng 10 năm 1926) và sống với nhau cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào
khoảng tháng 4 hoặc 5 năm 1927. Sau khi ông đã trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, cả hai người đã tìm nhau thông qua tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và
cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Trung Quốc nhưng không thành công.[19][20]
Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do
Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí
thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt
Nam, ông rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô. Tháng 11 năm 1927, ông
được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc từ
ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
Những năm 1928, 1929
Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Thái Lan, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và
huấn luyện cho Việt kiều.
Cuối năm 1929, ông rời Thái Lan sang Trung Quốc.
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (ử 9 , Kowloon) thuộc Hương Cảng, ông thống
nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng
Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng
sản Việt Nam").
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Thái Lan trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung
Hoa.
Những năm 1931 - 1933
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ (Sung Man Ch'o), Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm
quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Tờ
L'Humanité số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao
phổi trong trạm xá nhà tù tại Hồng Kông đồng thời tố cáo đây là âm mưu của thực dân
Pháp câu kết với thực dân Anh nhằm ám sát người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương[21]. Nhưng sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby[22],
Tống Văn Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Ông đi Thượng Hải rồi bí mật quay
trở lại Liên Xô.
Thời kì ở Liên Xô lần thứ hai
Ông đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở
Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Ông dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày
25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của ban thư ký Dalburo
với tên Linov[23]. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị buộc ở Liên Xô cho đến năm
1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà cầm quyền Hương Cảng
trả tự do[24]. Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê
phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng
đường lối đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản[25][26].
Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái
Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh
rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung
Quốc mùa đông 1938.
Trở về Việt Nam
Ông trở về Việt Nam vào ngày 28 tháng 1 năm 1941[27], ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh
Cao Bằng với bí danh Già Thu. Tại đây, ông mở các lớp huấn luyện cán bộ[28], cho in báo,
tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách
do ông dịch và viết về nhiều chủ đề. Tại cuối một cuốn sách như vậy ông ghi "Việt Nam
độc lập năm 1945"[29]. Ông cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội
phị lão cứu quốc, hội nông dân cứu quốc...
Tháng 5 năm 1941, hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao Bằng và
quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh). Ông là chủ tọa.
Từ khi bị giam ở Trung Quốc cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945
Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại
diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được ông
tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên
trong các giấy tờ cá nhân ông sử dụng tên Hồ Chí Minh, tuy vậy ông lại khai nhân thân là
"Việt Nam-Hoa kiều"[30].
Ông bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi đang đi
cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù.
Ông viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943).
Các đồng chí của ông (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh...) ở Việt Nam tưởng
lầm là ông đã chết (sau này nguyên nhân được làm rõ là do một cán bộ Cộng sản tên Cáp
nghe và hiểu sai ngữ nghĩa)[31]. Họ thậm chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn cho ông
(Phạm Văn Đồng làm văn điếu) cũng như "mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn
những gì có thể giữ lại làm kỉ niệm" (lời của Võ Nguyên Giáp). Vài tháng sau họ mới biết
được tình hình thực của ông sau khi nhận được thư do ông viết và bí mật nhờ chuyển về.
Sau khi được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành
Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Từ trước đó, Việt Minh cũng đã ra
tuyên bố ủng hộ Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Ông cũng cố gắng tranh thủ
Trương Phát Khuê, tướng cai quản vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Quốc Dân Đảng,
nhưng kết quả là hạn chế.
Cuối tháng 9 năm 1944, ông trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của ông ở Liên tỉnh ủy
Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... đã quyết định tiến hành phát động
chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Ông ngăn chặn thành công quyết định này[32].
Thay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu
quả hơn. Ông trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính thống và chính
quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng,
trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt
Minh. Cuối năm 1944, ông lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.
Ngay trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945, ông ốm nặng, tưởng không
qua khỏi [33].
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào
(Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh
làm chủ tịch.
Giai đoạn lãnh đạo
Từ Độc lập tới Toàn quốc kháng chiến
Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris, 1946
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên quảng trường
Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông trích dẫn
bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp
để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam[34].
Ông gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt
Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm
(Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman[35], Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng
Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp...).
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn cấp tập chống cự.
Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần Văn Giàu là chủ tịch. Xứ ủy và Ủy
ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản
thân ông gửi thư khen ngợi "lòng kiên cường ái quốc của đồng bào Nam Bộ"[cần dẫn nguồn].
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra Quốc
hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I của
Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại
biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Ông trở thành Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, ông cũng đảm nhiệm luôn công việc của thủ tướng. Chính phủ này, cho tới cuối
năm 1946, đã trải qua 3 lần thay đổi cơ cấu và nhân sự vào các thời điểm: ngày 1 tháng 1;
tháng 3; và ngày 3 tháng 11.
Nhà nước và chính phủ của ông đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối
ngoại. Về đối ngoại, khi này Việt Nam chưa được bất cứ quốc qia nào công nhận [36],
không phải thành viên Liên hiệp quốc[37], cũng như không nhận được sự ủng hộ nào về vật
chất của các nước cộng sản khác. Ngoài 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc,
còn có quân Anh và quân Pháp (vào thời điểm toàn quốc kháng chiến, tháng 12 năm 1946,
Pháp có quãng 6 vạn quân), và khoảng 6 vạn quân Nhật. Về đối nội, "giặc đói, giặc dốt" -
như chính cách ông gọi - và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất[38][39].
Bởi thế ông thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. Ông nói: "chính
sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là khuất
phục"[40].
Với tập đoàn Tưởng Giới Thạch, ông chấp nhận sự hiện diện của Việt Cách, Việt Quốc
trong các chính phủ liên tục được thay đổi, chấp nhận 70 ghế cho Việt Quốc, Việt Cách
trong quốc hội không cần qua bầu cử. Ông cũng cung cấp gạo (ban đầu kiên quyết từ
chối[41]) cho quân Tưởng. Quân Tưởng cũng được tiêu giấy bạc "kim quan" và "quốc tệ" tại
miền Bắc. Trước đó, tháng 10 năm 1945, khi Hà Ứng Khâm, tổng tham mưu trưởng của
quân đội Tưởng tới Hà Nội, hàng vạn người được huy động xuống đường, hô vang các
khẩu hiệu "Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh", "Ủng hộ chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa" để "đón tiếp".
Tháng 11 năm 1945, ông quyết định cho Đảng tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của ông
không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu
chủ nghĩa Mác ở Đông Dương[42].
Ông kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi
hàng ngũ lãnh đạo chính quyền[43].
Trước Quốc hội, ông tuyên bố: "Tôi chỉ có một Đảng - đảng Việt Nam"[44].
Theo Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, quân Pháp sẽ thay thế quân của
Tưởng Giới Thạch. Một tuần sau, ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông cùng Vũ Hồng Khanh ký
với Jean Sainteny - Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương - bản Hiệp định sơ bộ với
Pháp, với 3 nội dung chủ chốt:
• Pháp công nhận Việt Nam "là một nước tự do, là một phần tử trong Liên bang
Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp". Trước đó, đàm phán căng thẳng khi ông muốn
Việt Nam được công nhận là quốc gia độc lập và phản đối kịch liệt khi Pháp muốn
dùng chữ "Quốc gia Tự trị" để mô tả tổ quốc của ông.
• Pháp được đưa 1,5 vạn quân ra Bắc thế cho quân Tưởng, nhưng phải rút trong 5
năm, mỗi năm rút 1 phần 5 quân số.
• Ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ.
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, ông lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này;
cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành. Trước khi đi,
ông bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Huỳnh Thúc Kháng[45] với lời dặn "Dĩ bất biến,
ứng vạn biến"[46]. Tại Việt Nam, ông dự đoán thời gian ở Pháp là "...có khi một tháng, có
khi hơn"[47] nhưng cuối cùng ông ở Pháp 4 tháng (Hội nghị Fontainebleau diễn ra từ 6 tháng
7 tới 10 tháng 9 năm 1946) mà không tránh khỏi thất bại chung cuộc.
Ngày 14 tháng 9 năm 1946, ông ký với đại diện chính phủ Pháp, bộ trưởng Thuộc địa
Marius Moutet, bản Tạm ước (Modus vivendi), quy định đình chỉ chiến sự tại miền Nam,
và thời gian tiếp tục đàm phán vào đầu năm 1947.
Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận được
liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng chưa đầy một ngày, ông kí lệnh kháng chiến.
Tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do ông chấp bút được
phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng ngày, kháng chiến bùng nổ.
Giai đoạn kháng chiến chống Pháp
Tháng 3 năm 1947, ông và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Ông kêu gọi nhân dân
tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại (cho Pháp không lợi dụng được)
cũng là kháng chiến.
Ngày 2 tháng 2 năm 1950, Hồ Chí Minh kí sắc lệnh tổng phản công trong năm 1950. Tuy
vậy, sau đó nội dung của sắc lệnh này đã bị bác bỏ. Những lệch lạc trong công tác so sánh
lực lượng hai bên tham chiến của phía Việt Nam cũng như sự chủ quan trong chỉ đạo đã bị
kiểm điểm và uốn nắn.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 được tổ chức vào trung tuần tháng 2 năm 1951 tại
Tuyên Quang, ông quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này
tên gọi không còn là Đảng Cộng sản nữa mà có tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Ông
tuyên bố:
"Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam"[48].
Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cộng hòa Dân chủ Đức Wilhelm Pieck, 1957
Cuộc Chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi người Pháp thất trận tại Điện
Biên Phủ - sự kiện báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế
giới[49] - và dẫn đến Hiệp định Genève. Kết quả mà đoàn Việt Nam thu nhận được kém hơn
nhiều so với mục tiêu đề ra ban đầu. Tuy vậy, trên các phương tiện truyền thông chính
thức, Hồ Chí Minh tuyên bố "Ngoại giao đã thắng to![50]
Cuộc cải cách ruộng đất, phát động vào cuối năm 1953 và kéo dài cho tới cuối năm 1957,
đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, nhất là trong việc lạm dụng đấu tố và xử tử những
người bị liệt vào thành phần địa chủ, phú nông thậm chí vu oan và giết nhầm cả những
đảng viên trung kiên. Từ tháng 2 năm 1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi
được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán
của cải cách bị cách chức. Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm,
ông khóc và nhận lỗi trước hội nghị toàn quốc.
Năm 1959, Hồ Chí Minh tới thăm Bắc Kinh nhân dịp kỷ niệm 10 năm cách mạng Trung
Quốc. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông nhận được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn
Moskva để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng đã khôn khéo từ chối những đề nghị gửi
quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam[51].
Giai đoạn cuối đời
Hồ Chủ tịch thăm một đồi cây ở Phú Thọ, 1964
Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, Hồ Chí Minh được coi như chỉ còn nắm giữ vai trò
biểu tượng của cách mạng. Ông dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi đồng bào. Quyền lực
khi này dần dần tập trung về bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong
Đảng Lao động Việt Nam[52][53], những người này đã chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình
thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam.
Hồ Chí Minh liên tục ốm nặng trong khoảng hơn 3 năm cuối đời. Trong thời gian quanh sự
kiện Tết Mậu Thân 1968, ông đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Trung Quốc và chỉ
quay về Việt Nam ít ngày vào tháng 12 năm 1967 để phê duyệt quyết định tổng tấn công[54].
Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp sinh nhật ông năm 1965, và sửa lại trong những
dịp sinh nhật tiếp theo[55]
Trong di chúc, ông có viết "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta
đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Qua đời
Các thiếu nhi khóc trong lễ tang Hồ Chí Minh năm 1969
Hồ Chí Minh mất vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969, tức ngày 21 tháng 7
âm lịch, hưởng thọ 79 tuổi. Ngày mất của ông ban đầu được Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam công bố là ngày 3 tháng 9, đến năm 1989 mới công bố lại là ngày 2 tháng 9.[56]
Hà Nội đã nhận được hơn 22.000 bức điện chia buồn từ 121 nước trên khắp thế giới[57].
Nhiều nước trong khối xã hội chủ nghĩa đã tự tổ chức truy điệu và đưa ra những lời ca
ngợi ông. Một tuyên bố chính thức từ Moskva đã gọi Hồ Chí Minh là một "người con vĩ
đại của dân tộc Việt Nam anh hùng, nhà lãnh đạo xuất chúng của Cộng sản quốc tế và
phong trào giải phóng dân tộc, và một người bạn lớn của Liên bang Xô Viết". Từ các nước
Thế giới thứ ba, người ta ca ngợi ông trong vai trò của người bảo vệ những con người bị
áp bức. Một bài báo xuất bản ở Ấn Độ miêu tả ông là sự kết tinh của "nhân dân và hiện
thân của khát vọng đấu tranh cho tự do và cho sự đấu tranh bền bỉ của nhân dân"[57]. Những
bài báo khác đề cao phong cách giản dị và đạo đức cao của ông. Một bài xã luận trên một
tờ báo của Uruguay viết: "Ông có một trái tim bao la như vũ trụ và tình yêu trẻ thơ vô bờ
bến. Ông là hình mẫu của sự giản dị trong mọi mặt"[57].
Phản ứng từ các nước phương Tây dè dặt hơn. Nhà Trắng và các quan chức cấp cao của
Mỹ từ chối bình luận. Báo chí phương Tây đặt sự chú ý cao đối với cái chết của Hồ Chí
Minh. Các tờ báo ủng hộ phong trào phản chiến có xu hướng miêu tả ông như là một đối
thủ xứng đáng và là người bảo vệ cho những con người bị áp bức. Ngay cả những tờ báo
đã từng phản đối mạnh mẽ chính quyền Hà Nội cũng ghi nhận ông là người đã cống hiến
cả cuộc đời cho công cuộc kiếm tìm độc lập và thống nhất đất nước Việt Nam của ông,
đồng thời là tiếng nói nổi bật trong việc bảo vệ những dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới[57].
Tang lễ được tổ chức vào ngày 8 tháng 9 tại quảng trường Ba Đình với hơn 100.000 người
đến dự, trong đó có các đoàn đại biểu từ các nước xã hội chủ nghĩa. Hàng ngàn người đã
khóc. Điếu văn truy điệu ông do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc, có đoạn viết:
"Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất này vô cùng lớn lao.
Đau thương này thật là vô hạn ! Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã
sinh ra Hồ Chủ tịch - Người anh hùng dân tộc vĩ đại. Và chính Người đã làm rạng
rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta..."[58].
Trong bài thơ "Bác ơi" của Tố Hữu, sáng tác ngày 6 tháng 9 năm 1969, có đoạn:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.[59]
Trong di chúc, Hồ Chí Minh muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước[60][61]. Tuy
nhiên, theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để
sau này nhân dân cả nước, nhất là nhân dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng ông.
[62][63][64]
Từ đó đến nay, thi hài ông được bảo quản trong lăng tại Hà Nội, tương tự như đối
với thi hài Lenin ở Moskva[65].
Di sản
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tại Việt Nam, ông được xem là nhân vật chính trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đối
với nhiều người, ông là một nhà yêu nước đã vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào công cuộc
giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân và đế quốc. Tính giản dị và kiên cường của ông được
nhiều người kính mến.
Nhiều người dân Việt Nam yêu quý ông, gọi ông bằng cái tên thân mật "Bác Hồ". Trong
văn thơ, ông còn được gọi là "Người Cha già dân tộc". Một số dân tộc thiểu số Việt Nam,
như Vân Kiều, Pa Cô, Kor, đã lấy họ Hồ vì yêu quý ông[66]. Ông được thờ tại nhiều gia đình
Việt Nam[1][67][68], cũng như tại nhiều gia đình Việt kiều ở Thái Lan[69], Lào[70]...và một số gia
đình ở các nước khác như Na Uy[71].
Tuy nhiên, tại một số cộng đồng người Việt tại hải ngoại, đặc biệt là Hoa Kỳ, hình ảnh
của ông bị phản đối mãnh liệt. Năm 1999, khi một người cho thuê băng đĩa treo chân dung
Hồ Chí Minh trước cửa tiệm mình tại Little Saigon, hàng vạn người Mỹ gốc Việt và cựu
chiến binh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã tham gia biểu tình phản đối, gây ra nhiều tranh cãi về
vấn đề tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ [72][73][74]. Một cuộc triển lãm nghệ thuật về ông tại
Oakland, California năm 2000 cũng bị hàng nghìn người biểu tình phản đối[75] [76]. Là một
biểu tượng của chính quyền Việt Nam, hình nộm của ông thường bị đem ra treo cổ và hình
ảnh ông bị chà đạp trong nhiều cuộc biểu tình phản đối chính quyền Việt Nam tại Hoa
Kỳ[77] [75][78][79][80].
Là một người lãnh đạo cuộc đấu tranh của Việt Nam giành độc lập khỏi chế độ thực dân
Pháp, với chiến thắng quyết định ở trận Điện Biên Phủ, ông được người dân ở những
nước thuộc địa trước đây của Pháp, chủ yếu ở Bắc Phi và Tây Phi, kính trọng, và được coi
như tấm gương cho cuộc giải phóng tại đất nước họ. Tên ông đã được đặt cho các đại lộ
tại Luanda (Angola), tại Ouagadougou (Burkina Faso) và tại Maputo (Mozambique). Tại
Berkeley, California, nơi có nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, nhiều nhà
hoạt động cộng đồng đã từng gọi Công viên Frances Willard là Công viên Hồ Chí Minh
một cách không chính thức.[81] Nhiều nước trên thế giới đã phát hành tem bưu chính kỷ
niệm ông: Liên Xô, Ấn Độ, Lào, Madagascar, Algérie, Cuba, Đông Đức, Triều Tiên, Quần
đảo Marshall, Dominica...Tượng đài ông được đặt tại nhiều thành phố trên thế giới, trong
đó có La Havana (Cuba), Moskva (Nga), Zalaegerszeg (Hungary), Montreuil (Pháp), Calcutta
(Ấn Độ) và Antananarivo (Madagascar).[82]
Tưởng niệm