Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ từ góc độ tâm lí học.
Tâm lí học là một ngành khoa học ảnh hưởng sâu, rộng tới các ngành khoa
học khác. Đối tượng của tâm lí học là nghiên cứu về tâm lí con người ( một thế
giới vô cùng phức tạp ẩn chứa tất cả những gì thuộc về bề sâu, bề xa, bề sau
của con người).
Hoàng Minh Thành Ngữ Văn E-K58
BÀI ĐIỀU KIỆN SỐ 2
Môn : Văn học Việt Nam 2
Giảng viên : T.S Nguyễn Thị Nương
Sinh viện thực hiện : Hoàng Minh Thành
Tiếp cận đoạn trích : Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ từ góc độ tâm lí
học.
1, Sự ảnh hưởng của tâm lí học đối với văn học
Tâm lí học là một ngành khoa học ảnh hưởng sâu, rộng tới các ngành khoa
học khác. Đối tượng của tâm lí học là nghiên cứu về tâm lí con người ( một thế
giới vô cùng phức tạp ẩn chứa tất cả những gì thuộc về bề sâu, bề xa, bề sau
của con người).
Riêng về văn học các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về nhân vật hay dùng
một khái niệm đó là “tâm lí nhân vật”. Thuật ngữ này được chấp nhận bởi các
nhân vật văn học vẫn được coi là hình bóng của con người bên ngoài xã hội.
Tuy rằng, mối quan hệ giữa nhân vật văn học và con người xã hội là mối quan
hệ thống nhất nhưng không đồng nhất : thống nhất bởi các nhân vật văn học
mang những đặc điểm của con người của bên ngoài xã hội về hành động về
tính cách tâm lí. Nhưng không đồng nhất bởi nhân vật văn học hay con người
văn học đã được hình tượng hóa qua lăng kính chủ quan của nhà văn.
Việc tiếp cận nhân vật trong văn học ở góc độ tâm lí đem lại cho nhân
vật văn học nhiều ý nghĩa. Đối với các tác phẩm tự sự việc xem xét nhân vật ở
góc độ tâm lí sẽ cho người đọc có một sự lí giải lôgic hợp lí những hành động,
lời nói, cũng như suy nghĩ của nhân vật. Như vậy cũng có nghĩa là người đọc đã
thẩm thấu ở cấp độ bề sâu nhân vật chứ không phải chỉ ở bề nổi của nhân vật,
và người đọc không chỉ dừng lại ở cấp độ “biết” nhân vật mà nâng lên mức
“hiểu” nhân vật.
1
Hoàng Minh Thành Ngữ Văn E-K58
Đối với tác phẩm trữ tình, việc xem xét tâm lí nhân vật trữ tình ở góc độ
tâm lí càng làm rõ nguyên nhân dẫn đến các trạng thái tâm lí của chủ thể trữ
tình.
Như vậy các nhà văn không đơn thuần là các nhà văn mà còn là những nhà
Tâm lí học. Cái khác nhau giữa các nhân vật và tâm lí học là ở chỗ khi nói tâm lí
con người, các nhà tâm lí phát biểu thành cả một hệ thống khái niệm. Còn các
nhà văn lại phát biểu tâm lí bằng hình tượng nhân vật và thông qua nhân vật bộc
lộ sự am hiểu tâm lí con người của nhà văn.
Bài viết này xem xét tâm trạng của người chinh phụ dựa trên cơ sở tâm lí
học mà cụ thể là qua ba quá trình đó là : trạng thái tâm lí. Nhằm khắc họa rõ
nét hơn nữa (Bi kịch tinh thần của người chinh phụ). Qua đó thấy được sự am
hiểu, sự cảm thông sâu sắc của tác giả với nỗi lòng của người chinh phụ nhằm
tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của đoạn trích nói riêng và toàn bộ tác phẩm nói
chung.
2, Tâm trạng người chinh phụ trong đoạn trích - là trạng thái tâm lí.
Trong cuốn (Tâm lí học đại cương) do thầy Nguyễn Quang Ẩn chủ
biên_NXB Thế giới, có đưa ra khái niệm “trạng thái tâm lí của con người là
những hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian tương đối dài mà việc mở đầu
và kết thúc không rõ ràng”. Hiểu như vậy thì tâm trạng người chinh phụ trong
đoạn trích – Sách giáo khoa lớp 10 tập 2 với tiêu đề : “ Tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ một trạng thái tâm lí”.
Đoạn trích này được trích từ câu 193 – 228 của Chinh phụ ngâm. Sau buổi
sáng tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng cảnh chiến trường đầy
hiểm nguy chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi tại
sao đôi lứa phải chia cắt, vì sao bao lần hò hẹn với nhau mà không thành. Bấy
nhiêu câu hỏi đều không có câu trả lời (bất khả tri). Rồi nàng ái ngại cho thân
phận của chính mình – tình cảnh lẻ loi, sầu khổ.
“Gam chủ đạo” đầu tiên cho bản đàn “sầu oán” của đoạn trích này là tâm
trạng “cô đơn, nhung nhớ” của người chinh phụ. Tâm trạng này của người
chinh phụ được tác giả tập trung khắc họa từ câu 1 đến câu 16 của đoạn trích.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
2
Hoàng Minh Thành Ngữ Văn E-K58
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mach tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết ?
Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi
Buồn rầu nói chẳng lên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương !
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ ủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sâu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn.
Đứng trên góc độ tâm lí học mà nói nỗi cô đơn nhung nhớ của một người
chinh phụ là một kết quả tất yếu. Trước khi có sự kiện chồng của nàng phải ra
chiến trận – hoàn cảnh nảy sinh trạng thái tâm lí xuất hiện. Cuộc chia tay người
chồng ra đi không biết khi nào quay về đã để lại cho người chinh phụ một
khoảng trống vô cùng lớn về mặt tình cảm trong tâm hồn người chinh phụ -
cảm thức về trạng thái cô đơn xuất hiện. Để phản ứng lại với trạng thái cô đơn
ấy, nàng tự tìm những hành động, việc làm cụ thể những mong thông qua việc
làm, hành động cụ thể sẽ lấp đầy trống vắng để quên đi nỗi cô đơn. Nhưng
không, càng cố gắng lấp đi khoảng trống trong cõi lòng thì khoảng trống ấy
dường như là vô tận, càng cố quên thì nỗi cô đơn càng bủa vây người chinh phụ.
Tâm trạng cô đơn này càng được đẩy lên cao trong hoàn cảnh Đặng Trần
Côn đặt người chinh phụ trong giữa đêm thâu vắng lặng quạnh hiu, trong không
3
Hoàng Minh Thành Ngữ Văn E-K58
gian căn phòng nhỏ ở đó chỉ có người chinh phụ ngọn đèn dầu cháy rực “hoa
đèn” và hình bóng của chính mình. Thời gian này, không gian này như một chất
xúc tác mạnh để người chinh phụ tự phơi bày hết những cô quạnh trong lòng
mình. Một nỗi cô đơn trải rộng tràn ngập bể tâm hồn trải dài suốt đêm thâu.
Chính nỗi niềm này làm cho cảm giác thời gian như ngưng chảy lắng đọng để
nỗi cô đơn (gặm nhấm) trái tim người vợ trẻ.
Cảm giác thời gian của người chinh phụ là thời gian tâm lí kết quả của
trạng thái tâm lí. Khắc giờ mà người chinh phụ có cảm giác như một năm vậy.
Ta nhớ câu thơ trạng thái tâm lí Nguyễn Du tả về tâm trạng của Thúy Kiều
“Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”.
Như vậy, với tư cách một trạng thái tâm lí đã chi phối mạnh mẽ tới cuộc
sống của người chinh phụ. Sự chi phối thâm nhập ngay từ những việc làm hành
động, ý nghĩ và cảm thức của người chinh phu.
Thời gian Hành động Trạng thái tâm lí Cảm thức
Dạo hiên vắng Âm thầm Về chính mình
Sáng Rủ thác đòi phen Bối rối Sự cô đơn, quạnh
vắng.
Nghe chim thước
báo tin
Nhìn hoa đèn cháy Bi phẫn Cảm thức về thời
gian, lắng đọng,
Tối Nghe gà eo óc gáy
dồn nén.
Nhìn vào bảng trên ta thấy sự trôi chảy thời gian, sự xuất hiện hành động,
tâm trạng, cảm thức đã phản ánh một khối sầu cô đơn trong tâm hồn người
chinh phụ.
Ở đoạn này để làm nổi bật trạng thái tâm lí nỗi cô đơn sầu khổ của
người chinh phụ Đặng Trần Côn đã so sánh một giờ với một năm, cái sâu và cái
4
Hoàng Minh Thành Ngữ Văn E-K58
cô đơn cũng được nổi hình nổi khối. Nhưng sự so sánh làm nổi bật nỗi cô đơn,
buồn sâu, lấy cái hữu hình mà hình dung cái vô hình.
Trạng thái tâm lí cô đơn, buồn sầu của người chinh phụ tiêp tục được
phát triển trong đoạn hai từ câu 16 đến câu 28. Ở đoạn này, tâm trạng nhớ
nhung mới là gam (chủ đạo) , nó chính là hệ quả liên đới từ tâm trạng cô đơn
buồn sầu của người chinh phụ mà ra.
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng .
Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên .
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chằng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đạm tiếng trùng mưa phun
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi.
Nhớ hình bóng của chồng, người chinh phụ thỗn thức hướng cái nhìn nội
tâm về miền biên ải xa xôi. Nếu như ở khổ trước người chinh phụ càng cảm
thấy cô đơn buồn sầu tới bao nhiêu thì ở khổ thơ này nỗi nhớ nhung của người
chinh phụ lại càng tăng lên bấy nhiêu và cùng với sự thương nhớ ấy là tâm
trạng lo lắng cho số phận của người chồng nơi biên ải. Trạng thái “ lo lắng”
của người chinh phụ được Đặng Trần Côn thể hiện như một mạch ngầm.
5
Hoàng Minh Thành Ngữ Văn E-K58
Người chinh phụ không nói ra song ta vẫn cảm nhận được sự thể hiện tinh tế
của tác giả.
Vì quá nhớ chồng người chinh phụ đã nhân hóa ngọn gió đông như một
người đưa tin. Mà phải nói đó là một người đưa tin đặc biệt, đưa tin một cái tin
đặc biệt - cái tin vô hình (tình cảm yêu thương, nhung nhớ của người vợ giành
cho người chồng). Nỗi nhớ đằng đẵng canh thâu - nỗi nhớ “ vô hình” ấy của
người chinh phụ đã được tác giả “hữu hình” qua sự so sánh “ Nhớ chàng thăm
thẳm đường lên bằng trời”
Từ câu 23 đến câu 28 trong đoạn hai. Tác giả đã diễn tả trạng thái tâm lí
của người chinh phụ qua việc miêu tả ngoại cảnh. Nếu như trong văn học,
việc dung ngoại cảnh diễn tả tâm trạng của chủ thể lại là sự thể hiện mối quan
hệ giữa ngoại cảnh và tâm lí người làm nổi bật “tính chủ quan” của con người
với ngoại cảnh xung quanh.
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đạm tiếng trùng mưa phun
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi.
Có thể nói, nếu không có chiến tranh, không có cuộc chia ly, người chinh
phụ không phải xa chồng thì mùa đông – cái giá lạnh có khắc nghiệt đến bao
nhiêu đi chăng nữa cũng chỉ dừng lại ở mức độ cảm giác da thịt, còn trong lòng
người vợ - người chồng đều được sưởi ấm bằng tình yêu thương, sự quây quần
sum họp như vậy mùa đông lạnh hóa ra ấm áp. Vẫn là mùa đông ấy, vẫn cái giá
lạnh ấy nhưng con người thì đã chia ly. Đôi ngả, người vợ đã trở thành người
chinh phụ, còn người chồng lên miền biên ải rừng thiêng nước độc – làm người
chinh phu. Cái cảm giác lạnh lẽo mùa đông này không chỉ dừng lại ở sự cảm
nhận (da thịt) bên ngoài mà ăn sâu thẩm thấu vào tận trong lòng người chinh
phụ. Cái cô quạnh lạnh lẽo trong cõi lòng của người chinh phụ còn khắc nghiệt
hơn cả mùa đông (như vậy mùa đông lạnh - không lạnh mà lạnh ở lòng người).
6
Hoàng Minh Thành Ngữ Văn E-K58
Cũng như cảnh vốn không buồn mà cái buồn ở trong lòng người. Có như vậy
nhà thơ Nguyễn Du mới viết “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”. Và đến
Đặng Trần Côn thì viêt “ cảnh buồn người thiết tha lòng”
Cũng bởi vậy mà trong đoạn này cái giá lạnh của mùa đông, những sự
vật, hiện tượng quen thuộc trong mùa đông như ( tuyết,sương ,gốc liễu, cây ngô
đồng, tiếng chim gù, tiếng sâu tường kêu,tiếng chuông chùa) tất cả đều đã được
khúc xạ qua sự cảm nhận của người chinh phụ trong trạng thái tâm lí – buồn
sầu , nhớ thương mà như xa la và khắt nghiệt hơn . Tất cả những hiện tượng,
những hình ảnh trong đoạn thơ từ câu 23 đến câu 28 qua mắt người chinh phụ
tạo nên một bức tranh mùa đông khắc nghiệt, ảo não, quạnh hiu trong bức tranh
lạnh lẽo ấy nổi lên bóng dáng lẻ loi, đơn chiếc của người chinh phụ. Cũng qua
đó mà ta cảm nhận được từ ngươi chinh phụ một nỗi lo lắng giành cho người
chinh phu nơi biên ải xa xôi. Mùa đông này, nơi quê nhà còn khắc nghiệt như
vậy, thì ở nơi biên ải xa xôi cái khắc nghiệt còn lớn lao đến chùng nào và người
chinh phu chồng của nàng sẽ ra sao. Câu hỏi này ám ảnh người chinh phụ và
làm động lòng chắc ẩn, thương cảm của người đọc.
Như vậy nỗi nhớ nhung của người chinh phụ ở đoạn trích này cũng là
một trạng thái tâm lí nảy sinh từ hoàn cảnh tâm lí như bên trên.
Trạng thái tâm lí của người chinh phụ tiếp tục được diễn tả thông qua
một loạt những hình ảnh sóng đôi từ câu 29 đến câu 36. Đây là đoạn phát triển
cao nhất bi tình cảm của người chinh phụ.
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa đãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu !
7
Hoàng Minh Thành Ngữ Văn E-K58
Ở đoạn này tác giả luôn đặt người chinh phụ trong thế so sánh ngầm,
giữa tâm trạng người chinh phụ và những hình ảnh sóng đôi ở bên ngoài.Con
người thì buồn, buồn đến (vô hình) mà sự vật xung quanh lại hữu hình (hữu
tình hữu ý ) . Tất cả gợi nên sự sum họp , sự quây quần, khăng khít bên nhau, nó
hoàn toàn trái ngược với sự cô đơn, buồn rầu, sầu tủi, lẻ loi… của người chinh
phụ. Trước những hình ảnh sóng đôi như sự tương giao của đôi lứa ấy lại càng
làm người chinh phục cảm thức rõ về số phận của bản thân mình cái buồn sâu
lắng càng tăng lên trở thành sự tủi hổ, bẽ bang.
Chính sự tương giao hữu hình của những hình ảnh trăng hoa, còn gợi lên
trong lòng người chinh phụ một niềm khao khát thầm kín, niềm khao khát mang
bản chất nhân văn, bản chất người đó là được sống trọn vẹn, được hưởng thụ
trọn vẹn cuộc sống vợ chồng. Có thể nói đây là đoạn thơ hay nhất trong đoạn
trích, thể hiện bi kịch tinh thần của người chinh phụ, cũng là đoạn hay nhất thể
hiện sự am hiểu sâu sắc hết sức tinh tế và tế nhị của tác giả đối với những mơ
ước, những ham muốn bình dị của con người. Ở góc độ này tác giả như một
nhà tâm lí thực thụ, không chỉ am hiểu sâu sắc nỗi lòng người chinh phụ mà còn
thật sự đồng điệu, thật sự cùng hòa tấu với bản nhạc mà người chinh phụ đang
gảy.
Và đó cũng chính là những mong mỏi của những con người biết khao khát
hạnh phúc, khao khát yêu thương, muốn được sống thật với tình cảm nội tâm
của chính mình. Ở đây tác giả Đặng Trần Côn (bản chữ Hán) và Đoàn Thị
Điểm (bản diễn Nôm) cũng chỉ nói hộ những con người đó và qua đây phải
chăng họ cũng đang nói chính mình, những con người sống dưới chế độ hà khắc
của xã hội phong kiến mà không thực hiện được cái ẩn chứa trong tâm hồn của
con người.
3, Kết luận
Như vậy, dưới góc độ tâm lí học tâm trạng của người chinh phụ trong
đoạn trích được xem như là một trạng thái tâm lí (đa thanh sắc). Nó thể hiện bi
8
Hoàng Minh Thành Ngữ Văn E-K58
kịch tinh thần của người chinh phụ nói riêng và của người phụ nữ nói chung
trong chế độ xưa.
Đồng thời thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm lí người phụ nữ của tác giả từ
góc độ này tác giả thực sự như một nhà tâm lí học.
9