Tiểu luận - tổng quan du lịch
Du lịch đã ra đời từ rất lâu. Trong đó loại hình du lịch đền chùa cũng đã tồn tại trong đời sống tâm linh của người Việt Nam từ rất xa xưa. Tuy nhiên, trước đây, người ta chỉ quan niệm, đi đền chùa là để cầu may, cầu lộc... là để thoả mãn đời sống tâm linh của mình. Trong thời gian gần đây, đền chùa mới được coi là một điểm du lịch, việc đi đền đi chùa không còn là thuần tuý chỉ là khấn vái, cầu may mà còn đồng nghĩa với việc đi du...
Tiểu luận
Tổng quan du lịch
STT Tên Phân công công Phân Ghi chú
việc loại
Phạm Thanh Hương
1.
Đoàn Thị Phương
2.
Anh
Vũ thị Vân Anh
3.
Đàm Thị Bích
4.
Phạm Thị Chi
5.
Phạm Văn Chinh
6.
Nguyễn Đức Chiến
7.
Phùng Gia Chiến
8.
Nguyễn Cao Cường
9.
Muc Lục
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................ 5
1.1. Khái niệ m chung. ......................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm loại hình du lịch. ...................................................................... 5
1.1.2Khái niệm loại hình du lịch đền chùa. ......................................................... 5
1.2 Phân loại các loại hình du lịch ...................................................................... 5
1.2.1 Căn cứ vào mục đích chuyến đi ................................................................. 5
1.2.2 Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ: ..................................................................... 7
1.2.3 Căn cứ vào sự tương tác của du khách đối với điểm đến của du lịch .......... 7
1.3 Sự biến đổi các loại hình du lịch. ................................................................. 8
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DU LỊCH ĐỀN CHÙA Ở HÀ NỘI MỞ RỘNG 10
2.1. Thực trạng chung ........................................................................................10
2.2. Thực trạng du lịch đền chùa tại Hà Nội mở rộng .........................................13
2.2.1. Thực trạng một số đền chùa nổi tiếng ở Hà Nội mở rộng .........................13
2.2.2. Thị trường khách du lịch đền chùa ở Hà Nội mở rộng ..............................17
2.2.3. Một số tour du lịch đền chùa ....................................................................21
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH ĐỀN CHÙA Ở HÀ NỘI
MỞ RỘNG ........................................................................................................22
3.1. Xu hướng phát triển du lịch đền chùa ở Hà Nội ..........................................22
3.2. Các giải pháp và kiến nghị nhằ m phát triển du lịch đền chùa ở Hà Nội .......24
3.2.1. Đối với Nhà Nước ....................................................................................25
3.2.2. Đối với UBND Thành phố Hà Nội ...........................................................25
3.2.3. Đối với Sở Văn hoá, thể thao, du lịch Hà Nội ..........................................26
KẾT LUẬN .......................................................................................................26
LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch đã ra đời từ rất lâu. Trong đó loại hình du lịch đền chùa cũng đã tồn
tại trong đời sống tâm linh của người Việt Nam từ rất xa xưa. Tuy nhiên, trước
đây, người ta chỉ quan niệm, đi đền chùa là để cầu may, cầu lộc... là để thoả mãn
đời sống tâm linh của mình. Trong thời gian gần đây, đền chùa mới được coi là
một điểm du lịch, việc đi đền đi chùa không còn là thuần tuý chỉ là khấn vái, cầu
may mà còn đồng nghĩa với việc đi du lịch. Do vậy, tuy du lịch đền chùa không
còn là mới nhưng hiện nay nó mới thực sự mang dáng dấp của một ngành du
lịch, mới được quan tâm phát triển và trùng tu tôn tạo. Đặc biệt, cùng với việc
mở rộng địa giới hành chính Hà Nội, vấn đề cải tạo đền chùa ra sao, quy hoạch
như thế nào cho hợp lý... cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
Vì vậy, với bài thảo luận mang chủ đề: “Định hướng phát triển loại hình du
lịch đền chùa tại Hà Nội mở rộng”, nhóm em muốn đưa một cái nhìn mới về loại
hình du lịch đền chùa đồng thời cũng xin góp một số ý kiến để phát triển loại
hình này hơn nữa.
Do việc tìm hiểu còn hạn chế, bài viết còn nhiều sơ suất, rất mong được cô
góp ý để đề tài thảo luận thêm hoàn chỉnh.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm chung.
Du lịch là một hoạt động của nhóm người hay cá nhânnào đó phụ thuộc vào
chuyến đi. Dưới góc độ một nhà kinh tế học thì khái niệ m du lịch phân ra thành
hai loại:
- Tư cách là người đi du lịch thì du lịch và việc tiêu dùng trực tiếp các dịch vụ
hàng hoá của một cá nhân khi việc tiêu dùng có liên quan tới việc đi lại và lưu trú
của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên để nghỉ ngơi, tìm hiểu nền văn hóa
và các nhu cầu khác.
- Với tư cách là nhà tổ chức doanh nghiệp thì du lịch là việc sản xuất ra các hàng
hoá dịch vụ của doanh nghiệp kinh doanh du lịch nhằm đảm cảo việc đi lại, lưu
trú, ăn uống, giả trí cho khách du lịch với mục đích thoả mãn đầy đủ nhất nhu
cầu vật chất tinh thần đó.
1.1.1. Khái niệm loại hình du lịch.
Loại hình du lịch biểu hiện những nét đặc trưng của một nhóm khách du
lịch. Tất cả khách du lịch đều không giống nhau do vậy cũng tồn tại nhiều loạ i
hình du lịch khac nhau.
1.1.2Khái niệm loại hình du lịch đền chùa.
Thoả mãn nhu cầu tín ngưõng cũng như nhu cầu tham quan của khách du
lịch, nó thể hiện qua các cuộc thăm viếng tới các đền chùa, đây là loại hình du
lịch khá lâu đời nhưng lại là loại hình du lịch khá mới tại Hà Nội mở rộng.
1.2 Phân loại các loại hình du lịch
1.2.1 Căn cứ vào mục đích chuyến đi
Mục đích chuyến đi là động lực thúc đẩy hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu du
lịch của con người. Theo tiến sĩ Harssel có mười loại hình du lịch phổ biến theo
cách phân chia này :
a) Du lịch thiên nhiên: Hấp dẫn những người thích tận hưởng bầu không khí
ngoài trời, thích thưởng thức phong cảnh đẹp và đời sống động thực vật hoang
dã.
b) Du lịch văn hóa : thu hút những người mà mối quan tâm chủ yếu của họ là
truyền thống lịch sử, phong tục tập quán, nền văn hóa nghệ thuật… của điể m
đến. Họ sẽ viếng thăm các viện bảo tàng, nghỉ tại các quán trọ đồng quê, tham dự
các lễ hội truyền thống và các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian của địa
phương.
c) Du lịch xã hội: hấp dẫn những người mà đối với họ sự tiếp xúc, giao lưu với
những người khác là quan trọng nhất.
d) Du lịch hoạt động: Thu hút du khách bằng một hoạt động được xác định
trước và thách thức phải hoàn thành trong chuyến đi, trong kì nghỉ của họ. Một
số du khách muốn thực hành và hoàn thiện vốn ngoại ngữ của mình khi đi du
lịch nước ngoài, một số lại muốn thám hiểm khám phá cấu tạo địa chất của một
khu vực nhất định.
e) Du lịch giải trí: Nảy sinh từ nhu cầu nghỉ ngơi thư giãn để phục hồi thể lực
và tinh thần cho con người. Loại hình này thu hút những người mà lý do chủ yế u
của họ đối với một chuyến đi nghỉ là sự hưởng thụ và tận hưởng kỳ nghỉ.
f) Du lịch thể thao: Thu hút những người ham mê thể thao để nâng cao thể
chất, sức khỏe. Tham gia chơi các môn thể thao như: quần vợt, đánh gôn, bóng
chuyền bãi biển, lướt sóng …..
g) Du lịch chuyên đề: Liên quan đến một nhóm nhỏ, ít người đi du lịch với
cùng một mục đích chung hoặc mối quan tâm đặc biệt nào đó chỉ đối với riêng
họ, thu hút những người kinh doanh, sinh viên thực tập, nghiên cứu.
h) Du lịch tôn giáo: Thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người
theo các đạo phái khác nhau. Đây là loại hình du lịch lâu đời nhất và vẫn còn phổ
biến đến ngày nay.
Du lịch sức khỏe: hấp dẫn những người tìm kiếm cơ hội cải thiện điều kiện
i)
thể chất của mình. Nơi điển hình là các khu an dưỡng, nghỉ mát ở vùng núi cao
hoặc ven biển,các điểm có suối nước nóng hoặc nước khoáng.
j) Du lịch dân tộc học: Đặc trưng hóa cho những người quay trở về nơi quê
cha đất tổ tìm hiểu nguồn gốc lịch sử của quê hương, dòng dõi gia đình hoặc tìm
kiế m khôi phục các truyền thống văn hóa bản địa.
Có tác giả phân loại hình du lịch theo mục đích chuyến đi làm hai nhóm
chính:
- Nhóm có mục đích du lịch thuần túy: bao gồ m các loại hình du lịch tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng, thể thao, khám phá.
- Nhóm có mục đích kết hợp du lịch: bao gồm các loại hình du lịch tín
ngưỡng, học tập nghiên cứu, hội họp, kinh doanh….
1.2.2 Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ:
Có các loại hình du lịch sau:
a) Du lịch quốc tế liên quan đến các chuyến đi vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ
biên giới quốc gia của khách du lịch. Loại hình du lịch này tạo ra dòng chả y
ngoại tệ giữa các quốc gia, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của quốc gia.
Được phân chia làm hai loại nhỏ:
- Du lịch quốc tế đến là chuyến viếng thăm của những người từ quốc gia
khác
- Du lịch ra nước ngoài là chuyến đi của cư dân trong nước đến một nước
khác.
b) Du lịch trong nước là chuyến đi của những cư dân chỉ trong phạm vi quốc
gia của họ
c) Du lịch nội địa bao gồm du lịch trong nước và du lịch quốc tế đến
Du lịch quốc gia bao gồm du lịch nội địa và du lịch ra nước ngoài.
d)
1.2.3 Căn cứ vào sự tương tác của du khách đối với điểm đến của du lịch
Có các loại hình du lịch sau:
Du lịch thám hiểm: bao gồm các nhà nghiên cứu, học giả, người leo núi và
a)
những nhà thám hiể m đi theo các nhóm với số lượng nhỏ. Họ hoàn toàn chấp
nhận các điều kiện địa phương và hầu như không tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ
du lịch. Loại hình này ảnh hưởng không đáng kể tới văn hóa xã hội kinh tế và
môi trường của điểm đến.
b) Du lịch thượng lưu: Chuyến đi của tầng lớp thượng lưu đến những nơi độc
đáo để giải trí, tìm kiếm sự mới lạ. Số lượng khách của nhóm này tương đối ít, có
nhu cầu về những sản phẩm chất lượng cao và không đàn hồi theo giá.
c) Du lịch khác thường: bao gồ m những du khách không giàu có như tầng lớp
thượng lưu, họ thích đến những nơi xa xôi hoang dã, quan tâm đến những nền
văn hóa sơ khai hoặc tìm kiếm những phần bổ sung thêm trong một tour tiêu
chuẩn.
d) Du lịch đại chúng tiền khởi: Một dòng khách du lịch ổn định đi theo nhóm
nhỏ hoặc cá nhân đến những nơi an toàn, phổ biến, khí hậu phù hợp. Đây là sự
mở đầu và phát sinh hình thức du lịch đại chúng sau này.
e) Du lịch đại chúng: Một lượng lớn khách du lịch tạo thành dòng chảy liên tục
tràn ngập các khu nghỉ mát nổi tiếng ở châu âu hoặc Hawaii vào các mùa du lịch.
Loại hình du lịch này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển du lịch ở các
quốc gia gửi khách lẫn các quốc gia đón khách các điểm đến du lịch.
f) Du lịch thuê bao: Đây là loại hình du lịch phát triển rộng rãi, thị trường phát
triển đến các tầng lớp có thu nhập trung bình và thấp nên có dung lượng lớn. nó
hoàn toàn phụ thuộc vào các hoạt động thương mại trong kinh doanh du lịch.
1.3 Sự biến đổi các loại hình du lịch.
Ý nghĩa của các động cơ và loại hình du lịch có sự khác nhau và biến đổi
theo thời gian. Với từng thời kỳ khác nhau thì loại hình du lịch có sự thay đổi
khác nhau. Loại hình du lịch thay đổi theo các thời kỳ sau.
Trước thế kỷ XVIII, rất ít khách du lịch vì mục đích giải trí, đa số họ đi vì
mục đích thương mại, hành hương hoặc các mục đích tín ngưỡng học tập và chữa
bệnh.Ở La Mã cổ đại và trung đại, du lịch giải trí hạn chế trong các chuyến tham
quan trong ngày với khoảng cách ngắn để tham dự các hoạt động như hội chợ, kễ
hội thể thao hoặc giải trí tiêu khiển. vì vậy nhu cầu giải trí và tiêu khiển thường ở
mức độ ít và sơ khai.
Trong thế kỷ XVIII, các chuyến đi du lịch hảo hạng ở Châu Âu trở nên
thịnh hành và mốt. Khách tham gia vào vhuyến đi này thuộc tầng lớp thượng lơu
va trẻ tuổinhằ m mục đích giáo dục và giải trí. Tuy nhiên phần chủ yếu trong du
lịch này vẫn là mục đích thương mại.Chủ yếu những chuyến đi này thường được
nhà nước hoặc các nàh buôn lớn đài thọ nhằm giảm bớt sự rủi ro mạo hiể m trong
buôn bán thương mại. Du lịch chữa bệnh hoặc vì các lý do sức khoẻ đến giai
đoạn này thì phổ biến trong giới quý tôc, hoàng gia.
Đến thế kỷ XIX, việc phân phối thu nhập cho nhu cầu du lịch với tư cách
“nhu cầu cuối cùng” và việc mua sắm các sản phẩ m để phục vụ nhu cầu cá nhân
của con người được diễn ra một cách thận trọng. Sự phát triển kinh tế từ sau
cuộc cách mạng công nghiệp tạo điều kiện cho du lịch đại chúng phát triển cả về
cung và cầu. Sự phát triển của công nghiệp làm cho nhiều đại gia đình bị chia
nhỏ tới song ở các khu vục trung tâm làm cho hu cầu thăm quê hương tăng lên.
Loại hình du lịch này vẫn phát triển và trở thành bộ phận quan trọng với du lịch
quốc tế tại nhiều quốc gia.
Đầu thế kỷ XX, du lịch nghỉ ngơi và giải trí đại chúng trở thành bộ phậ n
lớn nhất của du lịch toàn cầu. Tầu hoả và máy bay là những phương tiện vậ n
chuỷen chủ yếu, đồng thời sơ hữu cá nhân các phương tện đường bộ như ôtô, xe
máy làm tăng khả năng du lịch theo nhóm nhỏ. Một số phương tiện vạn chuyển
cổ điển trước đây trở thành sự hấp dẫn với du khách.
Nửa cuối thế kỷ XX có một số thay đổi quan trọng và đáng chú ý.
+ Do sự phát triển về số lượng và đa dạng hoá các công ty theo vị trí, sự bùng nổ
về hiệp hội giữa các nước và quốc tế đã làm tăngkhả nhanh nhu cầu về hội
họp,loại hình du lịch hội họp trở nên phát triển nhanh nhất trong 30 năm trở lại
đây.
+ Khả năng thương mại của các nhà cung ứng du lịch ngày càng tăng lên đã tạo
ra loại hình du lịch có định hướng cung
Theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) trên phạ m vi toàn cầu có
40-45% là du lịch nghỉ dưỡng, 40% du lịch công việc, 8% du lịch thăm than
nhân bạn bè kết hợp với kỳ nghỉ hay đi công việc, 5-10% là loại hình du lịch
khác.
Sang thế kỷ XXI, sự phát triển của nền sản xuất xã hội, sự hội nhập quốc
tế đã thúc đảy và phát triển nhiều loại hình du lịch mới như: du lịch thể thao,mua
sắm và một số loại hình du lịch khác.Bên cạnh đó, các loại hình du lịch đặc biệt
mới xuất hiện với số người tham gia ít như du lịch mặt trăng, vũ trụ, du lịch đại
dương...dần dần trở nên phổ biến.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DU LỊCH ĐỀN CHÙA Ở HÀ NỘI MỞ
RỘNG
2.1. Thực trạng chung
Lễ hội ở nước ta thật đa dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải
rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi lễ hội mang một nét
tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh
thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những ngườ i
có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân
độ thế... Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày
hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với
hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về
truyền thống quê hương, đất nước của mình. Đặc biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó vớ i
làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống
cộng đồng nhân dân.
Bởi phần lớn các lễ hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử, tưởng
nhớ người có công với nước trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên các trò
vui chơi ở lễ hội thường mang nhiều tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như:
thi bắn nỏ, đấu vật (hội Cổ Loa) đấu vật, đấu võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam
Định), thi bắn nỏ, ném còn (ở vùng đồng bào dân tộc phía Bắc) v.v...ở các lễ hội
của bà con dân tộc Tây Nguyên, lễ hội đâm trâu được coi như tiêu biểu nhất.
Trong lễ hội này, ngoài nghi lễ đâm trâu hiến tế hấp dẫn, ly kỳ còn có trò múa
khiên, ném lao, đấu gậy.
Các trò vui chơi giải trí ở lễ hội còn bao gồ m những hoạt động văn hoá, xã
hội khác như thi hát Quan họ, thi thổi cơm, chọi gà, dệt vải, đấu vật, đánh đu...
Đặc biệt nhất là thi đánh đu, không chỉ xuất hiện trong dịp lễ hội lớn mà còn là
một trò vui chơi dân dã trong những ngày Tết ở khắp các làng xã.
Ngày xuân, người ta thường đi chơi đông hơn bình thường. Kẻ đi xa, người
đi gần, trang phục lộng lẫy, hân hoan phấn khởi làm cho không khí đầu xuân
càng thêm rạo rực. Có lẽ ai cũng muốn dành ít thời gian để vãn cảnh thiên nhiên
đất trời, tận hưởng bầu không khí trong lành với mùa xuân tươi đẹp. Họ đến vớ i
các di tích lịch sử, danh thắng, đền, chùa để tham dự các lễ hội truyền thống. Chỉ
tính riêng tháng Giêng cũng đã có biết bao nhiêu lễ hội tưởng nhớ các vị anh
hùng dân tộc, những người có công chống giặc ngoại xâm như: Hội Đống Đa, kỷ
niệ m chiến thắng của vị anh hùnh dân tộc Nguyễn Huệ và tưởng niệ m các chiế n
sĩ vong trận trong đại chiến thắng Đống Đa vào ngày 5-1. Hội đền An Dương
Vương (Cổ Loa Hà Nội) ngày 6-1 tưởng niệ m Thục Phán người có công dựng
nước Âu Lạc, xây thành Cổ Loa; Hội đền Cửa Suốt (Quảng Ninh) tưởng niệ m
Trần Quốc Toản có công đánh đuổi giặc Nguyên, hội đền Hạ Lôi (Mê Linh)
tưởng niệm Hai Bà Trưng, hội "Cơm hòm" ở Phổ Yên, Thái Nguyên ngày 6
tháng Giêng kỷ niệ m người đàn bà vô danh thời Hậu Lê có công bày mưu đánh
giặcMinh...
Cũng vào thời điểm này, du khách bốn phương về hội Hoa Vị Khê (Nam
Định) từ ngày 20 đến ngày 30 tháng Giêng để chiêm ngưỡng hoa, cây cảnh của
làng nghề truyền thống Vị Khê, hội du xuân lễ bái cầu mong một năm mới thịnh
vượng ở núi Bà Đen (Tây Ninh). Đặc biệt vào mùa này, du khách đổ lên núi Yên
Tử dự lễ hội chùa, vãn cảnh hùng vĩ của đất nước và thử thách lòng thành của
mình. Đến Hòa Bình để được xem hội Chơi hang, hội Xên bản, Xên mường của
người Thái; lên Sơn La cùng thả hồn vào những cánh rừng ban trắng trong ngày
hội hoa ban, đi chơi núi, du thuyền độc mộc trên thắng cảnh hồ Ba Bể. Ngoài ra,
người Tày, Nùng Tây Bắc còn có hội Lồng Tồng, người Dao có hội Tết Nhảy,
người Mông có hội Sắc bùa, hội chơi núi chơi xuân, người Khơ me Nam Bộ có
hội mừng năm Mới...
Sự phong phú của lễ hội ở Việt Nam vừa là nét đẹp văn hóa dân tộc nhưng
cũng vừa là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài
nước.
Tuy nhiên, du lịch đền chùa hiện nay gặp phải rất nhiều vấn đề tiêu cực. Đó là do
cơ sở vật chất, quy hoạch lễ hội, hay cả vì ý thức của những người tham gia lễ
hội...
Vì hầu hết những ngôi chùa đều đã được xây dựng từ rất lâu nên đã dần bị xuống
cấp và cần được tu bổ, nhưng trong quá trình tu bổ các nhà quản lý đã không chú
trọng đến những kiểu cấu trúc đặc trưng của ngôi chùa mà chỉ tiến hành cải tạo
những phần hư hỏng nên đã đánh mất đi những dấu ấn về kiến trúc và vẻ đẹp cổ
kính của những nôi chùa hàng ngàn năm tuổi. Ở một số ngôi chùa còn xảy ra tình
trạng là người ta tiến hành xây dựng những ngôi chùa giả bên cạnh những ngôi
chùa hàng ngàn năm nhằm thu tiền du khách, điều này đã làm ảnh hưởng xấu đến
những điểm đến du lịch tín ngưỡng này.
Công tác quản lý vẫn còn nhiều vấn đề, khi mà những người quản lý dường
như đã không thể kiểm soát hoặc bỏ ngơ cho những hộ kinh doanh và những
người dân địa phương tự ý trong việc trèo kéo khách thăm quan, tăng giá những
mặt hàng thiết yếu. Điều này cũng sẽ gây những ảnh hưởng rất xấu đến cảnh
quan của những ngôi chùa.
Ngoài ra phải kể đến ý thức người đi lễ chùa ngày càng kém đi. Không ít lễ
hội - diễn ra từ Bắc chí Nam đang bị "biến tướng", đánh mất ý nghĩa ban đầu, trở
thành một nơi nhếch nhác, hỗn loạn để "buôn thánh bán thần", kiế m chác lợi
nhuận...
Người ta có thể dễ dàng bắt gặp nạn chèo kéo du khách đổi tiền lẻ cúng bái ở
đền Hùng (nơi đặt đền thờ Quốc tổ), chùa Tây phương, chùa Thầy (Hà Nội), rồi
chùa Đồng (Yên Tử)... Tiền lẻ được rải vô tội vạ khắp đình chùa miếu mạo ấy,
thậ m chí được nhét lung tung vào các pho tượng thánh, la hán, bồ tát... Đặc biệt,
ở đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh), nạn sắp lễ bằng tiền đã là một công nghệ.
Đường dẫn vào đền dày đặc các bảng quảng cáo đổi tiền, bán phẩm vật dâng
cúng. Chưa hết, đường lên động Hương Tích cũng bị vây bủa bởi nạn chém chặt
khi du khách buộc phải thuê chiếu nghỉ tạm trên đường đi. Rừng trúc ở Yên Tử
bị "tàn sát dã man" để lấy măng bán cho khách thập phương. Vậy đó! Nơi linh
thiêng đã bị "thương mại hóa" thành nơi bán mua ồn ào, bát nháo, lừa lọc, chửi
bới... lẫn nhau.
Những năm gần đây đầu xuân có nhiều lễ hội ở làng, đình, chùa, đền... rất
đông. Tuy nhiên, việc tổ chức lễ hội chủ yếu là do hội làng, hội đình, hoặc một
nhóm người đứng ra tổ chức, mà ít có sự tham gia của Nhà nước, hay chính
quyền địa phương. Do việc tổ chức tự phát như vậy nên một số nơi, lễ hội còn
lộn xộn, tốn kém, hoặc thậm chí còn mang màu sắc mê tín, dị đoan (lên đồng, bói
tóan, đốt vàng mã...). Bên cạnh đó, nhân dịp những ngày lễ hội, không ít những
đối tượng thanh, thiếu niên (nhất là ở các vùng nông thôn) còn sa vào món cờ
bạc, đỏ đen, gây mất trật tự, an toàn xã hội...
Cuộc sống đã ngày càng gấp gáp hơn, không ít người đã coi những cuộc
chơi xuân là những chuyến đi cầu lộc may mắn cho cả một nǎm làm ǎn sắp tới,
do vậy ở những đền, chùa có tiếng như Đền bà Chúa Kho (Bắc Ninh), Chùa
Hương (Hà Tây), Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Bia Bà... bên cạnh những gương mặt
thanh thản hiếm hoi là những bà, những anh, những chị nét mặt đầy toan tính và
hy vọng với những mâm lễ đầy tiền, vàng lễ, bia 333, thuốc lá 555, thậm chí có
cả những chai rượu ngoại thay thế cho loại rượu trắng quê mùa...
Rõ ràng những vấn đề trên là những vấn đề đáng báo động của việc du lịch
đền chùa. Thực trạng này là chung cho cả nước, vậy thực trạng việc du lịch đền
chùa ở miền Bắc, cụ thể là Hà Nội mở rộng thì có những vấn đề gì?
2.2. Thực trạng du lịch đền chùa tại Hà Nội mở rộng
2.2.1. Thực trạng một số đền chùa nổi tiếng ở Hà Nội mở rộng
Xã hội ngày càng phát triển. Con người có nhu cầu ngày càng cao hơn về mọ i
lĩnh vực. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, dân chúng ngày càng quan tâm hơn
đến việc đi lễ đầu năm, cầu tài cầu lộc. Ở các thành phố lớn như Hà Nội, các đền
chùa nổi tiếng không ít đồng nghĩa với việc lượng người thường xuyên đi chùa
chiền cũng tăng lên. Có thể kể ra những đền chùa rất nổi tiếng ở Hà Nội, đặc biệt
việc sáp nhập hoàn toàn Hà Tây cũ cũng đã đưa thêm danh sách nhiều chùa chiền
vào địa bàn Hà Nội như: Chùa Hà, chùa Trấn Quốc, chùa Quán Sứ, phủ Tây Hồ,
chùa Tây Phương, chùa Hương... Đây có thể nói là tín hiệu mừng tuy nhiên cũng
không ít những vấn đề bất cập, những nỗi lo làm cho người đi lễ chưa chắc đã
thảnh thơi.
Từ nội thành…
Nằm ở khu vực trung tâm buôn bán sầm uất của 36 phố phường của kinh đô
Thăng Long xưa, chùa Vĩnh Trù ra đời khoảng thế kỷ XIX. Năm 1950, chùa
được trùng tu lớn, xây thêm nhà giữa và nhà khách phía ngoài. Chùa vẫn còn giữ
lại một số di vật: sắc phong, ngai thờ bài vị, tượng Phật, câu đối… và những đồ
đồng có giá trị nghệ thuật cao. Trong chiến chống thực dân Pháp, chùa Vĩnh Trù
được chọn làm cơ sở của cuộc chiến đấu và cũng là địa điểm cứu thương bệnh
binh… Chùa Vĩnh Trù đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (trước đây) công nhận là
di tích lịch sử - văn hóa và là một điểm đến trong tuyến tham quan du lịch khu
phố cổ Hà Nội.
Hiện nay, khuôn viên của chùa bị một số người dân chiếm dụng làm nơi giữ
xe, bán hoa, quán cơm, thậm chí mở cả…quán thịt chó…gây nên cảnh nhếch
nhác, mất vẻ tôn nghiêm chốn linh thiêng. Tình trạng trên diễn ra đã khá lâu và
người dân xung quanh chùa đã nhiều lần phản ánh nhưng chính quyền sở tại vẫn
chưa tìm ra biện pháp hữu hiệu để can thiệp.
Chùa Bộc nằm trên phố chùa Bộc sầm uất cũng trong cảnh tương tự. Chùa
Bộc vốn được dựng để thờ Phật, nhưng vì chùa tọa lạc sát một chiến trường của
nghĩa quân Tây Sơn đại phá giặc Thanh nên chùa còn thờ cả vua Quang Trung
và vong linh những sĩ tử. Trong chùa Bộc có pho tượng Quang Trung hoàng đế
đặt dưới bức hoành “Oai phong lẫm liệt”; pho tượng này được dựng năm Bính
Ngọ (1786). Trong chùa còn một tấm bia đá tạc năm Quang Trung thứ tư (Nhâm
Tý - 1792) ghi lại việc chùa bị cháy và dựng lại sau trận Đống Đa. Năm 1792,
chùa được trùng tu lại trên nền cũ và đổi tên là chùa Thiên Phúc. Tuy nhiên nhân
dân vẫn quen gọi là Chùa Bộc để chỉ xác giặc bị phơi ra khắp nơi. Năm 1962,
chùa Bộc được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Vậy mà giờ đây
khi đến thăm chùa Bộc nhiều người không khỏi ngỡ ngàng. Ngay trước cổng
chùa đã bị chiếm dụng làm nơi bán chăn nệm, rèm cửa; trong khuôn viên chùa là
bãi giữ xe với ngổn ngang xe cộ...
Ngôi đền cổ Đồng Thuận (11 phố Hàng Cá, Hoàn Kiếm ), gắn liền với vị
anh hùng Lý Tiến chống giặc ngoại xâm đầu tiên thời Vua Hùng, đang bị thu
hẹp. Nhiều hộ dân sinh sống ở ngay trong đền còn phía trước đền bị chiế m để
bán hàng, quán cắt tóc, nơi giữ xe. Đền Bạch Mã (76 phố Hàng Buồm), một
trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long, hiện đang bị hàng quán của một số
người dân xâm lấn dùng làm nơi chứa đồ. Đền Voi Phục (xây dựng từ đời Lý
Thái Tông 1028-1054, thờ Linh Lang đại vương, con vua Lý Thái Tông, đã có
công đánh thắng quân Tống xâm lược) đang bị xâm lấn làm bãi giữ xe…
… Đến ngoại thành
Đền Và (thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây) ngày trước là Đông
cung trong tứ cung của xứ Đoài. Nơi đây đang lưu giữ 5 bản thần tích “Tản Viên
Sơn Thánh”; 18 đạo sắc phong của các đời vua, trong đó có 17 bản chính có dấu
ấn; nhiều câu đối được chạ m khắc và hoành phi viết trên gỗ hoặc đá… Trên
những hiện vật có khắc ghi thời gian xây dựng, tu sửa, ca ngợi cảnh quan, uy linh
của Thánh Tản Viên. Các bản thần tích, sắc phong, văn bia đền Và đều được viết
bằng Hán-Nôm. Được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia từ năm
1964, hiện nay ngôi đền đang bị biến thành một công trường xây dựng. Tòa hậ u
cung hoành tráng được dựng mới lại, chỉ còn mấy đoạn tường đá ong là nguyên
bản. Bức tường đá ong khổng lồ nổi tiếng của đền đã bị phá một mảng lớn. Đơn
vị thi công cho biết họ phá tường đá ong…để lấy đường cho ôtô chở vật liệu vào
sửa chữa đền. Xung quanh đền là lán trại căng những tấ m bạt ni-lông, nồi niêu
xoong chảo treo đầy trên mặt tường; nhiều cây xanh bị chặt tơi tả. Toàn bộ khu
đền chính đã được dỡ ra, phủ giàn giáo, che bạt kín bưng. Cổng vào đền rất đẹp
và còn những nét trang hoàng cổ kính cũng đã bị dỡ ra, dựng lại từ đầu. Theo
một số người quản lý thi công ở đền Và cho biết họ sẽ dỡ nốt, xây lại gác
chuông, gác trống...
Chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất) cũng đang bị xâm lấn nghiêm trọng.
Di tích lịch sử văn hóa có giá trị này cũng đang bị người dân lấn chiếm dựng lề u
bán quán, lập bàn thờ cúng bái, xem quẻ… Không chỉ vậy, do chùa nằm giữa
khu dân cư, nên 52 hộ dân vẫn sống trong khuôn viên của chùa.
Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, cụ thể chính là bảo tồn, gìn giữ và phát huy những di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể của cha ông. Trên thực tế, giải pháp bảo vệ di tích ở Hà Nội vẫn
đang là một vấn đề nan giải. Trong những năm qua, Thành phố Hà Nội đã có
nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ trùng tu hệ thống di tích lịch sử nhưng vẫn chưa
kiể m soát hết. Khu di tích Hoàng Thành Thăng Long, Đàn Nam Giao, Đàn Xã
Tắc, Đền Và…chỉ là một số trong vô vàn câu chuyện về ứng xử với di tích hiệ n
nay. Những gì đã qua là một bài học lịch sử mà những người có trách nhiệ m cần
nhìn lại mình và hãy tự soi vào tấm gương lịch sử.
Một thực trạng trong thời gian qua đã bị dư luận xã hội và báo chí phản ánh
đó là việc trùng tu, tôn tạo các khu di tích mà cụ thể “trùng tu” ở đây là sự phá
hoại những di tích văn hóa bằng sự không hiểu biết, bằng sự vô trách nhiệ m hay
vì lợi ích kinh tế. Không phải chúng ta không được sửa chữa, trùng tu và chúng
ta gìn giữ bảo tồn cái cũ theo nghĩa cứ để nguyên phó mặc cho thời gian, mà phả i
phát triển những giá trị đó trong thời đại mới. Chỉ giữ nguyên mà ngắm, không
phát huy thì không thể phát triển được, không nối được quá khứ với hiện tại và
tương lai. Đối với một di tích cụ thể, sẽ lựa chọn xem niên đại tối ưu của nó ở
thời kỳ nào, giá trị ở đâu, người ta sẽ chú trọng vào giai đoạn cấu thành di tích ấ y
hưng thịnh nhất, đẹp nhất, những yếu tố bổ sung sau này có thể tước bỏ đi.
Nguyên tắc chung là như vậy. Nhưng nguyên tắc ấy không thể áp dụng đại trà,
mỗi di tích có một phương thức tiếp cận khác nhau. Trong mắt không ít những
người trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến việc trùng tu hay phục chế thì những
di tích văn hóa thiêng liêng và vô giá kia chỉ giống như một công trình xây dựng
dân dụng và việc họ tiến hành trùng tu hay phục chế được coi như một công việc
kinh doanh. Thật đáng buồn, không ít nơi người ta đang phá hoại những di tích
đó bằng chính hành động gọi là trùng tu hay phục chế.
Việc tu bổ thiếu quy hoạch, cơ sở hạ tầng cũ nát... một vấn đề nữa cũng phả i
đề cập ở đây. Đó là một vấn đề góp phần vào những tồn tại của hình thức du lịch
đền chùa hiện nay tại Hà Nội đó là ý thức của những người tham gia bao gồm cả
dân cư địa phương và khách thăm quan.
Đối với giới trẻ Hà thành hiện nay thì đi chùa là “mốt”. Cũng chính vì vậy mà có
khi chẳng có chùa nào nổi tiếng mà họ lại không đến. Cầu duyên thì phải đến
chùa Hà, cầu an ở chùa Phúc Khánh, cầu may và tài lộc ở Phủ Tây Hồ, giải sao
giải hạn ở chùa Khương Trung... Thậm chí là đi tận đền Bà Chúa Kho cầu tài lộc
hoặc Yên Tử cầu may. Người thành kính thường nói rằng đi chùa Hương phải 12
năm liên tục mới linh. Mặc dù ban quản lý ở các khu di tích rất kiên quyết dẹp bỏ
những dịch vụ mang màu sắc mê tín dị đoan, những loại văn hoá phẩm “đen” in
ấn ăn theo lễ hội, song nhiều nơi những ông “thầy” vẫn lén lút bán quẻ, xem số
bên cạnh những “quầy” sách tử vi, tướng số.
Có lẽ mặt hàng bán không tăng giá ở các đền chùa trong dịp này là những tờ vé
số. Những hàng vé số ngồi cạnh cửa ra vào ở Phủ Tây Hồ, hay hàng vé số trong
sân Chùa Hà luôn có đông thanh niên dừng lại để thử vận may đầu năm. Cũng có
không ít nam thanh nữ tú đi lễ chùa tiện thể shopping luôn.Các cửa hàng quần áo
đại hạ giá nằm sát với Phủ Tây Hồ chật cứng thanh niên chọn hàng ngã giá.
Người thì mua ví, đồ lưu niệm để mong đem may mắn về nhà. Trong dòng người
nhộn nhịp đi lễ chùa, cảnh những cô cậu thanh niên ăn mặc rất “mô đen” vớ i
những mái tóc nhuộm sặc sỡ. Các chùa đều có bảng ghi rõ về cách thức ăn mặc
khi đi lễ nhưng không ít thanh niên coi đi chùa như một cuộc trình diễn thờ i
trang. Họ luôn miệng cười nói, trêu đùa, văng tục thô lỗ giữa chốn linh thiêng.
2.2.2. Thị trường khách du lịch đền chùa ở Hà Nội mở rộng
a) Số lượng và cơ cấu khách
- Số lượng khách du lịch ở Hà Nội
Quý I năm 2009 ,Theo C ục Thống kê TP Hà Nội, trong tháng 3, ngành du
lịch Hà Nội đã đón được 100.000 lượt khách du lịch quốc tế, tăng 4,8% so với
tháng 2/2009 nhưng giảm 27,6% so với cùng kỳ 2008. Như vậy, trong quý
I/2009, lượng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội đạt 289.000 lượt khách, giả m
18,1% so với cùng kỳ năm trước. Nếu như lượng khách quốc tế giảm mạnh thì
lượng khách du lịch nội địa lại tăng 9,7% so với cùng kỳ. Trong 3 tháng đầu
năm, Hà Nội đã đón gần 2,2 triệu lượt khách du lịch nội địa. Lượng khách nội
địa tăng, kèm theo giá tour tăng do d ịch vụ thuê phòng lưu trú và dịch vụ vậ n
chuyển tăng nên doanh thu của khối khách sạn, nhà hàng, du lịch lữ hành trong
quý I/2009 đạt trên 4400 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ 2008.
Lượng du khách tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng lên của khách du
lịch đền chùa bởi vì 3 tháng đầu năm ở nước ta là mùa lễ hội, khách đi tham
quan, đi lễ rất đông. Đặc biệt ở miền Bắc cụ thể là ở Hà Nội, những đền chùa nổi
tiếng chắc chắn là điể m đến lý tưởng cho mọi du khách đi du lịch đầu năm.
- Cơ cấu khách du lịch ở Hà Nội
Có các con số như sau
Tốc độ tăng trưởng khách quốc tế đến 2008 thấp kỷ lục
Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ mới chính thức nổ ra từ cuối quý
III/2008, tuy nhiên triệu chứng đã có từ đầu năm và làm cho lưu lượng khách đi
du lịch trên thế giới giảm sút rõ rệt; đối với nước ta, lưu lượng khách quốc tế đến
bắt đầu giảm từ cuối quý I, giảm mạnh từ cuối quý II và giảm rất mạnh từ cuối
quý III.
Cơ cấu khách đến theo mục đích biến động trái ngược nhau
Kết quả thống kê du khách quốc tế đến Việt Nam năm 2008 cho thấy số khách
đến vì các mục đích khác nhau đã biến động không giống nhau, trong khi số
khách đến thuần túy du lịch, tăng nhẹ thì số khách đến vì mục đích công việc kết
hợp du lịch tăng rất mạnh và ngược lại số khách đến với mục đích thăm thân kết
hợp du lịch đã giảm xuống rõ rệt.
Cũng như “lộ trình” giảm tốc về số khách quốc tế đến Việt Nam thuần túy
mục đích du lịch và công việc kết hợp du lịch nói trên, “lộ trình” giả m tốc về số
du khách đến Việt Nam với mục đích thăm bạn bè, người thân kết hợp du lịch
năm nay cũng đã bắt đầu từ tháng 5 và từ sau đó đến nay đã liên tục tụôt dốc
không phanh cùng với mức độ ngày càng trầm trọng của khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế thế giới đã diễn ra.
Khách đến từ thị trường gần tăng, thị trường xa giảm hoặc tăng thấp
Cho đến nay, Việt Nam ta đã có khoảng 30 thị trường truyền thống thường xuyên
có số lượng khách đến khá lớn và liên tục tăng cao. Đó là khách đến từ các thị
trường láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia; từ thị trường khu vực
ASEAN như Thái Lan, Malaysia, Singapore; từ các thị trường Đông Bắc Á như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan; từ các thị trường châu Âu như Pháp, Anh, Đức,
Italia, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Phần Lan, Bỉ, Tây Ban Nha, Nga…; từ thị
trường châu Mỹ như Hoa Kỳ, Canada và từ châu Đại Dương như Australia,
Newzeland. Tuy nhiên, đến năm nay thì chỉ còn khách đến từ một số thị trường
láng giềng và khu vực có vị trí địa lý gần với nước ta như Trung Quốc, Thái Lan,
Malaysia, Singapore và một ít thị trường khác thuộc châu Âu như Thụy Điển, Na
Uy và Nga còn tăng khá cao; còn khách đến từ Mỹ và Australia tuy vẫn tăng
nhưng tốc độ rất thấp và khách từ các thị trường còn lại đều cùng chung xu
hướng giảm khá mạnh, đặc biệt là một số thị trường lớn như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Campuchia, Pháp, Anh, Đức…
Xu hướng 2009: Đầu năm tiếp tục giảm, cuối năm có khả năng hồi phục
Theo dự báo của nhiều nhà kinh tế thế giới thì hậu quả của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu hiện nay sẽ còn kéo dài sang quý I
và II năm 2009 và khả năng hồi phục có thể được chỉ từ 6 tháng cuối năm, vì vậy
lưu lượng khách đi du lịch thế giới nói chung và đến Việt Nam nói riêng cũng sẽ
tiếp tục bị ảnh hưởng và theo xu hướng giảm xuống cho đến khi nền kinh tế thế
giới phục hồi trở lại. Đặc biệt, đối với dòng khách đến từ các nền kinh tế lớn nằ m
trong tâm xoáy của cơn bão tài chính như Mỹ, các thị trường châu Âu, Đông Bắc
Á và châu Đại Dương sẽ tiếp tục giả m mạnh trong các tháng đầu năm 2009. Tuy
nhiên, du khách đến từ các thị trường láng giềng gần như Trung Quốc, các nước
ASEAN như Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Lào, Campuchia… một
mặt do vị trí địa lý gần và mặt khác, do không nằm vào vùng tâm xoáy của bão
tài chính nên du khách đến Việt Nam sẽ tiếp tục tăng, nhưng tốc độ sẽ không còn
cao như các năm trước đây. Từ đó, có thể dự báo tổng số khách quốc tế đến Việt
Nam trong những tháng đầu năm 2009 sẽ tiếp tục theo xu hướng giảm so vớ i
cùng kỳ 2008, nhưng mức độ giả m có thể ít hơn các tháng cuối năm 2008; từ quý
III/2009 trở đi lưu lượng khách đi du lịch thế giới và đến Việt Nam có khả năng
sẽ được hồi phục và tăng trở lại.
Số lượng và cơ cấu khách du lịch đền chùa ở Hà Nội cũng chịu ảnh hưởng của số
lượng và cơ cấu của khách du lịch thăm quan trên cả nước. Có điều cần phải đề
cập là lượng khách du lịch đền chùa ở Hà Nội ngày càng tăng lên nhanh chóng
và đa dạng về cơ cấu. Khách bao gồ m nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi... Điều
này thể hiện, loại hình du lịch đền chùa đang ngày càng được quan tâm với phạ m
vi toàn xã hội.
b) Nhu cầu của khách du lịch đền chùa
Ta có theo Công ty cung cấp dịch vụ tư vấn và nghiên cứu thị trường toàn
cầu RNCOS vừa đưa ra dự báo lượng khách quốc tế đến Việt Nam sẽ tiếp tục
tăng đều trong vòng bốn năm tới và số khách có thể đạt 5,2 triệu vào năm
2012.Trong bản dự báo ngành du lịch Việt Nam từ nay đến năm 2012, RNCOS
cho biết Việt Nam đã đón khoảng 4,25 triệu du khách quốc tế trong năm 2008,
và có thể thu hút 4,3 triệu du khách quốc tế trong năm nay, 4,5 triệu năm 2010,
4,8 triệu vào năm 2011 và 5,2 triệu vào năm 2012.
Năm 2009 được lấy là Năm ngoại giao văn hóa của Việt Nam và du lịch
được đề cập đến như là một cách thức tạo hình ảnh hấp dẫn cho du khách đến với
Việt Nam, đồng thời qua đó giới thiệu bản sắc văn hóa dân tộc đặc sắc của Việt
Nam tới bạn bè thế giới. Đây là chủ trương mà Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đã bàn với các nhà hát, các công ty lữ hành qua đó chúng ta có thể hi vọng rằng
tương lai của ngành du lịch của chúng ta sẽ ngày càng phát triển hơn nữa vì ngày
càng nhiều du khách biết đến Việt Nam thông qua các hoạt động mang tính chất
quốc tế ,các buổi văn nghệ giao lưu văn hóa .....
Với gần 1000 năm tuổi, Hà Nội có rất nhiều chùa chiền và thắng cảnh cổ
kính thiêng liêng. Hà Nội cũng là mảnh đất anh dũng, hào hùng đã trải qua hai
cuộc kháng chiến .trường kỳ, gian khổ chống Pháp và chống Mỹ. Chính vì thế
mà Hà Nội cũng là một thành phố có vẻ đẹp kiến trúc cổ điển kiểu Pháp, hiệ n
đại kiểu Mỹ.