Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng
Tài liệu sẽ trình bày vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế, kết quả nghiên cứu những xu hướng trong hoạt động ngân hàng như: cạnh tranh, thay đổi công nghệ, quá trình hợp nhất ngân hàng, toàn cầu hóa, và cùng các nhà quản lý ngân hàng tìm kiếm giải pháp tồn tại và tiếp tục phát triển.
Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng
Tài liệu sẽ trình bày vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế, kết quả nghiên cứu
những xu hướng trong hoạt động ngân hàng như: cạnh tranh, thay đổi công nghệ, quá
trình hợp nhất ngân hàng, toàn cầu hóa, và cùng các nhà quản lý ngân hàng tìm kiếm
giải pháp tồn tại và tiếp tục phát triển.
Ngân hàng là gì?
Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và
đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc
định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức
năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ
chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh
chính sách của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài
chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công tymôi giới chứng khoán,
quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ
của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ
chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về
lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư
vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Một ví dụ điển hình về nỗ lực của các tổ chức tài chính trong việc cung cấp dịch vụ
ngân hàng được ghi nhận vào những năm 1980 khi rất nhiều công ty bảo hiểm và kinh
doanh chứng khoán lớn, bao gồm cả Merrill Lynch và Dreyfus Corporation, Prudential
nhảy vào lĩnh vực ngân hàng bằng cách thành lập cái mà họ gọi là “các ngân hàng phi
ngân hàng”. Họ nhận thức được rằng, theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức
nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng
cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh
hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng. Merrill Lynch và các tổ chức
phi ngân hàng khác nhận định rằng họ có thể né tránh những quy định này và sẽ có thể
cung cấp dịch vụ ngân hàng khác cho công chúng. Tuy nhiên, Cục Dự trữ liên bang
(Fed), không muốn thấy sự xâm phạm vào lĩnh vực ngân hàng của các “ngân hàng
giả”, đã đưa ra quyết định rằng: việc cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình cũng là
một trong những hoạt động ngân hàng tiêu biểu để phân biệt ngân hàng với các tổ
chức tài chính khác. Điều đó đưa Merrill Lynch và các tổ chức tương tự trở thành các
ngân hàng thực thụ và phải tuân theo qui định chặt chẽ của Chính phủ.
Sau đó các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán hàng đầu đã kiện lên tòa liên
bang, buộc tội Fed đã vượt quá quyền hạn. Năm 1984, tòa án liên bang công nhận này
và buộc Fed phải cho phép tồn tại hình thức “các ngân hàng phi ngân hàng” và cho họ
tham gia bảo hiểm tiền gửi liên bang. Chỉ trong vòng vài tuần sau phán quyết này,
hàng tá đơn xin thành lập “ngân hàng phi ngân hàng” đã được nộp . E.F. Hutton,
J.C.Penney và Sears Roebuck là những công ty cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầu
được tổ chức dưới dạng ngân hàng phi ngân hàng. Hơn thế, các công ty sở hữu ngân
hàng lớn của Citicorp và Chase Manhattan cũng thành lập các “ngân hàng phi ngân
hàng” của riêng họ bởi vì với loại ngân hàng này họ có thể mở rộng chi nhánh tự do
qua biên giới bang. Năm 1987, Quốc hội hạn chế sự bành chướng của các “ngân hàng
phi ngân hàng” bằng cách ràng buộc các công ty sở hữu ngân hàng phi ngân hàng vào
những quy định tương tự như các tổ chức ngân hàng truyền thống. Cuối cùng, Quốc
hội đã “bắn phát súng cuối cùng” trong việc đưa ra một định nghĩa mang tính pháp lý
về ngân hàng: ngân hàng được định nghĩa như một công ty là thành viên của Công ty
Bảo hiểm tiền gửi Liên bang. Đây thật là một sự thay đổi thông minh vì theo luật hiện
hành của Mỹ, người ta không các định ngân hàng trên cơ sở những hoạt động của nó
mà trên cơ sở cơ quan chính phủ nào sẽ bảo hiểm cho tiền gửi của nó.
Dòng nước đã bị vẩn đục. Vào năm 1991, chính quyền của tổng thống George Bush đề
nghị cho phép các ngân hàng với vốn tự có thích hợp sẽ được quyền cung cấp hàng
loạt những dịch vụ mới và được phép liên kết với các công ty môi giới và kinh doanh
chứng khoán, các công ty đầu tư (các quĩ tương hỗ); cho phép công ty công nghiệp sở
hữu các công ty cung cấp dịch vụ tài chính ( những công ty này có thể điều hành
nganhangf và các công ty bảo hiểm); cho phép các công ty ngân hàng đầu tư vào những
ngành công nghiệp phi tài chính trên cơ sở một số điều kiện ràng buộc. Do đó, các
hàng rào pháp lý có tính lịch sử ở Hoa kỳ phân tách hoạt động ngân hàng với các hoạt
động kinh doanh khác – điều đã tồn tại qua nhiều thế hệ - đang bị tấn công và có thể
sẽ sớm đưa đến một sự thay đổi lớn lao trong việc định nghĩa ngân hàng là gì và nó
cung cấp những dịch vụ gì.
Kết qủa của tất cả những thay đổi về pháp lý dẫn đến tình trạng có sự nhầm lẫn
trong công chúng khi phân biệt ngân hàng với một số tổ chức tài chính khác. Cách tiếp
cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại
hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục và dịch vụ tài chính đa hạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và
dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức nằng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Sự đa hạng trong các dịch vụ và chức năng của
ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các “Bách hóa tài chính” (financial
department stores) và người ta bắt đầu thấy xuất hiện các khẩu hiệu quản cáo tương
tự như: Ngân hàng của bạn – Một tổ chức tài chính cung cấp đầy đủ dịch vụ (Your
Bank – a full service Financial institution) (xem Sơ đồ 1 - 1)
Sơ đồ 1 – 1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay:
Các dịch vụ ngân hàng:
Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các
dịch vụ quản lý cho công chúng, đồng thời nó cũng thực hiện nhiều vai trò khác trong
nền kinh tế (xem bảng 1-1). Thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng
lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch
vụ đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá cạnh tranh. Vậy ngày nay
xã hội đòi hỏi những dịch vụ gì từ phía các ngân hàng? Trong phần này, chúng tôi sẽ
giới thiệu tổng quân về danh mục dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Các dịch vụ truyền thông của ngân hàng:
Thực hiện trao đổi ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân
hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua,
bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng hạn Franc hay
Pesos và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì
họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia
hay thành phố họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường
chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi
ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân
hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa
phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân
hàng để lấy tiền mặt. Đó là bược chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay
trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng
văn phòng và thiết bị sản xuất.
Nhận tiền gửi. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã
tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan
trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinhlợi
được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm,
đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về
lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các
khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi
suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm.
Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện
việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều
hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các
tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên
của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng
thường do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Trong thời kỳ Trung Cổ và vào những năm
đầu cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của
ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu – Mỹ. Thông thường,
ngân hàng đượccấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính
phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
Các ngân hàng đã cam kết cho Chính phủ Mỹ vay trong thời kỳ chiến tranh. Ngân hàng
Bank of North America được Quốc hội cho phép thành lập năm 1781, ngân hàng này
được thành lập để tài trợ cho cuộc đấu tranh xóa bỏ sự đô hộ của nước Anh và đưa
Mỹ trở thành quốc gia có chủ quyền. Cũng như vậy, trong thời kỳ nội chiến, Quốc hội
đã lập ra một hệ thống ngân hàng liên bang mới, chấp nhận các ngân hàng quốc gia ở
mọi tiểu bang miễn là các ngân hàng này phải lập Quỹ phục vụ chiến tranh.
Cung cấp các tìa khoản giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và Châu
Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ
mới, quan trong nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch
(demand deposit) – một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán
cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khỏan tiền gửi mới này được
xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì
nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh
doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản
lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại.
Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý.
Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác (trust service). Hầu hết các
ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia
đình; và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Thông qua phòng Ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền để
cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khỏan tiền đó cho đến khi khách hàng
cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong
di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản
các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả, và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc
nhận được khoản thừa kế. Tron gphòng ủy thác thương mại, ngân hàng quản lý danh
mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân
hàng đóng vai trò như những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành
cổ phiếu, trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng ủy thác trả lãi hoặc cổ tức cho chứng
khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ
cho người nắm giữ chứng khoán.
Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
Cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối
với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có
quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức
sinh lời thấp. Đầu thế ký này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của
khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc
liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới
người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới những năm
1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã thành
lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín
dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng
nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng này gần đây đã chậm lại do cạnh tranh
về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong khi nền kinh tế đã phát triển
chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân
hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt
động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung
cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính
cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho
các khách hàng kinh doanh của họ.
Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ
mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví
dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc
thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm
thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần
tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền
mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hường đang gia tăng về việc cung cấp các
dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các
công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cũng cấp cho người tiêu
dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Một ví dụ là tài
khoản quản lý tièn mặt của Merrill Lynch, cho phép khách hàng của nó mua và bán
chứng khoán, di chuyển vốn trong nhiều quĩ tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín
dụng cho khoản vay tức thời.
Dịc vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh
quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua,
trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định yêu cầu
khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng sẽ đủ
để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm
1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài
sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng
cũng như khách hàng bởi vì bới tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho thuê,
ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế.
Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ
cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro
trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua
một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của
các nhà thầu, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các
nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Những ví dụ nổi bật về loại hình công ty đầu tư
này là Bankers Trust Venture Capital anh Citicorp Venture,Inc
Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín
dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng vay
vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân hàng thương mại
trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các hợp
đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ôtô
hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng
thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một
công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và
ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. Một số bang như Delawake
và South Dakota đã cho phép ngân hàng cung cấp các dịch vụ bảo hiểm được quy định
trên toàn quốc. Những ngân hàng hoạt động trên toàn quốc nếu được phép sẽ có thể
cung cấp các dịchvụ về bảo hiểm thông qua các chi nhánh riêng biệt, những quy mô
đầu tư của nó chỉ được giới hạn ở mực 10% tổng số vốn chủ sở hữu. Gần đây,
Citicorp đã thông báo kế hoạch sáp nhập với công ty bảo hiểm Travelers tromg một số
nỗ lực nhằm đưa ra các dịch vụ bảo hiêm đa dạng hơn.
Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc
quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư
vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng
bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và Keogle) cho các cá nhân và
giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài chính hiện
nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự,
cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một
địa điểm. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các
dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái
phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng
khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng mua lại một công ty môi giới đang
hoạt động (ví dụ Bank of America mua Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập các
liên doanh với một công ty môi giới.
Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài khoản
tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử
dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài khoản của
quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao
hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho
khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai ( chẳng hạn ngày nghỉ hưu).
Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách
chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp
với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu nhập hay đạt được sự tăng giá trị vốn).
Trong khi quá trình phát triển của các kế hoạch trợ cấp diễn ra khá chậm do những vụ
kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở rộng của ngân hàng sang lĩnh
vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ vốn ngân hàng quản lý
chiếm 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ trong những năm 90. Một vài ngân
hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ này (ví dụ:
Citicorp’s Investment Services) hoặc liên doanh với các nhà kinh doanh và môi giới
chứng khoán. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ của ngân hàng đã
có nhiều giảm sút do mức thu nhập không còn cao như trước, do những qui định
nghiêm ngắt hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư của công chúng.
Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng ngày nay
đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng
đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao
gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khoán cho
khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing
chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn
sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để
những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ
các tổ chức cho vay khác.
Ở Mỹ, các dịch vụ ngân hàng đầu tư (như bảo lãnh phát hành chứng khoán) liên quan
tới việc mua bán cổ phiếu mới và nợ do ngân hàng thương mại thực hiện thay mặt
cho các công ty đã bị cấm sau khi Quốc hội thông qua các Đạo luật Glass-Steagall năm
1933. Tuy nhiên, trước áp lực lớn từ các công ty ngân hàng trong nước hàng đầu, và do
thành công của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, vào những năm 80 Cục lữu trữ liên
bang đã bắt đầu nới lỏng các quy định đối với việc ngân hàng kinh doanh chứng khoán
do khách hàng của chúng phát hành. Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, ngân
hàng đã tạo cho các công ty một kênh huy động vốn mới bên cạnh hình thức cho vay
vốn truyền thống. Nhiều công ty đã đánh giá rất cao nghiệp vụ này của ngân hàng,
hơn cả hình thức cho vay truyền thống bởi vì nó cung cấp cho họ một nguồn vốn dài
hạn với chi phí thấp hơn. Cho tới cuối những năm 90, Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã
cấp cho hơn 40 ngân hàng đặc quyền cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán. Trên thực tế, điều này cho phép nhân viên tín dụng ngân hàng cộng tác chặt chẽ
với giới kinh doanh chứng khoán trong quá trình tìm nguồn tài trợ cho khách hàng. Năm
1996, Cục quản lý tiền tệ Mỹ ra quy định mới cho phép các ngân hàng có giấy phép
hoạt động trên toàn quốc có thể cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành nếu như dịch vụ
này được thực hiện thông qua các công ty con, với điều kiện ngân hàng không được
đầu tư quá 10% vốn cổ phần vòa một công ty. Một sự nới lỏng hơn nữa trong lĩnh vực
kinh doanh chứng khoán và như vậy, ngân hàng có thể cung cấp toàn bộ dịch vụ tài trợ
và tư vấn quản lý đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Một ví vụ gần đây là sự
kiện ngân hàng NationBank mua Mortgetary Security Inc., Bank America mua công ty
Robertson Stephens và ngân hàng Banker Trust of New York mua công ty Alex Brow.
Sự thuận tiện: Tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân hàng. Rõ ràng là không phải tất
cả mọi ngân hàng đều cung cấp nhiều dịch vụ tài chính như danh mục dịch vụ mà
chúng tôi đã miêu tả ở trên, nhưng quả thật danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên
nhanh chóng. Nhiều loại hình tín dụng và tài khỏan tiền gửi mới đang được phát triển,
các loại dịch vụ mới như giao dịch qua Internet và thẻ thông minh (Smart) đang được
mở rộng và các dịch vụ mới (như bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán) được tung ra
hàng năm. Nhìn chung, dạnh mục các dịch vụ đầy ấn tượng do ngân hàng cung cấp
tạo ra sự thuận lợi rất lớn hơn cho khách hàng. Khách hàng có thể hoàn toàn thỏa mãn
tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình thông qua một ngân hàng và tại một địa
điểm. Thực sự ngân hàng đã trở thành “bách hóa tài chính” ở kỷ nguyên hiện đại, công
việc hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng khoán… dưới một
mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường gọi là Universal Banking ở Mỹ, Canada
và Anh, là Allginanz ở Đức, và là Bancassurance ở Pháp.
Các khuynh hướng ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng
Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục dịch vụ. Như chúng ta đã thấy ở phần
trước, các ngân hàng đang mở rộng danh mục dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho
khách hàng. Qúa trình mở rộng danh mục dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây
dười áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi
cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng làm tăng chi phí của
ngân hàng và dẫn đến rủi ro phá sản cao hơn. Các dịch vụ mới đã có ảnh hưởng tốt
đến ngành công nghiệp này thông qua việc tạo ra những nguồn thu mới cho ngân hàng
– các khoản lệ phí của dịch vụ không phải lãi, một bộ phận có xu hướng tăng trưởng
nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi cho vay.
Sự gia tăng cạnh tranh. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng
trở lên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ.
Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí,
dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng, kế hoạch tiết kiệm,
kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là
những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác,
các hiệp hội tín dụng, các công ty kinh doanh chứng khoán như Merrill Lynch, các công
ty tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh
đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.
Phi quản lý hóa. Cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng được thúc
đẩy bởi sự nới lỏng các quy định – giảm bớt sức mạnh kiểm soát của Chính phủ.
Điều này bắt đầu từ hai thập kỷ trước, xu hướng nới lỏng các quy định đã được bắt
đầu với việc Chính phủ nâng lãi suất trần đối với tiền gửi tiết kiệm nhằm cố gắng
giúp công chúng một mức thu nhập khá hơn từ khoản tiết kiệm của mình. Cũng lúc đó,
nhiều loại tài khoản tiền gửi mới được phát triển giúp cho công chúng có thể hưởng
lãi trên các tài khoản giao dịch. Gần như đồng thời, các dịch vụ mà những đối thủ
chính của ngân hàng như hiệp hội tín dụng và cho vay cũng được mở rộng nhanh
chóng và do đó khả năng cạnh tranh với ngân hàng của những tổ chức này cũng được
củng cố. Các quốc gia hàng đầu như Australia, Canada, Anh quốc và Nhật Bản gần
đây đã tham gia vào trào lưu phi quản lý hóa, nới rộng giới hạn pháp lý cho ngân hàng,
cho người kinh doanh chứng khoán và cho các công ty dịch vụ tài chính khác. Chi phí
và rủi ro tổn thất theo đó cũng tăng lên.
Sự gia tăng chi phí vốn: Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm
tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân
hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh
quyết định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải
sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản
của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như
giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại.
Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài
sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi
bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay được bán
trên thị trường mở nhằm huy đọng vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn.
Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn
hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi).
Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất. Các qui đinj của Chính phủ đối
với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận được mực thu nhập cao
hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện
thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài
khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã
được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ
thu nhập thay đổi thoe điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang
phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các
khoản tiền gửi “trung thành” của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên
phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơi với ý thích thay
đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.
Cách mạng trong công nghệ ngân hàng. Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ
nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt
động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là
trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật
nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, ở Mỹ có hơn 100.000 chiếc, cho phép
khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS
được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh
toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn
giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.
Do đó, ngân hàng đang trở thành ngành sử dụng nhiều vốn và chi phí cố định; sử dụng
ít lao động và chi phí biến đổi. Nhiều chuyên gia tin rằng các tòa nhà ngân hàng và các
cuộc mít tinh gặp mặt trực tiếp giữa các nhà ngân hàng và khach shàng cuối cùng sẽ
trở thành những di tích của quá khứ và bị thay thế bởi các cuộc liên quan và giao tiếp
điện tử. Sản xuất và cung cấp dịch vụ sẽ hoàn toàn tự động. Những bước đị đó sẽ
giảm đáng kể chi phí nhân công hóa ngân hàng và gây ra tình trạng mất việc làm khi
máy móc thay thế người lao động. Tuy nhiên, những kinh nghiệp gần đây gợi ý rằng
một ngành ngân hàng hoàn toàn tự động có thể vẫn còn là điều xa vời. Một tỷ lệ lớn
khách hàng vẫn ưa chuộng các dịch vụ của con người và những cơ hội để nhận được
sự tư vấn cá nhân về các vấn đề tài chính.
Sự củng cố và mở rộng hoạt động về mặt địa lý. Sử dụng có hiệu quả quá trình tự
động hóa và những đổi mới công gnhệ đòi hỏi các hoạt động ngân hàng phải có qui
mô lớn. Vì vậy, ngân hàng cần pahỉ mở rộng cơ sở khách hàng bằng cách vươn tới các
thị trường mới, xa hơn và gia tăng số lượng tài khoản. Kết quả là hoạt động mở chi
nhánh ngân hàng diễn ra. Mô hình công ty sở hữu ngân hàng mua lại các ngân hàng nhỏ
và đưa chúng trở thành bộ phận của các tổ chức ngân hàng mua lại các ngân hàng nỏi
và đưau chúng trở thành bộ phận của các tổ chức ngân hàng đa trụ sở đã ngày càng
phổ biến. Nhiều vụ đại hợp nhất đã diễn ra như vụ hợp nhất giữa Chemical Bank và
Chase Manhttan ở New York hay Bank of America và Nations Bank. Số lượng các ngân
hàng sở hữu độc lập và bắt đầu giảm và qui mô trung bình của các công ty ngân hàng
đã tăng đáng kể. Cùng lúc đó, số lượng các ngân hàng nhỏ của Mỹ (tổng tài sản dưới 1
tỷ USD) đã giảm mạnh ít nhất là 1/3 kể từ giữa thập kỷ 80, số lượng nhân viên giảm
hơn 100.000 người trong cùng thời ký.
Hơn nữa, thập kỷ 80 và 90 đã mở ra một kỷ nguyên sự bành trướng “liên tiểu bang”
trong hệ thống ngân hàng Mỹ. Hơn 300 tổ chức ngân hàng đã vương ra khỏi thị trường
tiểu bang, thôn tính các ngân hàng nhỏ để trở thành những ngân hàng tầm cỡ quốc gia.
Hiện nay ngân hàng đang tìm mọi cách để đạt được sự đa dạng hóa và ngân hàng
không còn muốn duy trì mô hình ngân hàng cổ điển và nhấn mạnh vai trò của nó như
là các tổ chức tài chính năng động, đổi mới và hướng về khách hàng.
Với sự phát triển của tự động hóa, ngày càng nhiều ngân hàng mở chi nhánh ở những
vùng xa với các thiết bị viễn thông và máy rút tiền tự động – một phương pháp mở
rộng qui mô thị trường hơn là xây dựng các cơ sở vạt chất mới. Trong nhiều trường
hợp, hệ thống thiết bị vệ tinh cung cấp dịch vụ hữu hạn sẽ thay thế các văn phòng chi
nhánh đa năng của ngân hàng.
Quá trình toàn cầu hóa ngân hàng. Sự bành trướng địa lý và hợp nhất các ngân hàng
đã vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ một quốc gia đơn lể và lan rộng ra với quy mô toàn
cầu. Ngày nay, các ngân hàng lớn nhất thế giới cạnh tranh với nhau trên tất cả các lục
địa. Vào những năm 80, các ngân hàng Nhật, dẫn đầu là Dai_I Chi Kangyo Bank và
Fuji Bank đã phát triển nhanh hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh trên khắp thế giới.
Các ngân hàng lớn đặt trụ sở tại Pháp (dẫn đầu là Caisse Nationale de Credit Agricole),
tại Đức (dẫn đầu là Deutsche Bank) và tại Anh (dẫn đầu là Barclays PLC) cũng trở
thành những đối thủ nặng ký trên thị trường cho vay Chính phủ và cho vay công ty.
Quá trình phi quản lý hóa đã giúp tất cả các tổ chức này cạnh tranh hiệu quả hơn so
với các ngân hàng Mỹ và nắm được thị phần ngày càng tăng trên thị trường toàn cầu
về dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, Canada, Mỹ và Mexico đã thực hiện Hiệp ước mậu
dịch tư do Bắc Mỹ (NAFTA) điều mà cho phép ngân hàng ở những nước này sở hữu
và quản lý các chi nhánh ngân hàng ở nước kia và sức mạnh dịch vụ của các chi nhánh
loại này hoàn toàn so sánh được với những chi nhánh sở hữu bởi các ngân hàng trong
nước.
Rủi ro vỡ nợ gia tăng và sự yếu kém của hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Trong khi xu
hướng hợp nhất và bánh trướng về mặt địa lý đã giúp nhiều ngân hàng ít tổn thương
trong điều kiện kinh tế trong nước thì sự đẩy mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng và
các tổ chức phi ngân hàng kèm theo các khoản tín dụng có ván đề một nền kinh tế luôn
biến động đã dẫn tới sự phá sản ngân hàng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Xu hướng
phi quản lý hóa trong lĩnh vực tài chính đã mở ra cơ hội cho các nhà ngân hàng, nhưng
cũng chỉ tạo ra một thị trường tài chính xảo trá hơn, nơi mà sự phá sản, thôn tính và
thành lý ngân hàng dễ xảy ra hơn.
Phải chăng các ngân hàng đang chết?
Gần đây Mỹ, châu Âu và châu Á, hàng trăm ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi đã
sáp nhập và sụp đổ. Người ta bắt đầu lo lắng cho tương lai của ngành công nghiệp
ngân hàng. Thậm chí, đối với các ngân hàng còn sống sót, có những bằng chứng cho
thấy thị phần của chúng trên thị trường dịch vụ tài chính bắt đầu suy giảm trong khi
các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm, các quỹ tương hỗ và các công ty tài
chính đã đạt được sự tăng trưởng thị phần đáng kể. Gần đây, ngân hàng Dự trữ Liên
bang St.Louis đã tính toán rằng tỷ lệ tổng tài sản do ngân hàng và các tổ chức nhận
tiền gửi nắm giữ so với tất cả các trung gian tài chính giảm từ 56% năm 1982 xuống
hơn 42% trong năm 1991 – một “sự co rút tự nhiên” theo sau làn sóng phi quản lý hóa
trong ngành công nghiệp này và với mtộ thị trường tài chính phức tạp hơn. Một số nhà
phân tích (ví dụ Beim đã tuyen bố rằng các ngân hàng hiện nay đang “chết”.
Khi các thị trường ngày càng trở nên có hiệu quả với những tiến bộ gần đây trong
công nghệ, cùng với xu hướng các khách hàng lớn hơn tăng cường tìm kiếm những
phương thức vay nợ mới (như bán chứng khoán trên thị trường mở), các ngân hàng
truyền thống ngày càng trở nên ít cần thiết. Ít nhất thì cũng có quá nhiều ngân hàng - ở
Mỹ có gần 9.000 – và có quá nhiều nguồn lực được tập trung vào lĩnh vực ngân hàng.
Người ta có thể phản đối rằng rất nhiều những ngân hàng này đơn giản là đang nhận
được sự bảo vệ và nâng đỡ của Chính phủ dưới hình thức bảo hiểm tiền gửi và các
khoản vay của Chính phủ với giá rẻ. Có lẽ, sự sáp nhập và đổ vỡ ngân hàng toàn cầu
gần đây chỉ đơn giản là dấu hiệu cho thấy ngành công nghiệp ngân hàng đã “quá
đông” và đang phải đương đầu về sự sa sút nhu cầu đối với các dịch vụ truyền thống.
Rồi nữa, các ngân hàng cũng phải chịu gánh nặng từ những qui định của Chính phủ
hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh. Trong những năm 1990, một cuộc điều tra của
Hiệp hội ngân hàng Mỹ ABA đã ước tính rằng chi phí do tuân theo qui định của liên
bang và cảu tiểu bang lên tới 11 tỷ USD (khoảng 60% lợi nhuận hàng năm của ngành
này). Sự sa sút trong thị phần ngân hàng thị trường dịch vụ tài chính đã gây lo ngại cho
các nhà hoạch định chính sách và cho các khách hàng của ngân hàng. Trong đó có người
lo sợ rằng tầm quan trọng bị suy giảm của ngân hàng có thể:
• Làm giảm khả năng của Ngân hàng trung ương trong việc điều tiết sự tăng
trưởng của mức cung tiền tệ và trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế quốc
gia.
• Gây thiệt hại cho khách hàng (chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình)
là những người hầu hết dựa vào tiền vay và các dịch vụ tài chính khác của ngân
hàng.
• Làm cho các dịch vụ ngân hàng kém thuận tiện cho khách hàng khi các chi
nhánh ngân hàng bị hợp nhất và đóng cửa.
Nhiều nhà kinh tế phản đối rằng những qui định đối với ngân hàng hiện nay là quá
chặt chẽ trong khi các qui định đối với đối thủ cạnh tranh của nó là quá ít thậm chí
không có. Họ cũng cho rằng tăng cường quá trình phi quản lý hóa là điều cần được
thực hiện nếu muốn các ngân hàng trở nên vững mạnh hơn. Rất nhiều ngân hàng, đặc
biệt là những ngân hàng lớn, đang cố gắng chống lại hay làm chậm lại quá trình giảm
sút thị phần bằng cách: (1) đưa ra dịch vụ mới (như bán cổ phiếu cho quĩ tương hỗ,
bán hợp đồng bảo hiểm), (2) tính phí sử dụng cao hơn cho các dịch vụ không mất tiền
trước đây, (3) cung cấp nhiều dịch vụ hơn qua các công ty con không bị điều tiết như
ngân hàng hoặc (4) tham gia liên doanh với các công ty độc lập (như Dean Witerr với
National Bank) và nhằm tránh gánh nặng quy định.
Rồi nữa, có những chuyên gia trong lĩnh vực này (như Kaufman và Mote) phản đối
rằng sự sa sút ngân hàng chỉ mang tính bề ngoài hơn là bản chất. Bản chất của ngành
công nghiệp ngân hàng đã thay đổi rất nhiều trong những năm gần đây với sự phát
triển các dịch vụ mới, không phải tất cả chúng đều được thể hiện trên bản cân đối kế
toán. Đồng thời các chuyên gia cũng cho rằng chúng ta cần phải phát triển các phương
pháp đo lường qui mô ngân hàng mới để xác định xem tầm quan trọng của ngân hàng
có đang thực sự giảm sút không. Cùng lúc, các chương trình hỗ trợ và trợ cấp của
Chính phủ cho ngân hàng sẽ có thể phải được đổi mới và cắt giảm. Dường như Bảo
hiểm tiền gửi của Chính phủ đã đánh lừa khách hàng rằng tất cả các ngân hàng đều an
toàn và điều này có thể cho một ngân hàng nào đó những thuật lợi không chính đáng
trong hoạt động thu hút tiền của công chúng. Những ngân hàng không lành mạnh phải
được phép rời khỏi ngành sẽ không nhất thiết phải tồn tại, hầu hết các ngân hàng có
thể tăng khả năng cạnh tranh nếu chúng được phép cung cấp nhiều dịch vụ hơn và
bảo hiểm tiền gửi được định giá một cách chính xác để phản ánh mức độ rủi ro của
mỗi ngân hàng. Tóm lại, ngân hàng truyền thống có thể chết nhưng nếu các ngân hàng
được tự do hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu thay đổi không ngừng của công chúng
về những dịch vụ mới, chúng không nhất thiết phải chết.