Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân đông đảo, mà không phải là công việc của một số người, của
riêng Đảng Cộng Sản. Đảng lãng đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải
phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được
thực hiện bằng sức mạng của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Điều này
đã được Hồ Chí Minh nói khá cặn kẽ, theo quan điểm của Người, đại đoàn kết
dân tộc là một trong những...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân đông đảo, mà không phải là công việc của một số người, của
riêng Đảng Cộng Sản. Đảng lãng đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải
phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được
thực hiện bằng sức mạng của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Điều này
đã được Hồ Chí Minh nói khá cặn kẽ, theo quan điểm của Người, đại đoàn kết
dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Trong toàn bộ những bài báo bài viết của Hồ Chí Minh theo thống kê có
đến 40% bài báo, bài viết, bài nói về đại đoàn kết, qua đó ta thấy được tầm quan
trọng của đại đoàn kết trong tư tưởng hồ chí minh. Lời đầu tiên trong bản di
chúc của Hồ Chí Minh cũng như lời cuối cùng trong bản di trúc thì Hồ Chí Minh
đều nhắc tới đại đoàn kết . Lời đầu tiên Người nói: “Trước khi tôi qua đời tôi để
lại vài lời dặn dò như sau: Trước hết nói về đoàn kết các đồng chí từ trung
ương đến các chi bộ phải gìn dữ sự đoàn kết như gìn giữ con ngươi của mắt
mình” còn lời cuối cùng của người: “ Điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn
Đảng toàn dân toàn quân ta đoàn kết xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh
dân chủ độc lập đóng góp xứng đáng vào cách mạng vô sản thế giới”.
Trong những cống hiến to lớn của to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với cách mạng Việt Nam, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối
đạn đoàn kết dân tộc của Người là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và
giá trị thực tiễn hết sức quan trọng,tư tưởng đó được thể hiện qua đó được thể
hiện qua một số nội dung cơ bản sau đây:
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm ,ở tư
tưỏng , ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng ,
trở thành khẩu hiệu hành động của Đảng, toàn dân ta .Nó phải biến thành
sức mạnh vật chất có tổ chức là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Đảng cộng sản vừa là thành viên của mặt trận dân tộc thống nhất,
lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân ngày càng vững chắc.
Phân tích:
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định
thành công của cách mạng.
- Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người có ý nghĩa chiến lược. Đó là
một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Điều này được thấy rõ qua tình hình lịch sử của nước ta ngay sau khi dành
được độc lập dân tộc, khi đó trong ngân hàng nước ta chỉ có 2 vạn đồng tiền
rách, tình trạng dân số thì có đến 98% là mù chữ, các tổ chức cách mạng thì mới
bắt đầu được hình thành, 2,5 triệu dân chết đói, thực dân Anh thì nhăm nhe vào
nước ta để giải rác vũ khí, Pháp quay lại xâm lược, Tưỏng vào giải rác vũ khí,
Mỹ chống phá, Nhật chống phá, trong nước thì việt quốc, việt cách nổi dậy. Một
chính phủ mới thành lập mà đã vấp phải nhiều khó khăn và đặc biệt là không
được sự thừa nhận của thế giới., tình hình nước ta đang rơi vào tình cảnh ngàn
cân treo sợi tóc. Trước hoàn cảnh đó Hồ Chí Minh đã ký 2 hiệp ước quan trọng
14-9 và 6-3, với 2 hiệp ước này thì dân tộc việt nam đã có được điều kiện để
chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại được bớt được kẻ thù là Mỹ, Anh và Tưởng.
Độc lập dân tộc là bất biến và tất cả những hiệp ước hay tạm ước chỉ là những
sách lược để phục vụ cho một tư tưỏng cơ bản xuyên suốt đó là độc lập dân tộc
và đại đoàn kết toàn dân.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh cứ khi nào dân tộc Việt Nam đoàn kết
thì ta dành độc lập và khi nào nước ta đánh mất sự đoàn kết thì sẽ bị mất chủ
quyền. Hồ Quý Ly là một trong những ông vua giỏi nhất trong lịch sử Việt Nam
nhưng cũng là người lãnh đạo cuộc kháng chiến thất bại nhanh nhất trong lịch sử
Việt Nam khi quân Minh xâm lược, bởi ông đã không đoàn kết được toàn dân.
- Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp lực lượng dân tộc. Tập hợp
mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dân
tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù.
- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của cách mạng. Tuy nhiên trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp
với những đối tượng khác nhau.
Tức là đại đoàn kết dân tộc là chiến lược nhưng trong từng giai đoạn thì
phải có cách thức đoàn kết khác nhau. Ví dụ như trứớc năm 1945 chúng ta có
khẩu hiệu: “Đánh đổ thực dân, phong kiến dành độc lập dân tộc chia ruộng đất
cho dân cày”, nhưng đến năm 1945 khi Bác Hồ đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến : “Đánh đuổi thực dân dành độc lập cho dân tộc” ,vốn dĩ có sự khác biệt đó
là vì khi này ta cần phải lôi kéo thêm tầng lớp phong kiến ủng hộ cho cách mạng
để vừa bớt kẻ thù đồng thời thu hút được của cải để có tiền để làm cách mạng.
- Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chất chân lý về đoàn
kết. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng.
+ Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng.
Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3-3-
1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc :”Mục
đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là : “Đoàn kết toàn dân,
phụng sự tổ quốc”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng
xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ : Trước cách mạng Tháng Tám và trong kháng
chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được
mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc
lập. Chỉ đơn giản thế thôi . Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là : “Một
là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước
nhà ”.
+ Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân
dân. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập
hợp, hướng dẫn quần chúng đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức thành sức
mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân,
hạnh phúc cho con người .
+ Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân. “đoàn kết
toàn dân tộc”. Không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo. Không phân biệt dân
tộc thiểu số với dân tộc đa số, người theo tín ngưỡng với người không theo tín
ngưỡng…. “ ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta đoàn kết với họ”. Liên minh công nông lao động trí thức làm nền tảng
cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niêm dân, nhân dân có một nội hàm
rất rộng, người dùng khái niệm này để chỉ “mọi con dân đất việt”, không phân
biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, không phân biệt “già, trẻ, gái trai, giàu
nghèo, quý tiện”.Như vậy, dân, nhân dân vừa là một tập hợp đông đảo quần
chúng vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ
thể của đại đoàn kết dân tộc.Người đã nhiều lần nêu rõ “Ta đoàn kết để đấu
tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc;ta còn phải đoàn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta đoàn kết với họ ”. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái
niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam.
+ Muốn thực hiện được việc đại đoàn kết toàn dân thì ta phải.
-> Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc.
-> Phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng.
Người Việt Nam ta có truyền thống “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh
kẻ chạy lại”. Hồ Chí Minh cho rằng ngay đối với những người lầm đường lạc
lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với
họ, mà hoàn toàn không định kiến và khoét sâu cách biệt. Người đã lấy hình
tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn nhưng tất cả đều nằm trên cùng một
bàn tay để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng rãi.Thậm chí
đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa
thì khối đại đoàn kết dân tộc cũng sẽ mở rộng cửa đón tiếp họ. Người đã nhiều
lần nhắc nhở “ Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập dân
chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật
thà đoàn kết với họ”. Người tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu
nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây
đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước.Để thực hiện
được đoàn kết, Người còn căn dặn : Cần xoá bỏ hết thành kiến, cần phải thật
thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ cùng nhau tiến bộ để phục vụ nhân dân.
-> Phải tin ở nhân dân, yêu dân.
Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết một cách rộng rãi
như trên là vì Người có lòng tin ở dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít
hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi
bị bụi mờ che mắt, chỉ cần làm thức tỉnh lương chi thì lòng yêu nước lại bộc lộ
Dân tộc, toàn dân thì là một khối rất rộng lớn gồm hàng chục triệu con
người vì vậy phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và
những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Về điều này người đã chỉ rõ: “Đại
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc
của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền
vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”
Người chỉ rõ: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”
về sau Người có nêu thêm :lấy liên minh công nông –lao động trí óc làm nền tảng
cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối
đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có
thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc .
- Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ
chức là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cả dân tộc, toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, sức mạnh vô địch khi
được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, và được tổ chức thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không thế
thì quần chúng dù đông nhưng cũng chỉ là số đông không có sức mạnh.Thất bại
của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rất rõ vấn đề này.
Ngay từ khi tìm thấy con đường cức nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến
việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng
giai cấp, từng giới, tưng ngành nghề và lứa tuổi, tôn giáo và phù hợp với các
bước phát triển của phong trào cách mạng. Đó là hội ái hữu hay tương trợ, công
hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay phụ nữ…bao trùm lên tất cả là Mặt trận
dân tộc thống nhất, đó là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp
mọi con người Việt Nam không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài, dù ở bất
cứ phương trời nào nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về tổ
quốc Việt Nam …
Tuỳ theo từng giai đoạn thời ký mà Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có
những tên gọi khác nhau như: Hội phản đế đồng minh, Mặt trận dân chủ,
Mặt trận việt minh, Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, Mặt trận
tổ quốc Việt Nam. Nhưng thực chất chỉ là một – đó là tổ chức chính trị rộng rãi,
tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái…phấn đấu
vì một mục tiêu chung là độc lập dân tộc thống nhất tổ quốc.
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên
nền tảng liên minh công nông (sau đó là liên minh công- nông- lao động trí óc),
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
+ Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc
thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm
cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và thống nhất, xã hội giàu
mạnh, dân chủ, văn minh. Để có thể đại đoàn kết thì cần phải làm sao để mọi
người thuộc bất cứ tầng lớp nào cũng đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết.
Bởi lẽ lợi ích tối cao của dân tộc có được đảm bảo thì lợi ích của mỗi bộ phận,
mỗi người mới được thực hiện.
Mỗi bộ phận, mỗi con người lại có những lợi ích riêng khác nhau. Những
lợi ích chính đáng và phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc cần
được tôn trọng. Ngược lại ngững gì riêng biệt không phù hợp sẽ dần được giải
quyết bằng lợi ích chung của dân tộc. Mặt trận cần thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc hiệp thương dân chủ, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí loại trừ mọi sự
áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành; thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm
tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất
trí .Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm
“cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt;
mặt khác Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết”.Tự nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương
mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt để củng cố đoàn kết nội bộ.
Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu tranh trên hai mặt trận
chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực
lượng có thể tranh thủ đượ; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều,
đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ mặt trận.
+ Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc.
Đảng cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận xây dựng
khối đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Quyền lãnh đạo mặt trận không
phải Đảng tự phong cho mình, mà là được nhân dân thừa nhận, điều này đã được
Hồ Chí Minh phân tích rất chặt chẽ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa
nhận quyền lãnhđạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi
quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh
đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự
đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết của toàn dân, sự
đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn dết của dân tộc càng được
tăng cường. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng
với nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt
qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thăng lợi cuối cùng của cách mạng.
Kết luận: (đây là kết luận chung, tùy vào luận điểm cần phân tích của đầu
bài mà có thể vận dụng để viết các kêt luận riêng cho từng bài)
Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết có một vai trò cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn
cho những bài toán của cách mạng vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch
sử nó vẫn giữ nguyên giá trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 70 năm qua đã
chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh
tụ đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản
Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả
những người Việt Nam yêu nước và biến nó thành hành động cách mạng của
hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử cách mạng Việt Nam
hon nửa thế kỷ qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của
Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng
phát triển mạnh mẽ và giành được thăng lợi, nơi nào, lúc nào rời xa tư tưởng đó
thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất.
Ở thời điểm dân tộc ta đang bước vào thế kỷ XXI những thời cơ và thách
thức đan xen nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc.
Hơn lúc nào hết, thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan
điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, phải vận dụng sáng tạo và tiếp
tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình
mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc sẽ ngày càng phát triển,
hoàn thiện cùng với thực tiễn biến đổi của đất nước. Tư tưởng ấy vẫn là ngọn
nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam để đi tới thắng lợi
hoàn toàn và triệt để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.