Trần Văn Trạch nhạc sĩ hài hước của làng tân nhạc Việt Nam (1924-1994)
Trần Văn Trạch, tên thật là Trần Quang Trạch, sinh năm Giáp Tý (1924), tại
làng Đông Hòa, tỉnh Mỹ Tho. Trong gia đình có rất nhiều người biết về nhạc,
nhất là nhạc cổ. Ông sơ tôi, Trần Quang Thọ, nhạc sĩ triều đình Huế.
Trang | 1
Trần Văn Trạch
nhạc sĩ hài hước của làng tân nhạc Việt Nam
(1924-1994)
Trần Quang Hải (Paris, Pháp)
Viết về cuộc đời của một nghệ sĩ danh tiếng là khó rồi. Viết về một nghệ sĩ
"lập dị " đã chinh phục cảm tình của khán giả qua ba thế hệ mà người đó lại
là chú ruột của kẻ viết bài này thì lại khó khăn hơn nữa. Làm sao có thể viết
một bài phê bình, nói gần nói xa như "mèo khen mèo dài đuôi" ?
Cái khó của tôi là không biết nhiều về ông chú của tôi đứng về mặt gia đình.
Có thể nói là suốt thời gian tôi sống ở Việt Nam, tôi chỉ gặp chú tôi tổng cộng
độ 10 lần mà thôi, gặp chú ít khi nói chuyện vì lúc đó tôi hãy còn nhỏ quá đi.
Tôi chỉ nhớ được xem chú Ba Trạch trình diễn ba lần tại Saigon. Một lần vào
khoảng năm 1948 ở tại Dancing Théophile, vùng Dakao. Lúc đó tôi mới có 4
tuổi. Một lần khác chú tôi từ Pháp về năm 1961 hát bài " Chiều mưa biên giới
" (nhạc và lời : Nguyễn Văn Đông) với dàn nhạc Pháp thu vào băng sẵn để
hát kèm theo kiểu hát playback và được xem chú tôi biểu diễn trò múa rối
học được ở Pháp mang về. Lần chót trước khi tôi rời Việt Nam vào khoảng
cuối năm 1961 tại một rạp hát ở Phú Nhuận với các màn bắn súng, nhái các
thú vật như chú đã thường trình diễn.
Hình ảnh người chú tóc dài, chạy xe Mercedes cũ xì, được báo chí tặng cho
danh hiệu " Quái kiệt " vẫn còn in rõ trong trí nhớ của tôi.
Cái khó thứ hai là tôi không ở trong nghề, không biết được bộ mặt thật sự
của hậu trường sân khấu, cũng như không có " sống ", " nếm mùi " ngọt, bùi,
đắng, cay của nghề bán giọng hát đổi lấy chén cơm. Do đó, tôi không có một
kỷ niệm nào để kể cho các bạn như đa số các nghệ sĩ Việt Nam mà tôi may
mắn được gặp và nghe họ kể những bước thăng trầm của cuộc đời rày đây
mai đó trên những đường mòn Việt Nam từ thành thị đến thôn quê.
Vài dòng về thời thơ ấu ở Sầm Giang
Trần Văn Trạch, tên thật là Trần Quang Trạch, sinh năm Giáp Tý (1924), tại
làng Đông Hòa, tỉnh Mỹ Tho. Trong gia đình có rất nhiều người biết về nhạc,
nhất là nhạc cổ. Ông sơ tôi, Trần Quang Thọ, nhạc sĩ triều đình Huế. Ông cố
tôi, Trần Quang Diệm, ngày xưa được gởi ra Huế để học đàn tỳ bà trong
thành nội và nổi tiếng về đàn tỳ bà trong Nam cùng với sự chế cách viết bài
bản cho đàn tỳ bà. Ông nội tôi, Trần Quang Triều, tự Bảy Triều, nổi tiếng
trong giới cổ nhạc qua tiếng đàn kìm lên dây theo kiểu dây Tố Lan do ông nội
tôi sáng chế ra. Dây Tố Lan của đàn kìm khác với cách lên dây thường của
đàn kìm. Bình thường đàn kìm có hai dây được lên dây cách nhau một
quãng 5 (do - sol). Còn lên dây Tố Lan thì hai dây phải cách nhau một quãng
7 thứ (do - sib). Gia đình bên phía ông nội tôi còn có bà cô Ba tên là Trần
Ngọc Viện, người đã thành lập gánh hát Đồng Nữ vào khoảng năm 1927 với
một điểm đặc biệt là tất cả các diễn viên trong gánh hát Đồng Nữ, một hiện
tượng duy nhứt trong lịch sử hát cải lương miền Nam.
Trang | 2
Bên phía bà nội tôi thì có ông Cậu Năm tên là Nguyễn Tri Khương (cháu nội
của ông Nguyễn Tri Phương, một vị quan nổi tiếng dưới thới triều Nguyễn),
từ trần vào năm 1962, là một nhạc sĩ chuyên về sáo, lại thông hiểu về lý
thuyết nhạc cổ, đã giúp cho Ba tôi là GS Trần Văn Khê khi viết luận án tiền sĩ
về nhạc Việt. Ông Nguyễn Tri Khương còn là thầy tuồng của gánh hát Đồng
Nữ và là tác giả của những bài hát mới mà ngày nay rất ít người biết như các
bài " Thất trĩ bi hùng ", " Yến tước tranh ngôn ", " Phong xuy trịch liễu ", " Bắc
Cung Ai ", vv… Ông Cậu Tư, anh của ông Nguyễn Tri Khương, có một người
con rất giỏi về. Đó là cồ nhạc sĩ Nguyễn My Ca (tên thật là Nguyễn Mỹ Ca)
mất vào năm 1944 trong lúc chống Pháp. Bác My Ca là anh em cô cậu với
Ba tôi và chú tôi, chỉ được người Việt biết qua nhạc phẩm " Dạ Khúc "
Những dòng trên đây được viết ra với mục đích là giúp cho các bạn hiểu rõ
trong bối cảnh nào chú Trần Văn Trạch đã sống và hấp thụ nhiều khía cạnh
âm nhạc trong khoảng thời ấu thơ tại làng Vĩnh Kim, làng Đông Hòa, làng
Bình Hòa Đông của tỉnh Mỹ Tho miền Nam Việt Nam.
Ông Nội tôi có ba người con. Người con cả là Trần Văn Khê (sinh năm 1921,
từng là giáo sư dân tộc nhạc học tại đại học đường Sorbonne, Paris, hưu trí
năm 1987, và hiện giờ để hết thì giờ để viết các quyển hồi ký về cuộc đời
của mình - đã xuất bản được 6 quyển tại Việt Nam từ năm 1998,sang Pháp
năm 1949 và hiện sinh sống tại thành phố Vitry sur Seine, ngoại ô Paris). Kế
đến là Trần Văn Trạch, sinh năm 1924, nổi danh là Quái kiệt trong làng tân
nhạc Việt, từ trần năm 1994 tại Paris. Người con gái út, tên là Trần Ngọc
Sương, sinh năm 1925, từng là ca sĩ nổi tiếng lấy biệt hiệu là Ngọc Sương,
sau đổi lại là Thủy Ngọc trong những năm 1948-50, và hiện sống tại
Montreal, Canada.
Chú Trạch lúc nhỏ rất có khiếu về nhạc. Học đánh đàn kìm và đàn tỳ bà rất
sành. Lại có giọng hát ấm êm, ca " vọng cổ " mùi không thua gì Năm Nghĩa
thời thập niên 30. Tuy biết nhiều về cổ nhạc, nhưng lại thích tân nhạc hơn.
Lúc khoảng thời đó (1937-39), nhạc sĩ My Ca rất giỏi về đàn violon, và Ba tôi
thiên về đàn mandoline. Hai người thường hợp tấu để đàn các bản nhạc
Pháp nổi tiếng thời đó như " J’ai deux amours ", " Marinella ". Phong trào
phát động nhạc mới được giới trẻ theo một cách mạnh mẽ. Chú tôi theo học
chữ ở Collège de Mỹ Tho (trường trung học Mỹ Tho) cho tới năm 1942 thì rời
ghế nhà trường.
Tuy ở trong gia đình nhạc sĩ, nhưng lại là người thích buôn bán làm ăn, nên
chú Trạch mới lập ra lò làm chén ở Vĩnh Kim. Sau một vài năm buôn bán, coi
bộ không khá lắm, nên bỏ nghề lên Saigon tìm việc sinh sồng. Khoảng năm
1945, sau khi Nhật đầu hàng, Pháp trở lại Việt Nam, những phòng trà nho
nhỏ mở cửa trở lại. Chú tôi mới bắt đầu kiếm được một phòng trà nhỏ (loại
salon de thé) ở đường Lagrandière.
Danh từ " Đại Nhạc Hội "xuất hiện
Có lẽ rất ít người biết từ đâu xuất phát danh từ " đại nhạc hội ". Chú Trần
Văn Trạch hoạt náo và hát tại dancing Théophile ở vùng Dakao từ năm
1947-48. Các bản nhạc hài hước đầu tiên không phải do Trần Văn Trạch
sáng tác mà là do nhạc sĩ Lê Thương (1914-1996) viết ra đầu tiên. Nhạc sĩ
Lê Thương được nhiều người biết qua các bản " Thằng Cuội ", " Hòn Vọng
Trang | 3
Phu 1, 2, 3 ". Chính nhạc sĩ Lê Thương đã chính thức khơi mào một loại
nhạc hài hước như bản nhạc " Hòa Bình 48 " (Lê Thương, 1948) đã do Ba tôi
hát trong dĩa 78 vòng của hãng ORIA thu bên Pháp năm 1949, và Chú tôi hát
ở Saigon với những màn bắn súng, máy bay dội bom phát sinh từ đó. Bản
nhạc " Liên Hiệp Quốc " (Lê Thương, 1949) cũng được Ba tôi và chú tôi tung
ra thị trường với những màn hài hước bắt chước các thứ tiếng Anh, Nga,
Tàu, vv… Nhạc sĩ Lê Thương có viết năm 1948 một bản nhạc tựa là " Làng
báo Saigon " do Trần Văn Trạch hát vài lần trên sân khấu nhưng bị chánh
phủ cấm. Lời bài hát " Làng Báo Saigon " do nhạc sĩ Lê Thương viết như
sau:
Báo Sài Thành từ suốt ba năm nay
Sống một cuộc đời bất bình, mập mờ cũng hay
Nếu mai sau mà anh muốn nói láo
Cứ nghe tôi mà anh cứ viết báo
Công chúng đang buồn, nghe nói một hồi
Như thác nhớ nguồn, nên cũng đành thôi.
Đoạn giữa có câu
Nào xin kính chào này
Mừng tân thủ tướng mới
Chừng coi gió chiều nào
Là xoay đổi hướng ….vv…
Viết lời nhạc có tính cách chính trị, nên sau đó, Lê Thương, Trần Văn Trạch,
Phạm Duy, Đức Quỳnh, đã " bị mời " vào bót Catinat mấy ngày. Đến năm
1949, Trần Văn Trạch thấy rằng tân nhạc bắt đầu thịnh hành. Các ca sĩ như
Minh Trang, Ngọc Sương, Ngọc Hà, Tâm Vấn góp mặt trên đài phát thanh
Pháp Á, trên các sân khấu trình diễn tân nhạc. Trần Văn Trạch mới có ý nghĩ
" lăng xê " (từ tiếng Pháp là động từ " lancer ") danh từ " Đại nhạc hội " để chỉ
định những buổi hát bao gồm ca, vũ, nhạc, kịch trong một chương trình văn
nghệ. Từ đó trở đi, " đại nhạc hội " được thông dụng cho tới ngày nay.
Sau đó, chú Trần Văn Trạch thấy rằng muốn khuếch trương khía cạnh tân
nhạc, chỉ có cách là mang tân nhạc xen kẽ với những màn ảo thuật, xiệc, vào
những buổi chiếu phim hát bóng vì lúc đó phim hát bóng rất thịnh hành,
người đi coi hát bóng rất đông, thuận tiện cho việc phổ biến tân nhạc Việt
hãy còn phội thai trong giai đoạn này.
Phụ diễn tân nhạc trên sân khấu
Sau thế chiến thứ hai, cuộc sống trên thế giới trở lại bình thường. Nền kinh
tế bắt đầu tìm lại thế quân bình. Dân chúng bắt đầu đi xem hát, nghe nhạc,
có nhiều cách giải trí hơn. Lúc bấy giờ, xứ Việt Nam hãy còn là thuộc địa của
Pháp. Mà ở xứ Pháp, vào thời buổi đó, bắt đầu có chuyện phụ diễn tân hạc
hay những màn hát thuật giữa phim thời sự, quảng cáo, và phim chánh. Trần
Văn Trạch thấy hình thức đó hay nên mới tìm cách phổ biến hiện tượng đó
tại Saigon. Nhạc sĩ Đức Quỳnh và chú tôi hợp tác với nhau, và lựa rạp hát
bóng Nam Việt làm nơi thử thách đầu tiên.
Lúc đó là vào khoảng năm 1951. Được dân chúng thích và đòi hỏi. Trần Văn
Trạch mới lần lượt phổ biến chuyện phụ diễn tân nhạc tới những rạp hát
Trang | 4
khác và lần lần làm thành " hệ thống dây chuyền ". Tân nhạc thiếu bài mới để
hát. Các nhạc sĩ mới đua nhau sáng tác những nhạc phẩm phù hợp với nhu
cầu của dân chúng trong thành phố. Các ca sĩ không thể đem lên sân khấu
những ca khúc hùng mạnh đầy màu sắc đấu tranh, giặc giã. Nhờ đó mà mới
nẩy sanh ra phong trào sáng tác nhạc rất mạnh. Trần Văn Trạch bắt đầu nổi
tiếng về tài hài hước và kể chuyện, rồi sang hát một vài bản nhạc diễu để
chọc cười khán giả. Bài bản lại thiếu, nên chú tôi bắt buộc phải sáng tác
những bản nhạc đúng " ni tấc ". Nhờ đó mà một số bản nhạc " diễu " được ra
đời và đi sâu vào lòng dân chúng mãi cho tới ngày hôm nay nhứt là khán giả
vào lứa tuổi 50- 80 tuổi.
Những nhạc phẩm hài hước của Trần Văn Trạch
Trần Văn Trạch có một lối hát mộc mạc, đúng giọng miền Nam. Chú tôi là
một trong số rất ít ca sĩ chuyên hát với giọng miền Nam, phát âm không màu
mè, dùng lời lẽ đơn giản, không cầu kỳ, những tữ ngữ được nghe trong đời
sống hàng ngày, nhưng chủ đề lấy từ cuộc sống người dân nghèo nên rất dễ
làm xúc động người nghe.
Bài hát hài hước đầu tiên được Chú tôi sáng tác là " Anh phu xích lô " (1951).
Về nhạc thì sử dụng âm giai thất cung với những câu nhạc dễ nhớ được lập
đi lập lại. Về tiết tấu thì sử dụng nhiều nhịp ngoại, hát mau và phải " giựt "
theo kiểu swing để tạo sự vui nhộn. Tôi chỉ nhớ đoạn đầu của bài hát " anh
phu xích lô " như sau :
Có ai mà muốn đi tới Chợ Lớn
Có ai mà muốn đi tới Chợ Mới
Có ai mà muốn đi chóng cho mau tới
Ê Tôi xin mời lại đây
Chiếc xe này có bảo kiết thật chắc
Bánh xe thì tốt thùng có bọc sắt
Nếu khi mà có đụng phải xe jeep
Quý ngài chẳng hề hấn gì.
Khi thấy loại nhạc này " hấp dẫn " người nghe, Chú Ba Trạch mới tiếp tục
viết thêm một số nhạc phẩm hài hước khác như " Chuyến xe lửa mùng 5 "
(1952) kể lại chuyện một anh chàng lấy xe lửa về thăm mẹ. Trên xe lửa, để
cho qua thì giờ, ngồi đếm cột đèn mà bị người bên cạnh hỏi tới hỏi lui. Đến
khi về nhà mới hay mẹ mình đã từ trần. Câu chuyện lúc đầu thì thấy cười.
Nhưng kết cuộc là " cười ra nước mắt ".
Cho tới ngày ký hiệp định Genève ( 1954), Trần Văn Trạch viết khá nhiều bài
như " Cái tê - lê - phôn ", " Cái đồng hồ tay ", " Anh chàng thất nghiệp ", " Cây
bút máy ", " Đừng có lo "
Để cho các bạn biết sơ qua một số bài với âm điệu, tôi xin tạm ghi lại một
đoạn nhỏ của một vài bài điển hình như " cái tê - lê - phôn " được bắt đầu
như sau :
Từ đâu nạn đưa tới
Gắn chi cái tê lê phôn
Bởi tôi muốn làm tài khôn
Khiến tôi muốn thành ra ma
Trang | 5
Không vào Chợ Quán cũng đi Biên Hòa
Trong năm 1952, tôi muốn nói tới hai bản nhạc của Trần Văn Trạch đã được
nhiều người biết tới mà không phải là nhạc hài hước. Đó là bài " Chiến xa
Việt Nam " vả một bản nhạc khác mà hầu hết những người Việt miền Nam
đều đã có nghe qua rất thường. Đó là bài " Xổ số kiến thiết quốc gia ". Trong
vòng 23 năm, từ 1952 tới 1975, mỗi tuần tại rạp Norodom (sau đổi lại thành
rạp Thống Nhất), đều có nghe hát bản nhạc này trước khi xổ số.
Tôi ghi lại đây bản nhạc này mà tôi không thấy trong những tập nhạc được
xuất bản tại hải ngoại sau 1975.
Kiến thiết quốc gia
Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Được nên cửa nhà
Tô điểm giang san
Qua bao lầm than
Ta thề kiến thiết
Trong giấc mộng vàng
Triệu phú đến nơi
Chỉ mười đồng thôi
Mua lấy xe nhà
Giàu sang mấy hồi
Mua số quốc gia
Giúp đồng bào ta
Ấy là thiên chức
Của người Việt Nam
Mua số mau lên
Xổ số gần đến
Mua số mau lên
Xổ số gần đến
(nhạc và lời : Trần Văn Trạch, 1952)
Bài "Chiến xa Việt Nam" (1952) đã được nghe nhiều lần thời đệ nhất cộng
hòa. Nữ ca sĩ Bạch Yến lúc hãy còn là em bé Bạch Yến đã hát bài này khi dự
thi tuyển lựa tài tử ở Đài Pháp Á khoảng 1953. Trong những kỳ đi diễn binh
nhân ngày Quốc khánh, chúng ta cũng có nghe nữa. Thời gian trôi qua,
những bản nhạc hùng mạnh như Thúc Quân, Xuất Quân, Hờn Sông Gianh,
Chiến Xa Việt Nam, vv…. đã mờ dần trong trí nhớ người Việt hải ngoại và
trong nước.
Khi miền Nam trở thành một quốc gia cộng hòa dưới thời cố tổng thống Ngô
Đình Diệm (1956-1963), nhạc sĩ Trần Văn Trạch sáng tác rất ít. Chỉ có một
bài ca hài hước được ra đời. Đó là bài "Ba chàng đi hỏi vợ"
Ban Sầm Giang Trên Đài Phát Thanh
Những ai ở vào tuổi lục tuần đều có dịp nghe ban Sầm Giang do Trần Văn
Trạch đảm trách trên đài phát thanh Pháp Á từ năm 1950 tới năm 1954. Con
sông Sầm Giang ghi nhiều kỷ niệm trong cuộc đời thơ ấu của Chú tôi nên khi
Trang | 6
lập một ban nhạc hay một đoàn hát, Chú tôi mới lấy tên con sông này để
"dựng bảng hiệu". Bản nhạc được nghe báo hiệu chương trình ban Sầm
Giang trên đài là một bản nhạc do cố nhạc sĩ Nguyễn My Ca sáng tác cho
một tiệm mới khai trương tại Vĩnh Kim khoảng 1940 và Chú tôi lấy điệu nhạc
này và đặt lới mới vào.
Ban Sầm Giang quy tụ một số nhạc sĩ gạo cội như cố nhạc sĩ Võ Đức Thu,
Kháng Băng. Về sau có nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi (ở Mỹ hiện nay), các ca sĩ
nổi tiếng thời 50 như Trần Văn Trạch, Ngọc Sương, Ngọc Hà, Tôn Thất
Niệm, Linh Sơn, Mạnh Phát, Minh Diệu, Túy Hoa, Tâm Vấn. Đến năm 1953,
có thêm những bộ mặt mới như nữ kịch sĩ Bích Thuận, ban Thăng Long, Duy
Trác, Tùng Lâm, và …..em bé Bạch Yến.
Với một chương trình hàng tuần về ca, nhạc, kịch, Trần Văn Trạch đã chinh
phục thính giả và nhờ đó những chương trình "đại nhạc hội" được nối tiếp và
phát triển trên toàn xứ.
Năm 1953, Trần Văn Trạch diễn tại Hà Nội và rất được hoan nghinh, vì bộ
môn hài hước không có trên đất Bắc. Chú tôi phải dời ngày về Saigon mấy
lượt khiến cho những bạn bè đi đón "hụt" mấy lần ví Chú tôi "không chịu về".
Sau chuyến đi thành công này, Trần Văn Trạch dự định đưa một đoàn văn
nghệ miền Nam ra diễn ngoài Bắc lấy tên là "Đoàn Gió Nam". Việc tổ chức
đang tiến hành thì hiệp định Genève (1954) đã chia xứ Việt Nam ra làm hai,
nên chuyến đi Bắc của đoàn nghệ sĩ miền Nam không bao giờ được thực
hiện.
Trần Văn Trạch Với Điện Ảnh
Nền điện ảnh Việt Nam ở trong giai đoạn phôi thai. Khoảng 1955, Chú tôi
mới cộng tác với hãng phim Mỹ Phương bên Pháp do bà Mỹ Phương (vợ
ông Trần Văn Trai, chủ nhà hàng Âu Cơ ở Paris), làm giám đốc sản xuất với
sự phụ lực của Phùng thị Nghiệp và Eric Lê Hùng (từng làm đạo diễn nổi
tiếng ở Pháp). Hai cuốn phim được quay là "Lòng Nhân Đạo " (1955) với
Trần Văn Trạch, Kim Cương, Hà Minh Tây (anh Tây lúc trước làm việc cho
đài truyền hình Pháp, giờ về hưu) thủ vai chánh, và phim "Giọt Máu Rơi "
(1956) với Trần Văn Trạch và Kim Cương. Tuy rằng hai cuốn phim này chưa
đạt được đúng mức trình độ diễn xuất, nhưng rất được sự ủng hộ của khán
giả Việt Nam lần đầu thấy người Việt đóng phim.
Trần Văn Trạch sau đó mới rời hãng phim Mỹ Phương để cộng tác với người
Tàu ở Chợ Lớn để lập hãng phim Việt Thanh, và tự làm đạo diễn cho hai
cuốn phim về chuyện cổ tích Việt Nam. Đó là hai cuốn phim "Thoại Khanh
Châu Tuấn " (1956) với Kim Cương, Vân Hùng thủ vai chánh, và "Trương
Chi Mỵ Nương" (1956) với Trang Thiên Kim và La Thoại Tân. Năm 1957,
Chú tôi bị đau thập tử nhứt sanh suốt cả năm. May nhờ có bác sĩ Phan Văn
Đệ cứu sống. Rồi Chú tôi từ giã nghề điện ảnh Việt Nam lúc đó bắt đầu bành
trướng và phát triển mạnh với những nhà đạo diễn chuyên nghiệp và những
tài tử điện ảnh như Lê Quỳnh, Kiều Chinh, Kiều Hạnh.
Tuy Chú tôi không có tiếp tục ngành điện ảnh, nhưng cũng có đóng góp khá
nhiều cho sự hình thành nền điện ảnh Việt Nam tại miền Nam Việt Nam.
Trang | 7
Giai đoạn tổ chức đại nhạc hội
Không một nghệ sĩ Việt Nam nào mà không biết Trần Văn Trạch. Đa số đã
có dịp làm việc chung với Chú tôi ít nhất là một lần trong đời. Có người gọi
Chú tôi là "Anh Ba", có người trong lớp nghệ sĩ trẻ gọi Chú tôi là "Chú Ba".
Với những chương trình "đại nhạc hội", Chú Trạch đã có dịp đi khắp các tỉnh,
các làng ở miền Nam. Trong thời đệ nhứt cộng hòa (1956-1963), Trần Văn
Trạch đã thực hiện nhiều chương trình ca, vũ, nhạc, kịch ngày càng vĩ đại
với một thành phần nghệ sĩ càng ngày càng đông. Rồi Kim Cương, ban Dân
Nam, Hoàng Thi Thơ… nhảy vào làng tổ chức nhạc hội cho tới tháng 4,
1975.
Năm 1960, Chú tôi mới đi sang Paris tìm những ý kiến mới. Ở Paris, Chú tôi
thường xuyên hát tại nhà hàng "La Table du Mandarin", Paris, quận 1, nơi
duy nhứt ở Paris có chương trình văn nghệ Á châu mỗi đêm cho khách Tây
phương. Cũng nơi này do ông Phạm Văn Mười (từ trần vào thập niên 80)
làm chủ, đã được những ca sĩ Việt nổi tiếng thời đó như Thiên Hương (Tini
Yong) rồi Bạch Yến (lúc sang Pháp từ 1961-63), và Bích Chiêu (1962-64), kế
đến tới nữ nghệ sĩ Phùng Há và Kim Cương (1964-65) đến hát. Sau một thời
gian lưu tại Pháp khoảng 6 tháng, Chú tôi trở về Saigon với một tiết mục mới
là trò múa rối (marionnettes / puppet show) và bản "Chiều Mưa Biên Giới"
của Nguyễn Văn Đông được hát theo kiểu sound track, có nghĩa là hát thật
sự trên sân khấu với dàn nhạc của Pháp thâu sẵn trên băng nhựa. Tôi có dịp
đi xem Chú tôi diễn lần đó tại một rạp hát ở Saigon (dường như là rạp Hưng
Đạo, tôi không nhớ rõ lắm)
Từ khi có quân đội Mỹ vào miền Nam ngày càng đông, những night clubs
dành cho lính Mỹ mọc lên như nấm. Các ca sĩ hát nhạc trẻ càng thấy nhiều
hơn. Chú tôi đóng vai "ông bầu" để tổ chức những chương trình nhạc trẻ cho
lính Mỹ từ năm 1965 trở đi. Trong thời gian này, Chú tôi có sáng tác một vài
bản nhạc không được phổ biến cho lắm như bài "Highway 19" đặt theo điệu
Long Hổ Hội, nhạc cổ nhưng trên lời Anh và theo nhịp swing.
Trần Văn Trạch sau năm 1975
Từ 30 tháng 4, 1975, Trần Văn Trạch không còn giữ chức vụ "quản lý" các
nghệ sĩ miền Nam nữa. Chú tôi tạm sống một cuộc đời bình thường, với
những chuyến lưu diễn địa phương cùng với một số nghệ sĩ miền Nam còn
bị "kẹt" lại như Nguyễn Long (tự Long Đất, hiện ở Cali, Hoa Kỳ, làm nghề
báo chuyên về văn nghệ, điện ảnh và sinh hoạt các nghệ sĩ Việt Nam ở hải
ngoại, chụp ảnh, Quốc Anh (sang Pháp và sau đó định cư tại Hoa kỳ từ thâp
niên 90)
Cho tới tháng 12, 1977, Trần Văn Trạch rời Saigon sang Paris. Từ đó trở đi
cho tới ngày từ trần (12 tháng 4, 1994) nghệ sĩ Trần Văn Trạch, từng nổi
tiếng là "Quái Kiệt" vẫn âm thầm hoạt động trong văn nghệ. Có một dạo đi
đóng kịch với một đoàn hát Pháp, lưu diễn khắp các tỉnh ở Pháp. Rồi thỉnh
thoảng đi đóng một vài vai phụ trong các phim của Pháp. Chú tôi tạm ngưng
làm việc cho Pháp để xoay ra làm nghề khác để sinh nhai.
Sáng tác âm nhạc dường như bị "nghẹn"đi. Suốt gần 18 năm sống ở Pháp,
chú chỉ sáng tác một vài bài thôi, vì lẽ cuộc sống ở hải ngoại thúc hối con
Trang | 8
người ta phải luôn luôn chạy với nhịp sống quá ồ ạt, khiến cho Chú tôi lớp
phải lo việc đem vợ con sang Pháp, rồi lại phải lo kiếm việc làm độ nhựt.
Tuy nhiên Chú tôi cũng có góp mặt trong làng tân nhạc Việt ở hải ngoại qua
ba cuốn băng "Hài hước Trần Văn Trạch" (Thúy Nga Paris, 1982) "Con
đường hạnh phúc " (Thanh Lan, 1983), và "Allô Paris" (Giáng Ngọc, Paris
1986). Về phía phim video, Trần Văn Trạch cũng có làm một cuốn kỷ niệm
"Hài hước Trần Văn Trạch" do ông Cử ở quận Cam, Cali, Hoa kỳ thực hiện
năm 1983. Chú tôi cũng có góp mặt trong cuốn thi ca nhạc kịch "Việt Nam"
do Hà Phong thực hiện tại Paris năm 1984 với nữ nghệ sĩ Bích Thuận (vần
còn sống tại Paris), Trần Văn Trạch, Trần Quang Hải,, Bạch Yến và Hùng
Tiến (từ trần tại Paris, 2002)
Chú tôi cũng có đi diễn cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ năm 1983 và
1986, ở Úc châu năm 1984, và thường trực có mặt trong những buổi hát giúp
lấy tiền cho những con tàu vớt người di tản. Ở Âu châu từ Anh sang Đức, từ
Bắc Âu sang Thụy Sĩ, Chú tôi vẫn còn tạo những trận cười qua những màn
diễu ăn khách ngày xưa. Tôi có dịp diễn chung với Chú tôi tại Luân Đôn và
tại Marseille vài năm trưóc khi Chú tôi mất. Đó là những dịp duy nhứt hai chú
tôi hàn huyên với nhau và nhờ đó tôi mới ghi lại đuợc một số dữ kiện chính
xác về cuộc đời của chú Trần Văn Trạch.
Trong những năm cuối cùng của cuộc đời, Chú tôi thường đi sang Hoa kỳ
làm nghề quảng cáo trên đài Truyền hình Việt Nam ở Quận Cam. Cơn ung
thư gan hoành hành vào cuối tháng giêng 1994 đã đưa Chú tôi trở về Paris,
và nằm trị bịnh tại nhà thương Thenon ở Paris, quận 20 từ đầu tháng 2 cho
tới ngày từ trần (12 tháng 4, 1994). Vợ chồng chúng tôi thường vào thăm
Chú tôi và tôi tìm cách chọc Chú tôi cười. Lúc đó chú tôi chỉ thều thào nói
không ra tiếng vì sức quá yếu sau mấy lần mổ gan mà không cứu chửa
được. Chú tôi nhắm mắt ra đi ngày 12 tháng 4, 1994 trong khi tôi đang ở
Toronto (Canada).
Rất đông nghệ sĩ đã đi đưa tiễn một nhạc sĩ thiên tài đến nơi yên nghĩ cuối
cùng. Có GS Trần Văn Khê, cô tôi Trần Ngọc Sương từ Montreal sang. Nhạc
sĩ Phạm Duy từ Hoa kỳ tới cùng với Duy Quang. Ở Pháp hầu hết các nghệ sĩ
đều có mặt như Hữu Phước (từ trần), Ngọc Lưu (từ trần), Cao Thái, Bạch
Yến và tôi từ Canada bay về Paris, Mỹ Hòa, Thiên Nga, Minh Đức, Thu
Hương, Hoàng Long, Kiều Lệ Mai, Minh Đức, Minh Thanh, Kim Chi, Tài
Lương, Minh Tâm, Thanh Phong, vv… Di hài được chôn tại nghĩa trang
Cimetière intercommunal ở Valenton, ngoại ô Paris.
Với trên 40 năm trong nghề, từng là người tiên phong trong việc tổ chức
nhạc hội, người đã đặt ra danh từ "đại nhạc hội", người đã góp công vào nền
điện ảnh Việt, người duy nhứt của Việt Nam đã viết những bản nhạc hài
hước lấy từ những đề tài tả cảnh khổ của người dân nghèo, Trần Văn Trạch
ngày nay không còn nữa.
Trang | 9
Tôi nghĩ rằng, đối với những người làm văn nghệ, Trần Văn Trạch đã đi vào
lịch sử tân nhạc Việt Nam như một số nhạc sĩ đàn anh như Phạm Duy, Lê
Thương, Hùng Lân, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Dương Thiệu Tước,
Thẩm Oánh, Lưu Hữu Phước, Hoàng Giác, Đoàn Chuẩn Từ Linh, Nguyễn
Văn Thương, Văn Cao, Trịnh Công Sơn, vv…
Có ngưới sáng tác gợi hứng từ dân ca (Phạm Duy), hùng tráng có tính cách
tranh đấu (Lưu Hữu Phước), hay mang tính cách địa phương (Lam Phương),
và cũng có ngưới thích khôi hài (Lê Thuơng, Trần Văn Trạch, Lữ Liên). Sự
đóng góp của biết bao nhạc sĩ có tài của miền Nam Việt Nam cần phải được
duy trì qua những bài viết, hay những quyển sách ghi lại những tài năng âm
nhạc của miền Nam trong giai đoạn 1954-75. Chỗ đứng của Trần Văn Trạch
hoàn toàn riêng biệt trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam và sự đóng góp của
Chú tôi cho nền tân nhạc Việt sẽ để lại cho thế hệ mai sau một hình ảnh khó
kiếm giữa rừng nhạc Việt đầy hoa thơm cỏ lạ.