Tìm hiểu về Hệ thống đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán
Nói đến đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán là nói đến dịch vụ hỗ trợ giao dịch chứng khoán trên các thị trường chứng khoán (TTCK) bao gồm cả các thị trường chính thức và thị trường phi tập trung. Người đầu tư có thể đặt câu hỏi tại sao lại phải cần đến dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán trong khi họ có thể tự bảo quản lấy tài sản của mình, tìm gặp nhau để thực hiện giao dịch......
Tìm hiểu về Hệ thống đăng ký, lưu ký, bù trừ
và thanh toán các giao dịch chứng khoán
LTS: Ngày 27/7/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
189/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Trung tâm Lưu Ký Chứng khoán (TTLKCK),
có nhiệm vụ thực hiện đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và cung
cấp các dịch vụ hỗ trợ việc giao dịch, mua bán chứng khoán. Để chuẩn bị cho
việc khai trương và đưa TTLKCK đi vào hoạt động trong quý 2/2006, mọi công
tác chuẩn bị đang được khẩn trương thực hiện. Tạp chí Chứng khoán xin giới
thới thiệu với độc giả những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ hoạt động của
TTLKCK.
Nói đến đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán
các giao dịch chứng khoán là nói đến dịch vụ hỗ trợ giao dịch chứng khoán trên
các thị trường chứng khoán (TTCK) bao gồm cả các thị trường chính thức và thị
trường phi tập trung. Người đầu tư có thể đặt câu hỏi tại sao lại phải cần đến
dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán trong khi họ có thể tự
bảo quản lấy tài sản của mình, tìm gặp nhau để thực hiện giao dịch mua bán
chứng khoán, sau đó tự thanh toán chứng khoán và tiền với nhau?
Câu trả lời ở đây là “hình thức giao dịch chứng khoán” đã quyết định đến
vấn đề này. Việc giao dịch và thanh toán như trên chỉ thực hiện được đối với các
giao dịch tự phát, chủ yếu là trực tiếp giữa một bên mua với một bên bán, tính an
toàn trong giao dịch thấp, luôn tiềm ẩn nguy cơ không thực hiện nghĩa vụ giao
dịch của hoặc bên mua, hoặc bên bán, đặc biệt là khi giá cả thị trường có nhiều
biến động. Trong khi đó, giao dịch chứng khoán tại các sở giao dịch chứng khoán
(thị trường tập trung), thị trường giao dịch điện tử (thị trường phi tập trung), thị
trường các công cụ phái sinh… đều là hình thức giao dịch có tổ chức giữa nhiều
bên mua bán với nhau. Để luôn đảm bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng cũng như
sự an toàn cho tất cả các bên tham gia mua bán, giảm thiểu chi phí giao dịch, hình
thức giao dịch có tổ chức, đòi hỏi việc thanh toán tiền và chuyển giao chứng
khoán cũng phải được thực hiện một cách có tổ chức. Khi giao dịch chứng khoán
đã được xác nhận thực hiện, việc chuyển giao chứng khoán và thanh toán tiền sẽ
được thực hiện bằng hình thức chuyển khoản trên các tài khoản chứng khoán và
tiền thông qua các bút toán ghi sổ, thay vì chuyển giao vật chất trực tiếp như
trong hình thức giao dịch tự phát. Để làm được điều này, chứng khoán niêm yết
hay đăng ký giao dịch trên TTCK cần phải được lưu giữ tập trung và bất động
hóa tại một nơi. Chính đòi hỏi này đã dẫn đến sự ra đời của loại hình dịch vụ là
đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán để
hỗ trợ cho việc thực hiện và hoàn tất các giao dịch chứng khoán trên các thị
trường giao dịch chứng khoán có tổ chức. Sự xuất hiện của các loại hình dịch vụ
này cũng đã kéo theo sự ra đời của các tổ chức cung ứng các dịch vụ đó và hệ
thống văn bản pháp quy để quản lý các tổ chức cung ứng dịch vụ đăng ký, lưu ký
chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán.
Các tổ chức cung ứng dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và
thanh toán các giao dịch chứng khoán thường là các ngân hàng lưu ký (ngân hàng
thương mại được phép hoạt động lưu ký chứng khoán), các công ty chứng khoán,
được gọi chung là các tổ chức lưu ký. Các tổ chức thanh toán tiền cho các giao
dịch chứng khoán là các ngân hàng thanh toán. Hoạt động của thị trường giao dịch
có tổ chức cần một nơi để lưu giữ và quản lý tập trung các chứng khoán, đồng
thời sự hình thành nhiều tổ chức lưu ký cũng đòi hỏi phải có một tổ chức đóng
vai trò là tổ chức lưu ký trung tâm, làm trung gian kết nối các tổ chức lưu ký này
với nhau, tạo cơ sở cho việc thực hiện thanh toán bằng hình thức ghi sổ. Những
đòi hỏi đó đã dẫn đến sự hình thành của TTLKCK, các tổ chức lưu ký còn lại
trở thành thành viên của trung tâm lưu ký, hay còn gọi là các thành viên lưu ký.
Đối với các ngân hàng thanh toán cũng vậy, cần phải có một ngân hàng đóng vai
trò là ngân hàng thanh toán trung tâm, thực hiện thanh toán tiền cho tất cả các
giao dịch chứng khoán, thường là Ngân hàng Trung ương (NHTW) hay Ngân hàng
chỉ định thanh toán.
Hệ thống cở sở vật chất kỹ thuật, công nghệ thông tin của trung tâm lưu
ký, của các thành viên lưu ký và của các ngân hàng thanh toán, NHTW cùng với
hệ thống pháp lý về lưu ký được gọi chung là hệ thống đăng ký, lưu ký chứng
khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán, hay còn gọi tắt là hệ thống
lưu ký chứng khoán. Hệ thống lưu ký chứng khoán đảm bảo việc đăng ký, lưu
ký chứng khoán được hoàn tất trước khi chứng khoán được đưa vào giao dịch và
sau khi giao dịch kết thúc các bên tham gia giao dịch sẽ lần lượt nhận được tiền
và chứng khoán thông qua việc bù trừ và thanh toán chứng khoán và tiền do hệ
thống thực hiện. Như vậy, cùng với sự hình thành của TTCK có tổ chức, hệ
thống lưu ký chứng khoán đã trở thành một thành tố không thể thiếu, cấu thành
nên hạ tầng của TTCK.
Để hiểu thêm về các dịch vụ do hệ thống đăng ký chứng khoán, lưu ký
chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán thực hiện, phần
dưới đây sẽ đề cập đến từng dịch vụ cụ thể:
1. Đăng ký chứng khoán
Phần trên đã đề cập, để chứng khoán niêm yết hay đăng ký giao dịch được
giao dịch trên TTCK, chúng cần phải được lưu ký tập trung tại một nơi, nơi đó
chính là TTLKCK. Tuy nhiên, trước khi chứng khoán được đưa vào lưu ký tập
trung tại TTLKCK, chúng cần phải được đăng ký đầy đủ thông tin để TTLKCK
có thể nhận lưu ký. Các thông tin đăng ký bao gồm:
- Đăng ký thông tin về chứng khoán chẳng hạn như tên chứng khoán,
loại chứng khoán, mẫu mã chứng khoán, số lượng đang lưu hành....
- Đăng ký thông tin về người sở hữu chứng khoán chẳng hạn như tên,
địa chỉ, điện thoại liên lạc của người sở hữu, số lượng sở hữu...
Việc thực hiện đăng ký thông tin thường do tổ chức phát hành tiến hành
hoặc do một tổ chức được tổ chức phát hành ủy quyền tiến hành. Như vậy, đối
với các chứng khoán niêm yết hoặc đăng ký giao dịch, TTLKCK trở thành nơi
duy nhất thực hiện dịch vụ làm đại lý chuyển nhượng, cụ thể là:
- Thực hiện quản lý sổ đăng ký người sở hữu chứng khoán cho các tổ
chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch, ghi nhận quyền sở hữu và thông tin
thay đổi quyền sở hữu của người sở hữu chứng khoán.
- Thực hiện các quyền liên quan đến chứng khoán lưu ký cho người sở
hữu chứng khoán bao gồm các quyền như quyền tham dự đại hội cổ đông,
quyền nhận cổ tức, quyền bỏ phiếu, quyền nhận trái tức và vốn gốc, quyền
mua, quyền chuyển đổi, tách hoặc gộp cổ phiếu...
2. Lưu ký chứng khoán
Lưu ký chứng khoán thực chất là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của
khách hàng cả chứng khoán vật chất và chứng khoán ghi sổ. Đồng thời đối với
các chứng chỉ vật chất, TTLK còn phải thực hiện cả việc quản lý nhập, xuất và
bảo quản an toàn chứng chỉ chứng khoán tại kho chứng chỉ chứng khoán. Để theo
dõi và quản lý luồng ra vào chứng khoán của khách hàng ký gửi tại TTLKCK (ký
gửi thông qua các tổ chức lưu ký thành viên), TTLKCK phải thực hiện mở tài
khoản lưu ký chứng khoán cho các tổ chức lưu ký thành viên và cho khách hàng,
tương tự như việc ngân hàng thương mại (NHTM) mở tài khoản vãng lai để
quản lý luồng tiền cho khách hàng của mình.
Chính vì vậy, lưu ký chứng khoán còn bao gồm cả việc thực hiện các dịch
vụ liên quan đến mở tài khoản, nhận gửi, rút, chuyển khoản chứng khoán lưu ký.
Ngoài ra, TTLKCK cũng như các tổ chức lưu ký còn cung ứng bất cứ dịch vụ nào
khác được pháp luật cho phép liên quan đến tài khoản lưu ký chứng khoán, chẳng
hạn như dịch vụ làm trung gian trong các giao dịch bảo đảm như cầm cố, giải
tỏa cầm cố chứng khoán.
Cầm cố chứng khoán là việc các NHTM, tổ chức tín dụng cho người đầu
tư vay tiền để đầu tư chứng khoán với thế chấp là chứng khoán do người đầu tư
sở hữu. Vì vậy, đây thực chất là một dạng quan hệ hợp đồng giữa bên cầm cố
(người đầu tư) và bên nhận cầm cố (ngân hàng), mà trong quan hệ này các tổ
chức lưu ký chỉ đóng vai trò là trung gian, trên cơ sở bản hợp đồng cầm cố đó
thực hiện chuyển khoản số chứng khoán cầm cố từ tài khoản chứng khoán giao
dịch vào tài khoản chứng khoán cầm cố để đảm bảo việc duy trì tài sản thế chấp
cho bên nhận cầm cố. Khi hợp đồng cầm cố hết hiệu lực hoặc theo yêu cầu của
bên nhận cầm cố, tổ chức lưu ký sẽ thực hiện giải tỏa số chứng khoán cầm cố,
trả lại cho người đầu tư (bên cầm cố).
3. Bù trừ chứng khoán và tiền
Nếu đăng ký và lưu ký chứng khoán là khâu hỗ trợ trước giao dịch chứng
khoán, thì bù trừ chứng khoán và tiền là khâu hỗ trợ sau giao dịch chứng khoán.
Sau khi chứng khoán niêm yết đã được đưa vào đăng ký, lưu ký tập trung tại
TTLKCK, chúng sẽ được phép giao dịch trên TTCK. Tuy nhiên, sau khi giao dịch
trên thị trường được thực hiện (đã được xác nhận), thì các bên tham gia giao dịch
cần phải nhận được tài sản của mình: bên bán nhận được tiền, bên mua nhận
được chứng khoán. Bù trừ chứng khoán và tiền là khâu tiếp theo sau giao dịch,
thực hiện việc xử lý thông tin về các giao dịch chứng khoán, tính toán lại nhằm
xác định số tiền và chứng khoán ròng cuối cùng mà các đối tác tham gia giao dịch
phải có nghĩa vụ thanh toán sau khi giao dịch được thực hiện.
Hoạt động bù trừ trên TTCK về cơ bản cũng tương tự như hoạt động bù
trừ của các NHTM, đặc biệt là liên quan đến mảng bù trừ tiền. Kết quả bù trừ
tiền luôn thể hiện nghĩa vụ thanh toán một chiều đối với một thành viên lưu ký:
hoặc được nhận tiền, nếu tổng số tiền phải trả nhỏ hơn tổng số tiền được
nhận; hoặc phải trả tiền nếu tổng số tiền phải trả lớn hơn tổng số tiền được
nhận.
Điểm khác nhau so với bù trừ cho giao dịch của các NHTM là bù trừ cho
các giao dịch chứng khoán không chỉ liên quan đến mảng tiền mà còn liên quan
đến mảng chứng khoán nữa. Việc bù trừ chứng khoán cũng mang đặc thù riêng là
phải được thực hiện theo từng loại chứng khoán do không thể bù trừ các loại
chứng khoán khác nhau với nhau. Do đó, đối với cùng một loại chứng khoán nhất
định, kết quả bù trừ chứng khoán sẽ chỉ ra nghĩa vụ thanh toán một chiều của
từng thành viên lưu ký: hoặc phải giao loại chứng khoán đó nếu số lượng chứng
khoán khách hàng đặt mua ít hơn số lượng khách hàng đặt bán, hoặc được nhận
về loại chứng khoán đó nếu số lượng chứng khoán khách hàng đặt mua nhiều
hơn số lượng khách hàng đặt bán.
Trong hoạt động bù trừ, phương thức bù trừ cũng là một vấn đề cần quan
tâm. Phương thức bù trừ cho các giao dịch chứng khoán được quyết định bởi
phương thức giao dịch trên TTCK. Nếu phương thức giao dịch là đa phương
(nhiều bên mua với nhiều bên bán), điển hình có thể thấy là đối với các giao dịch
khớp lệnh cổ phiếu, thì phương thức bù trừ chứng khoán và tiền sẽ là bù trừ đa
phương. Nếu phương thức giao dịch là song phương (một bên mua với một bên
bán), điển hình có thể thấy là đối với các giao dịch thỏa thuận, thì phương thức
bù trừ cũng sẽ là bù trừ song phương.
4. Thanh toán chứng khoán và tiền
Thanh toán chứng khoán và tiền cũng là dịch vụ hỗ trợ sau giao dịch chứng
khoán, là hoạt động cuối cùng để hoàn tất các giao dịch chứng khoán, theo đó các
bên tham gia giao dịch sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình: bên phải trả chứng khoán
thực hiện giao chứng khoán, bên phải trả tiền thực hiện việc chuyển tiền, lần
lượt trên cơ sở kết quả bù trừ chứng khoán và tiền được đưa ra ở trên.
Để giảm rủi ro cho các đối tác tham gia giao dịch, việc thanh toán chứng
khoán và tiền luôn phải đảm bảo nguyên tắc giao chứng khoán đồng thời với
việc thanh toán tiền, hay còn gọi là nguyên tắc DVP (Delivery versus Payment).
Thời hạn của việc thanh toán được quyết định bởi chu kỳ thanh toán. Tùy thuộc
vào điều kiện của từng nước mà chu kỳ thanh toán áp dụng có thể là T+1; T+2
hay T+3, trong đó T được hiểu là ngày giao dịch (ngày mà giao dịch được thực
hiện) và 1; 2; 3 là số ngày giao dịch (không tính ngày nghỉ) tiếp theo kể từ ngày T.
Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), của Tổ chức các ủy
ban Chứng khoán quốc tế (IOSCO) cũng như của nhóm G30 (nhóm các quốc gia
có TTCK phát triển), các nước nên áp dụng chu kỳ thanh toán tối đa là T+3.
Trong hoạt động thanh toán chứng khoán và tiền, phương thức thanh toán
cũng là mối quan tâm của các bên tham gia giao dịch. Phương thức thanh toán
được quyết định bởi phương thức bù trừ, do thanh toán luôn được thực hiện trên
cơ sở của kết quả bù trừ. Chính vì vậy, nếu phương thức bù trừ là đa phương thì
phương thức thanh toán cũng là thanh toán đa phương và tương tự, phương thức
bù trừ là song phương thì phương thức thanh toán cũng sẽ là thanh toán song
phương./
(TCCK)