Tiểu luận: " Phân biệt KTTT với KTTT định hướng XHCN"
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn
thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý
tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời
thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách
nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt
một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình chủ ...
Trường: ĐH QUAN TRUNG
Sinh viên: NGUYỄN ĐĂNG BAY
Lớp: K3_407 – Tài chính ngân hàng
Mã sv: 0308407006
BÀI TIỂU LUẬN
CHỦ ĐỀ: Phân biệt kinh tế thị trường (KTTT) với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (KTTT ĐH XHCN) và nhận thức của anh
chị về những quan điểm cơ bản để hoàn thiện thể chế KTTT ĐH
XHCN.
BÀI LÀM
I. Phân biệt KTTT với KTTT ĐH XHCN
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn
thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý
tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời
thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách
nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt
một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình chủ
nghĩa xã hội kiểu Xôviết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp.
Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu
của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những
khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên
nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận
thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam (tháng 121986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực
hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những
quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là
quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu
kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê
phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang
hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới
về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng
trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử
nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của
toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 31989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra
quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi
lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Đến Đại hội VII (tháng 61991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ
trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (tháng 61996) đưa ra một kết
luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội
mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần
thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được
xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường,
chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4
2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm
nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những điểm khác biệt và tương đồng giữa nền KTTT và nền KTTT ĐH
XHCN:
sự giống nhau biểu hiện ở chỗ, xuất phát từ tính khách quan của nó. cả hai kiểu
KTTT này điều chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ thống các qui luật:
qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật lưu thông tiền tệ…
Đồng thời, cả nền kinh tế thị trường và nền KTTT ĐH XHCN đều là các nền kinh tế
hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị trường có sự điều chỉnh (quản lý) của nàh nước. Tuy
nhiên, sự cang thiệp của nhà nước ở các nền kinh tế là khác nhau. Không có nền
kinh tế thị trường thuần tuý (hoàn hảo) chỉ vận hành theo cơ chế thị trường.
sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền
kinh tế thị trường là ở mục tiêu, phương thức, mức độ can thiệp của nhà
nước quyết định. được thể hiện qua những điểm sau:
Về chế đọ sở hữu, cơ chế thị trường trong nền KTTT luôn hoạt động trên nền
-
tảng của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc
quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. còn cơ chế thị
trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN lại hoạt động trong môi
trường của sự đa dạng các quan hệ sỏ hữu. trong đó chế độ công hữu giữ vai
trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của nền kinh tế
nhà nước.
Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong khi phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trở
thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết. kinh tế nhà nước phải được
củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh
quốc phòng … mà các nền kinh tế khác không có điều kiện thực hiện.
- Về tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lí, trong nền kinh tế thị
trường, sự quản lý của nhà nước luôn mang tính chất tư sản với mục đích
nhằm bảo đảm môi trường kinh tế xã hội thuận lợi cho sự thông trị của giai
cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ bốc lột sức lao động. còn trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì sự can thiệp của nhà nước XHCN
vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân
lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Về cơ chế vận hành, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế
-
có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam.
Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần
hướng tới đích XHCN theo phương châm nhà nước điều tiết vĩ mô.
Về mối quan hệ tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội. vấn đề
-
công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường chỉ được đặt ra khi mặt trái của
cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội. trong kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. vấn đề công bằng xã
hội không chỉ là phương tiện phát triển nền kinh tế hàng hoá mà còn là mục
tiêu của chế độ xã hội mới.
Về vấn đề phân phối thu nhập, sự thành công của nền kinh tế thị trường định
-
hướng XHCN không chỉ dừng lại ở mức độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và
công bằng bình đẳng trong xã hội. tình hình đó đặt ra cho kinh tế thị trường
định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà ba vấn đề sau: Một là, kết hợp vấn
đề lợi nhuận và vấn đề xã hội, đản bảo cho các chủ thể kinh tế có được lợi
nhuận cao, tạo điều kiện kinh tế chính trị xã hội bình thường cho sự phát
triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ nguyên tắt phân phối của chũ nghĩa xã
hội và nguyên tắt kinh tế hangg hoá: phân phối theo lao động, theo vốn, theo
tài năng… trong đó nguyên tắt phân phối theo lao động là chính. Ba là, điều
tiết phân phối thu nhập: nhà nước cần có chính sách giảm khoảng cách
chênh lệch giữa lớp giàu và lớp nghèo. mặt khác, có biện pháp bảo vệ thu
nhập chính đáng của toàn xã hội.
II. Làm thế nào để phát triển được kinh tế thị trường định hướng xã
ội chủ nghĩa ở Việt Nam? ững quan điểm cơ bản để àn thiện thể chế
h nh ho
KTTT ĐH XHCN
:
Đây là một câu hỏi lớn mà muốn trả lời được đầy đủ và chính xác phải qua
từng bước thử nghiệm, tổ chức thực hiện trong thực tế rồi đúc rút, bổ sung, hoàn
chỉnh dần.
có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời
gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định
những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
1 – Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh
tế nhiều thành phần:
coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định
kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là
nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà
nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ;
nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp
luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà
nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao
cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách
nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân
chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng
cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết
rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và
nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp
tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị
trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài.
Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức
hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những
định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành
doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với
nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ
doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào
các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút
công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp
lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước,
mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ
chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần
kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức
kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
2 – Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao
ệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
hi
Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới
được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa
cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư
duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các
thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao
động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và
công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong
nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn.
Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh
doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích
cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường
vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các
hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý
thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển;
bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực
lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai thác
hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết
thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp
luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong
đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách,
luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng
các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công
tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê;
ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo,
kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
3 – Giải quyết tốt các vấn đề xã hội:
hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội,
coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ
nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng
trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp
pháp, điều tiết các quan hệ xã hội.
Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra
nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh
lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng
bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực
hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ
tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc
giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp
của người kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có
công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách
– một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm
chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn
trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn
ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo
lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh
không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái
của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo
bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
4 – Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp
phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra
trong những năm đổi mới.
Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc
tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở
một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng
là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của
Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh tế
vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không
cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản
trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế (?). Ý kiến này không đúng và thậm
chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị
trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà
phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người
có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng
sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất
nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định
hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ
tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn
mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công,
bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở
đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy
xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và
nhiệm vụ đã đề ra.
Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch,
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân,
được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý
tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh,
đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư
hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước.
Tóm lại, sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội,
mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực
tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát
triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới
mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng
còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng
hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và
bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ
đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn
thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển
kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v..
Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy
vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu
trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay.