Tiểu luận “Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và vận dụng vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay”
Khi nghiên cứu xã hội Tư bản Các Mác phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội Tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động và phát triển của xã hội Tư bản. Từ đó, Các Mác đã đi đến dự báo về sự thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa bằng chế độ công...
TRƯỜNG..........................
KHOA.................................
TIỂU LUẬN
“Quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất và vận
dụng vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội
ở nước ta hiện nay”
LỜI MỞ ĐẦU
Từ Đại hội Đảng VI (1986) Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ cần phải
đổi mới nền kinh tế đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đến năm 1992
đường lối đó đã được cụ thể hoá.
Khi nghiên cứu xã hội Tư bản Các Mác phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản
của xã hội Tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với chế
độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm
nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động và phát triển của xã hội
Tư bản. Từ đó, Các Mác đã đi đến dự báo về sự thay đổi chế độ chiếm hữu tư
nhân Tư bản chủ nghĩa bằng chế độ công hữu. Sau này, khi nghiên cứu vấn đề
này Lênin đã chỉ ra sự thay thế đó không thể tiến hành một sớm một chiều mà
đó là cả một quá trình lâu dài phức tạp.
Ta biết rằng vấn đề kinh tế là vấn đề tiên quyết làm thay đổi các vấn đề
khác do vậy Đảng ta chỉ ra rằng sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất là một vấn đề cực kì quan trọng trong giai đoạn hiện nay: giai
đoạn đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn thì cần hiểu rõ và
áp dụng sáng tạo quy luật trên vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Do vậy
việc nghiên cứu quy luật này là một vấn đề hết sức cần thiết. Chính vì vậy mà
em đã quyết định chọn đề tài: “Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất và vận dụng vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay”. Tuy nhiên trình độ nhận thức hiểu biết về mọi mặt còn
hạn chế nên không tránh khỏi sai sót. Em mong nhận được sự chỉ bảo của
thầy cô và ý kiến đóng góp của bạn đồng học. Em xin chân thành cảm ơn!
1
2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển không thể không sản xuất ra
của cải vật chất mà trình độ phát triển của nó được biểu hiện chính bởi
phương thức sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Từ khi con người
mới xuất hiện trên hành tinh đã trải qua năm phương thức sản xuất. Đó là:
Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ
nghĩa. Tư duy nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà theo
thời gian ngày càng phát triển hoàn thiện hơn, từ đó kéo theo sự thay đổi phát
triển trong sản xuất. Lịch sử phát triển của sản xuất trong xã hội loài người là
lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Phương thức sản
xuất là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
là cách thức sản xuất ra của cải vật chất mà trong đó lực lượng sản xuất đạt
đến một trình độ nhất định, thống nhất với quan hệ sản xuất tương ứng với nó.
Phương thức sản xuất vừa là hạt nhân đồng thời vừa là động lực thúc đẩy và
quy đinh mọi mặt của đời sống xã hội. Không thể thúc đẩy sự tăng trưởng của
nền kinh tế nếu không hiểu biết về cách thức sản xuất và không có những biện
pháp tối ưu tác động nhằm hoàn thiện phương thức sản xuất mà cụ thể chính
là hoàn thiện mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất đã được Mac và Ăngghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng
định rằng lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất và
ngược lại, có thể thúc đầy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Xã hội ngày càng phát triển thì mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất là không thể tách rời, đây là quy luật chung của sự phát triển
và là một trong những quy luật quan trọng quy định sự tồn tại, phát triển và
tiến bộ xã hội. Chính vì thế mà không phải ngẫu nhiên việc nghiên cứu quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi
3
mới chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang tiến hành hôm nay. Chúng ta đã có
những bài học đắt giá, đó là sự sai lầm khi xây dựng nhiều yếu tố của quan hệ
sản xuất vượt trước so với lực lượng sản xuất mà chúng ta hiện có. Đó là việc
chỉ cho phép các hình thức sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể tồn tại, trong
khi các hình thức sở hữu khác đang còn có tác dụng mạnh mẽ đối với lực
lượng sản xuất thì lại bị ngăn cấm, không được phép phát triển. Việc đó đã
dẫn đến tình trạng sản xuất bị đình đốn, người lao động không làm việc hết
mình, xã hội không phát triển. Vậy phải giải quyết vấn đề này như thế nào ?
Việc vận dụng đúng đắn qui luật trên vào công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay là vô cùng cấp thiết.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Nội dung nguyên lí triết học
a) Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
được hình thành trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất gồm có tư liệu
sản xuất và người lao động . Có thể nói lực lượng sản xuất là tất cả các nhân
tố vật chất, kĩ thuật cần thiết để tiến hành một quá trình sản xuất nào đó trong
đó người lao động giữ vai trò nhân tố cơ bản và quyết định .
Tư liệu sản xuất lại được cấu thành từ hai bộ phận: đối tượng lao
động và tư liệu lao động; trong đó đối tượng lao động có thể là giới tự nhiên
hoặc những sản phẩm không có sẵn trong tự nhiên mà do con người bằng lao
động của mình đã tạo ra. Còn tư liệu lao động là những vật hay phức hợp các
vật thể nối con người với đối tượng lao động và dẫn truyền sự tác động của
con người vào đối tượng lao động, nó lại bao gồm công cụ sản xuất và
phương tiện lao động, mà trong đó công cụ sản xuất được con người không
ngừng cải tiến và hoàn thiện, do đó công cụ sản xuất luôn luôn là yếu tố động
nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất .
Bất kỳ một thời đại lịch sử nào, công cụ sản xuất bao giờ cũng là
sản phẩm tổng hợp, đa dạng của toàn bộ những phức hợp kỹ thuật được hình
4
thành gắn liền với quá trình sản xuất và phát triển của khoa học kỹ thuật. Nó
là kết quả của rất nhiều yếu tố, trong đó quan trọng và trực tiếp nhất là trí tuệ
của con người được nhân lên trên cơ sở kế thừa nền văn minh vật chất trước
đó.
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà trong đó đặc biệt là công
cụ sản xuất là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, đồng thời
đó cũng là cơ sở xác định trình độ của sản xuất và là tiêu chuẩn đánh giá sự
khác nhau giữa các thời đại kinh tế , các chế độ chính trị xã hội.
Song nhân tố quyết định của lực lượng sản xuất phải nói tới nhân tố
người lao động. Lênin đã nói: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động” [V.I. Lenin Toàn tập, tập 38_ nhà
xuất bản Tiến bộ_ Matxcơva_ năm 1977_ trang 430]. Dù tư liệu sản xuất có
đối tượng lao động phong phú, giàu có đến mức nào, có tư liệu lao động tinh
xảo và hiện đại đến đâu chăng nữa nhưng nếu tách khỏi người lao động thì
cũng không phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong lịch sử đã và sẽ
không tồn tại một hình thức sản xuất vật chất nào mà lại không có nhân tố con
người. C.Mac và Ph.Ăng-ghen đã viết: “Bản thân con người bắt đầu được
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt...” [C.Mac và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, tập 1_ Nhà xuất bản Sự thật_
Hà Nội_ năm 1980_ trang 268]. Con người là nhân tố trung tâm và là mục
đích của nền sản xuất xã hội. Sản xuất suy đến cùng là để tiêu dùng, không có
tiêu dùng thì cũng không có sản xuất nhất là trong điều kiện ngày nay, khi
công cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ thì vị trí
trung tâm của con người ngày càng được nhấn mạnh. Người lao động với tư
cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất xã hội phải là người có sức lực
(sức khoẻ), kĩ năng lao động , tri thức khoa học , tri thức công nghệ và cả tính
nhân văn ( bao hàm cả các giá trị đạo đức).
b) Quan hệ sản xuất.
5
Trong quá trình sản xuất con người cần phải có mối quan hệ xã hội
với nhau. Tổng thể các mối quan hệ đó được gọi là mối quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội: sản xuất – phân phối – trao
đổi – tiêu dùng. Tổng thể các quan hệ xã hội này có thể được phân tích trên 3
yếu tố cơ bản:
Thứ nhất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa
con người đối với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
Đây là quan hệ có ý nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác.
Thứ hai, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất , kinh doanh, tức là
quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như
phân công chuyên môn hoá và hợp tác hóa lao động, quan hệ giữa người quản
lý với công nhân. Trong thực tế, thích ứng với một kiểu sở hữu là một chế độ
tổ chức và quản lý nhất định. Mặc dù phụ thuộc vào quan hệ sở hữu nhưng tổ
chức và quản lý sản xuất có tác dụng rất lớn đối với quá trình sản xuất và với
các mặt quan hệ khác của quan hệ sản xuất. Chính quan hệ về tổ chức và quản
lý sản xuất là nhân tố tham gia quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ và
hiệu quả của nền kinh tế.
Thứ ba, quan hệ phân phối sản phẩm lao động: tuy quan hệ này phụ
thuộc vào quan hệ sở hữu và vào trình độ tổ chức quản lý sản xuất nhưng đến
lượt mình thông qua tổ chức và quản lý, nó trở thành chất xúc tác quan trọng
đặc biệt đối với sự tăng trưởng kinh tế.
Ba mặt quan hệ nói trên là một thể thống nhất hữu cơ, quan hệ chặt
chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư
liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái
sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động. Vì vậy không nên tuyệt
đối hoá bất kỳ một mặt quan hệ nào mà phải chú ý đến tính đồng bộ của cả ba
mặt quan hệ trong quan hệ sản xuất.
6
Như vậy tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ nó tồn tại
khách quan độc lập hoàn toàn với ý thức của con người. Mác đã chỉ ra rằng
trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ
nhất định, tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ. Tức là những quan hệ
sản xuất này phù hợp với trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản
xuất vật chất của họ. Vì vậy con người không thể tuỳ tiện lựa chọn quan hệ
sản xuất riêng cho mình, bởi vì chúng luôn luôn là kết quả phát triển tất yếu
khách quan của một lực lượng sản xuất hiện có tương ứng với nó.
c) Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
* Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất:
Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và giảm bớt lao động nặng nhọc,
con người không ngừng cải tiến, hoàn thiện và chế tạo ra những công cụ sản
xuất mới ngày càng tinh xảo và hiện đại. Đồng thời với sự tiến bộ của công
cụ, tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng kỹ xảo
của người lao động cũng ngày càng phát triển. Cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất âý, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự phù hợp đó là
động lực làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Lực lượng sản xuất
là nội dung, là phương thức còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó.
Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình
thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước sau đó hình
thức thay đổi theo. Chính vì thế cần khẳng định lực lượng sản xuất quyết định
sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất.
* Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất:
Như trên ta thấy lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi,
phát triển không ngừng trong khi đó quan hệ sản xuất mà đặc biệt là nhân tố
sở hữu về tư liệu sản xuất lại có tính ổn định lâu dài. Quan hệ sản xuất khi đã
được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất, trở thành những
cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực
7
lượng sản xuất mà thường có xu hướng lạc hậu hơn so với lực lượng sản xuất.
Khi đó nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, có thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành
động lực thúc đẩy, định hướng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát
triển. Ngược lại, nếu lạc hậu hơn so với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Ngay cả trong trường hợp quan hệ sản xuất đi quá xa so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó cũng kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực
lượng sản xuất (thúc đầy hoặc kìm hãm ), vì nó quy định mục đích của sản
xuất, quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định
phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được
hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ quảng đại quần chúng lao động - lực
lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc
hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa khọc và
kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao động.
Tuy nhiên, không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của quan
hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu quan hệ sản
xuất là một hệ thống một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt, quan hệ sở hữu, quan
hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất
mới trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản
xuất.
* Qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
làm hình thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
8
Vậy thế nào là phù hợp : Có thể khái quát ở một số nội dung chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, cả ba mặt của quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính
chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp
tối ưu giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, bảo đảm thực hiện tái sản xuất
mở rộng.
Thứ ba, mở ra những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật
chất, tinh thần đối với người lao động.
Lịch sử xã hội loài người với các phương thức sản xuất kế tiếp nhau
đã chứng minh quy luật kinh tế đó chi phối lịch sử phát triển của các phương
thức sản xuất, đồng thời cũng trực tiếp tác động tới sự vận động của mỗi
phương thức sản xuất.
Thời kì đầu trong lịch sử là xã hội cộng sản nguyên thuỷ với lực
lượng sản xuất thấp kém, đời sống của họ chủ yếu phụ thuộc vào săn bắt hái
lượm, quan hệ sản xuất thơì kì này là quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên
thuỷ, con người cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ thành
quả lao động chung một cách bình đẳng. Xã hội không có người giàu, người
nghèo, không có người sở hữu, không có kẻ làm thuê. Trong quá trình sinh
sống họ đã không ngừng cải tiến và thay đổi công cụ (lực lượng sản xuất) đến
sau một thời kỳ lực lượng sản xuất phát triển, của cải từ chỗ chỉ đủ đáp ứng
nhu cầu cần thiết đã tăng lên đến chỗ dư thừa tất yếu dẫn đến sự tích luỹ, xã
hội bắt đầu có sự phân chia kẻ giàu người nghèo, quan hệ cộng đồng bị phá
vỡ dần dần xuất hiện hệ tư nhân thay thế cho nó. Đó là xã hội chiếm hữu nô
lệ.
Xã hội nô lệ với quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời bằng những
hình thức lao động tập trung, khổ sai, thích ứng với trình độ của lực lượng sản
xuất lúc ấy, chế độ chiếm hữu nô lệ đã đạt được những kỳ tích to lớn trong
lịch sử văn minh nhân loại.
9
Kế tiếp đó quan hệ sản xuất phong kiến ra đời, người nô lệ lao động
khổ sai trong xã hội nô lệ được thay thế bằng người nông nô. Sức lao động
của nô lệ được giải phóng khỏi xiềng xích của trật tự xã hội nô lệ, lực lượng
sản xuất có những bước tiến đáng kể. Sau đó bản thân quan hệ sản xuất phong
kiến cũng không thích ứng được với lực lượng sản xuất hiện có, nó trở thành
xiềng xích trói buộc lực lượng sản xuất xã hội, đặc biệt là với phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành tự phát trong lòng xã hội phong kiến.
Xung đột này dẫn đến sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay
thế quan hệ sản xuất phong kiến.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời góp phần giải phóng sức
lao động của người nông dân cá thể. Để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư,
giai cấp tư sản đua nhau mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng nhanh
chóng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào tất cả các khâu của nền sản xuất
xã hội. Trong thời kỳ hoàng kim của mình, quan hệ sản xuất tư bản đã tạo ra
những khả năng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, nó đã tạo ra cho nhân
loại một khối lượng của cải vật chất bằng tất cả các xã hội trước đó cộng lại.
Song bản thân tính chất xã hội hoá ngày càng cao của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa gắn liền với lao động tập thể của đội ngũ giai cấp công nhân
hùng mạnh, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt với chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa. Mặc dù giai cấp tư bản sử dụng mọi biện pháp nhằm củng cố,
duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu của mình, nhưng tất yếu khách quan, tính chất
xã hội hoá của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến xung đột với quan hệ sản xuất
hiện có của nó. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thay thế bởi quan hệ
sản xuất mới, tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của lực lượng sản xuất:
quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu tiên của nó là chủ
nghĩa xã hội.
Như vậy sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới hạn nhất
định sẽ bộc lộ mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Những quan hệ ấy từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để bảo vệ, để phát triển
10
các lực lượng sản xuất thì giờ đây trở thành lực lượng kìm hãm sự phát triển
ấy. Nó đòi hỏi phải được thay đổi cho phù hợp (tạo ra hình thức mới). Sự thay
đổi quan hệ ấy không phải một cách tự nhiên mà bao giờ cũng được thực hiện
thông qua một cơ chế về mặt pháp luật, chính trị. Nó được thực hiện thông
qua những cuộc cải cách kinh tế, cách mạng, chính trị, pháp luật kinh tế .
2. Vận dụng nguyên lí triết học để giải quyết vấn đề:
a) Thực trạng:
* Các quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của Việt Nam trong
lịch sử.
Không nằm ngoài quy luật về mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất, Việt Nam đã trải qua trên 4000 năm lịch sử với nhiều
phương thức sản xuất khác nhau trong đó cơ bản nhất và chủ yếu nhất là
phương thức sản xuất phong kiến. Tiếp đó, sau hơn 80 năm đô hộ của bọn
thực dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí
Minh, chúng ta đã xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
* Việt Nam trong thời kì đầu đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau 30/4/1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu trong việc hàn gắn vết thưng chién tranh. Tuy nhiên nền kinh
tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển mang nặng tính tự
cấp, tự túc. Trang bị kỹ thuật và kết cấu xã hội yếu kém, cơ cấu kinh tế mất
cân đối, cơ cấu kinh tế tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng
nề. Nền kinh tế kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, khủng hoảnh kinh tế
kéo dài, các tệ nạn tham nhũng... lan rộng. Đảng cộng sản còn non, đội ngũ
cán bộ còn yếu về năng lực, các thế lực đế quốc và phản động ráo riết thực
hiện chiến lược diễn biến hoà bình, phá hoại và bao vây kinh tế. Nếp sống văn
hoá, đạo đức bị xói mòn, lòng tin vào Đảng và nhà nước bị giảm sút.
Thực trạng trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả
của nhiều năm chiến tranh, song chủ yếu là chúng ta đã vi phạm sai lầm chủ
11
quan duy ý chí, vi phạm các quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, trong tién hành công nghiệp hoá và trong cơ chế quản lý kinh tế đặc
biệt là không có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Chúng ta đã quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ
một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Chúng ta đã thiết lập chế độ công hữu thuần
nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Đồng nhất chế độ công
hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hoá.
Chúng ta đã ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã,
mở rộng phát triển quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp
lớn mà không tính đến trình độ lực lượng sản xuất đang còn thời kỳ quá thấp
kém. Chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ nhận là đã có “quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa” và còn nói rằng: mỗi bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ,
xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực
lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có khả năng “vượt
trước” “mở đường” cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thực tế nhiều
năm qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm bởi quan hệ sản xuất bị thúc
đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo đã làm cho nó tách rời với trình độ
thấp kém của lực lượng sản xuất.
Phải thấy rằng quan hệ sở hữu thể hiện trong việc xoá bỏ tất cả chế
độ tư hữu, thiết lập công hữu về tư liệu sản xuất không phải chỉ thời gian ngắn
là xong. Nhưng dẫu có làm được thì cũng không phải là mục tiêu trước mắt
của nước ta khi mà chế độ công hữu này chưa thể phù hợp với lực lượng sản
xuất hiện có. Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mac và
Ph.Ăng-ghen đã phát hiện ra mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất
với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa
làm nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động phát triển của xã
hội tư bản. Từ đó các ông đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ công hữu. Việc thay thế ấy, theo quan
điểm của các ông, không thể tiến hành ngay một lúc, mà phải là một quá trình
12
lâu dài. Tuy nhiên lúc đó các ông vẫn chưa chỉ ra mô hình cụ thể về chế độ
công hữu. Sau đó, khi vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng của C.Mac và
Ăng-ghen vào điều kiện cụ thể của nước Nga, V.I.Lenin cũng khẳng định con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước lạc hậu chưa qua tư bản phải
trải qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ khác nhau. Ông đã cực lực
phê phán những tư tưởng nóng vội muốn xác lập ngay chế độ công hữu, khi
mà những thành phần kinh tế khác vẫn còn nhiều khả năng góp phần làm cho
sản xuất phát triển. Chúng ta phải thừa nhận một trong những sai lầm cơ bản
mà chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
khi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của chúng ta còn chưa đủ sức thay thế. Điều
đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và đã làm
mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. Cũng vậy, chúng ta xoá
sạch tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua
bán của ta chưa làm nổi vai trò “người nội trợ cho xã hội ” gây nhiều khó
khăn ách tắc cho lưu thông hàng hoá và không đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho
nhân dân.
* Việt Nam chuyển đổi sang cơ chế kinh tế mới.
Trước tình hình trên, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đặt ra vấn
đề cấp thiết là phải tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế: "phải kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị" [V.I.Lenin Toàn tập, tập 2].
Chính nhờ đường lối đổi mới và lựa chọn các bước đi thích hợp mà
nước ta đã từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và đứng vững trước sự
sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Công cuộc đổi mới đề ra cho
chúng ta nhiệm vụ phải xem xét lại phương thức và con đường đưa đất nước
ta tiến lên. Sai lầm của ta là đã đẩy nhiều mặt của quan hệ sản xuất lên quá
cao, tách rời tình trạng còn thấp kém của lực lượng sản xuất làm cho hai nhân
tố này mâu thuẫn với nhau dẫn đến kìm hãm sự phát triển của sản xuất xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã nhận ra sai lầm và cũng đã thấy rằng việc cải tạo
13
quan hệ sản xuất xã hội là cần thiết nhưng không thể tiến hành một cách chủ
quan nóng vội như trước đây, nghĩa là phải cải tạo và củng cố quan hệ sản
xuất nhưng gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đại hội VII của
Đảng cũng chỉ rõ:"...phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết
lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa
dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước" [Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội_ Nhà xuất bản Sự thật_ Hà Nội_ năm 1991_trang 9-10]
Cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất nhưng bao giờ cũng phải gắn
liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, và được đảm bảo bằng sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Đó là điều kiện cơ bản cho cuộc cách mạng quan
hệ sản xuất phát triển vững chắc. Với trình độ của mình lực lượng sản xuất
yêu cầu phải có những quan hệ sản xuất phù hợp với nó mới có thể bộc lộ hết
khả năng của mình và mới có khả năng phát triển nhanh chóng. Tương ứng
với mỗi trình độ lực lượng sản xuất đòi hỏi một quan hệ sản xuất, một thành
phần kinh tế nhất định như Ph.Ăng-ghen viết :"...giai cấp Tư sản không thể
biến những tư liệu sản xuất có tính chất hạn chế ấy thành những lực lượng sản
xuất mạnh mẽ được nếu không biến những tư liệu sản xuất của cá nhân thành
những tư liệu sản xuất có tính chất xã hội, mà chỉ một số đông người cùng
làm mới có thể sư dụng được" [Ph.Ang-ghen Chống đuy rinh_ nhà xuất bản
Sự thật_ Hà Nội_ năm 1971_trang 455]. Kết hợp từng ưu thế riêng của từng
thành phần kinh tế thông qua phân cônglao động xã hội là con đường hiệu quả
nhất để phát triển lực lượng sản xuất, qua đây ta cũng thấy rõ vấn đề cơ bản là
làm thế nào để quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta luôn luôn
được tiến hành đồng thời với việc không ngừng đổi mới và hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế nhằm bảo đảm cho sư phát triển đó không xa rời định hướng
14
xã hội chủ nghĩa. Hiện nay các thành phần kinh tế của ta đang vận động theo
cơ chế thị trường với sự điều tiết quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, bằng cơ chế chính
sách ,và các đòn bẩy kinh tế để phát triển sản xuất phục vụ mọi nhu cầu của
xã hội.
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp, cho nên phhải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế , xã hội có tính chất quá độ”
[Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX_ nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia_ Hà Nội_ năm 2001_ trang 85].
*Những ưu điểm và hạn chế trong cơ chế kinh tế mới.
Về ưu điểm:
Trong cơ ché kinh tế mới, sự cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ. Do đó tính
năng động sáng tạo đươc phát huy, người lao động đã không còn tính ỷ lại
vào nhà nước như trong cơ ché tập trung quan liêu bao cấp không biết chủ
động tìm việc và tăng thu nhập. Đối với các doanh nghiệp bước đầu đổi mới
phân phối lợi nhuận, thực hiện cơ chế giá tiêu thụ sản phẩm theo quan hệ
cung cầu trên thị trường và hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Nhờ đó nền
kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: “Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi ( 2,07 lần). tích luỹ nội bộ
của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Từ
tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng được
các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự
trữ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có bước
chuyển dịch tích cực Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống
24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6%
tăng lên 39,1% [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX_ nhà xuất bản
Chính Trị Quốc Gia_ Hà Nội_ năm 2001_ trang 149-150].
15
Mặt hạn chế:
Bên cạnh những ưu điểm trên không thể không nhắc đến một số hạn
chế vẫn còn tồn tại. Đó là việc chuyển sang cơ chế thị trường còn có nhiều
mặt thiếu nhất quán đặc biệt trong tài chính tiền tệ, quản lý còn lỏng lẻo, đội
ngũ cán bộ chưa theo kịp với yêu cầu của thị trường mới, vai trò của Nhà
nước trong quản lý hoạt động đời sống kinh tế xã hội còn yếu. Trong lĩnh vực
kinh doanh, nhà nước chưa tạo được động lực khuyến khích nâng cao năng
suất. Người lao động chưa có động lực thường xuyên và chưa cảm thấy có sự
gắn bó đối với sản xuất kinh doanh và quá trình phát triển của doanh nghiệp.
Tình trạng lạm dụng kinh doanh còn nhiều, thị trường vốn còn chậm phát
triển, lãi suất chưa phù hợp với kinh tế thị trường dẫn đến hạn chế đầu tư.
“Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài
chính, ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế; môi
trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ
tốt cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh” [Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX_ nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia_ Hà
Nội_ năm 2001_ trang154].
b) Việc vận dụng nguyên lý quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta tập trung giải quyết các vấn đề
sau:
* Phát triển lực lượng sản xuất:
Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển tư liệu sản xuất:
Chúng ta đều biết rằng, từ trước đến nay, công nghiệp hoá - hiện đại
hoá là khuynh hướng phát triển tất yếu của các nước. Đối với nước ta, từ một
nền kinh tế tiểu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, nhanh chóng đạt
tới trình độ của một nước phát triển tất yếu phải đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá như là một cuộc cách mang toàn diện và sâu sắc. Đại hội lần thứ
IX của Đảng cũng khẳng định: “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm
đầu của thế kỷ XXI: Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
16
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp.” [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX_ nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia_ Hà Nội_ năm 2001_ trang
148].
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải được triển khai
toàn diện và đồng bộ trong mọi lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết
là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ
mạnh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh, có năng lực nội sinh về
khoa học và công nghệ... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực
tổng hợp để phát triển đất nước.
Về nâng cao, mở rộng hệ thống giáo dục đào tạo nhằm phát triển
người lao động:
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của yếu tố con người trong lực
lượng sản xuất, Đại hội Đảng IX đã nhận định: “Phát triển giáo dục và đào tạo
là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.” [Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX_ nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia_ Hà Nội_
năm 2001_ trang 108] đồng thời cũng đưa ra mục tiêu “Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Điều đó đã cho thấy
việc phát huy nhân tố con người là vấn đề đang rất được coi trọng hiện nay.
Chúng ta chủ trương tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới
nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý
giáo dục, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá , xã hội hoá”. Chăm lo phát triển
giáo dục mầm non, mở rộng hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo. Củng cố thành tựu
xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục
17
trung học cơ sở, tạo điều kiện cho những địa phương có khả năng hoàn thành
sớm việc phổ cập giáo dục bậc trung học, phát triển đa dạng các loại hình
trường phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đồng thời
mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học.
* Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất: quan hệ sản xuất mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa: xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta
không còn là nền kinh tế tư bản, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Bởi vậy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải chú ý đến đặc
điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Trong cải
tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới, đại hội VI đã nhấn
mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt: xây dựng chế độ sở hữu, chế độ quản
lý và chế độ phân phối, không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ công hữu,
coi đó là cái duy nhất để xây dựng quan hệ sản xuất mới. Điều đó lại tiếp tục
được làm rõ trong Đại hội IX: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật
đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị truường định hướng
xã hội chủ nghĩa , cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh;
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
[Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX_ nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia_ Hà Nội_ năm 2001_ trang 96]
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở
hữu tư nhân đã hình thành nên nhiều thành phần kinh tế với những hình thức
tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Kinh tế nhà nước tiếp tục phát
huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình
thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Kinh tế cá thể, tiểu chủ
cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Kinh tế tư bản tư nhân
được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành
18
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Kinh tế tư bản nhà nước
dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư
bản tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng. Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất,
kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ
cao, xây dựng kết cấu hạ tầng.
Phát triển các thành phần kinh tế không phải là công việc dễ dàng và
càng không thể hoàn thành trong một thời gian ngắn. Vậy nên kết quả vừa
qua chỉ là bước đầu và trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên cũng còn
không ít sai sót. Song cũng phải nhận thấy rằng phát triển kinh tế nhiều thành
phần là một chiến lược đúng đắn. Không thể có các thành tựu kinh tế vừa qua
nếu không thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, nếu quan hệ sản
xuất không được điều chỉnh đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất bởi nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản
xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới thì việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp đưa nước ta
tiến lên từng ngày.
III.Kết luận và giải pháp.
1. Tóm tắt.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử thay đổi các phương
thức sản xuất kế tiếp nhau, được bắt đầu từ sự thay đổi lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất còn quan hệ sản xuất là
hình thức của quá trình sản xuất ấy, do đó nó thường mang tính ổn định hơn.
Song sự ổn định đó cũng chỉ là tạm thời và sớm muộn cũng đòi hỏi phải được
thay đổi khi không còn phù hợp. Quan hệ sản xuất ra đời từ lực lượng sản
xuất, nhưng khi ra đời nó cũng có vai trò tác động trở lại đối với lực lượng
sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành động lực thúc đầy, định hướng và
tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, nêú lạc hậu hơn so
19