Tiểu luận môn Tin báo mạng điện tử
Báo mạng điện tử là một loại hình truyền thông đại chúng đang có xu hướng phát triền mạnh cùng với sự bùng nổ của Internet.Giật tít trên báo điện tử đang đặt ra nhiều vấn đề đặc biệt là sử dụng ngôn ngữ. Vì thế, tiểu luận này đi sâu vào nghiên cứu cách giật tít và ngôn ngữ sử dụng trên tít báo mạng, dựa trên khảo sát 25 tít đăng trên báo mạng Vietnamnet.
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
Khoa Phát thanh – Truyền hình
TIỂU LUẬN
TIN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
Đề tài: Nghiên cứu, khảo sát các cách giật tít trên báo mạng
điện tử, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế.
Sinh viên thực hiện: La Thị Hoàn
Lớp : Báo mạng điện tử k27
1
MỞ ĐẦU
Báo mạng điện tử là một loại hình truyền thông đại chúng đang
có xu hướng phát triển mạnh cùng với sự bùng nổ của Internet.
Độc giả báo mạng thường không đọc mà chỉ “lướt mắt”. Trong
các thành tố cấu tạo nên một tác phẩm báo chí thì tít (đầu đề) là
một thành tố mà độc giả đọc trước tiên, nó quyết định số phận
của bài báo rằng độc giả có tiếp tục đọc hay không.
Giật tít trên báo điện tử đang đặt ra rất nhiều vấn đề đặc biệt
là việc sử dụng ngôn ngữ. Đã có những lời cảnh báo về việc sử
dụng ngôn ngữ thiếu chọn lọc, thiếu sáng tạo trên tít báo. Xuất
hiện ngày càng nhiều ngôn từ được tác giả sử dụng trong tít báo
rất rối rắm, khó hiểu, nhiều từ chuyên môn mà chỉ những người
hoạt động trong lĩnh vực chuyên nghành mới có thể hiểu được…
Trên cơ sở đó, tiểu luận đi sâu vào nghiên cứu cách giật tít và
ngôn ngữ sử dụng trên tít báo mạng, dựa trên sự khảo sát 25 tít
đăng trên báo mạng Vietnamnet. Từ đó chỉ ra những ưu điểm và
hạn chế của mỗi cách giật tít làm cơ sở để tìm ra giải pháp khắc
phục.
Việc nghiên cứu ngôn ngữ sử dụng trên báo chí nói chung, trên
tít báo nói riêng là bức thiết để làm tài liệu tham khảo cho những
người viết báo, đặc biệt là phóng viên trẻ học cách giật tít và tránh
những lỗi khi giật tít. Quá trình nghiên cứu sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp: khảo sát, nghiên cứu tài liệu, so sánh,…
2
NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề cơ bản của tít báo:
1. Khái niệm:
Tít (Đầu đề) là tên gọi của tác phẩm, là cơ sở để phân biệt bài
báo này với bài báo khác, giúp người đọc dễ dàng xác định mức
độ quan trọng của thông tin và chọn đọc.
Có thể nói tít là câu quan trọng nhất trong một bài viết trên báo,
dù là một tin ngắn hay một phóng sự. Tít cho độc giả biết chuyện
gì đã xảy ra và vì sao độc giả phải quan tâm tới nó. Tít là phần
độc giả đọc trước tiên. Nếu tít hay, độc giả có thể sẽ tiếp tục đọc
bài báo. Nếu tít hỏng, toàn bộ bài báo công phu rất có thể sẽ bị
bỏ qua.
2. Vai trò và chức năng của tít:
a. Vai trò:
Tít là cơ sở để phân biệt bài báo này với bài báo khác dù cùng
viết về một đề tài. Tít xác định mức độ quan trọng của thông tin
giúp độc giả lựa chọn đọc.
b. Chức năng:
Giảng viên Fabienne Gérault thuộc Đại học Báo chí Lille, Pháp,
nêu lên sáu chức năng chủ yếu của tít:
- Thu hút sự chú ý vào trang giấy
- Cung cấp thông tin chính trong một cái liếc mắt
- Giúp độc giả lựa chọn bài
- Khiến độc giả muốn đọc
- Tổ chức trang
- Sắp xếp thông tin
3
3. Các loại tít:
- Tít phụ: thường đóng vai trò định vị sự việc: chỉ rõ thời gian và
địa điểm hoặc đưa ra miền thông tin. Đôi khi chỉ rút lại thành một
từ.
- Tít chính: trình bày chữ to, chứa đựng những từ khóa.
- Tít nhỏ: bổ xung thông tin cho tít (như thế nào, tại sao).
- Tóm tắt: liệt kê những nội dung quan trọng được xử lý trong
bài báo hoặc trong chùm bài.
4. Các dạng tít:
Có hai dạng tít cơ bản:
a. Tít có tính thông tin:
- Trả lời phần nào cho các câu hỏi đặt ra (chủ yếu là ai, cái gì).
- Loại bỏ những câu rườm rà, những từ không cần thiết, những
thông tin bổ sung.
- Dựa vào những tít khác, nhất là tít lớn.
- Có hai cách: chủ ngữ-động từ-bổ ngữ hoặc câu không động
từ. Mỗi một cách đều có cái hay riêng. Kiểu đầu chỉ rõ hành động.
Kiểu thứ hai cô đọng, nhấn mạnh từ khóa.
b. Tít gợi:
Tít gợi không đưa ra thông tin chính của bài báo, nhưng nêu ý
nghĩa chung của nó bằng cách kích thích người ta đọc bài báo.
Chúng ta thường thấy kiểu tít này trong các tạp chí. Khi thông
điệp chính đã được xác định, chúng ta sẽ tìm một hình thức khơi
gợi, một câu ngắn gọn.
Có rất nhiều cách để viết tin gợi: dùng từ gây sốc, từ đa nghĩa,
câu gợi trí tò mò, một điều khó tin, một chuyện buồn cười, một
mẫu nhân cách hóa, lối chơi chữ, một câu nói quen thuộc được
sửa đi, một công thức, một câu ngạn ngữ… Dùng hỗn hợp hai loại
4
tít sẽ càng hiệu quả: vừa dùng tít lớn có tính thông tin, vừa dùng
tít có tính gợi.
5. Đặc trưng của tít báo mạng điện tử:
- Tít trên báo điện tử thường xuất hiện không gắn liền với ngữ
cảnh: không như báo viết là bài nào thì đi liền với tít đó, các tít trên
báo điện tử có thể dưới dạng một danh sách các bài báo, trong
một danh mục của công cụ tìm kiếm, hoặc trong phần bookmark
của một trình duyệt. Một số tình huống xảy ra hoàn toàn chẳng
liên quan đến một ngữ cảnh nhất định nào. Chẳng hạn những
mục hiện lên trên danh sách khi tìm kiếm trên các trang Google,
Yahoo, Vinaseek có thể liên quan đến một chủ đề bất kỳ, vì thế
người sử dụng không dễ hiểu được ngay các tít nếu không có
kiến thức cơ bản về một lĩnh vực nào đó.
- Ngay cả khi tít đi liền cùng với bài, khó khăn của việc đọc chữ
trên màn hình khiến người sử dụng khó nắm bắt được vấn đề.
Đối với báo in, tít gắn chặt với nội dung, các bức ảnh, các tiểu
mục - cả tờ báo lại nằm trên tay – nên chỉ cần liếc qua cũng hiểu.
Đối với báo điện tử, trên màn hình chỉ nhìn thấy một lượng thông
tin giới hạn, khi đọc lại có cảm giác nhức mắt và không thoải mái.
Vì thế khi lướt qua một danh mục các tin tức, ví dụ trên trang
news.com chẳng hạn, người sử dụng thường chỉ nhìn vào những
tít nổi bật nhất và bỏ qua hầu hết các phần tóm tắt.
Do những khác biệt như vậy, phần tít phải có khả năng đứng
độc lập và dễ hiểu mà không cần nhìn vào toàn bộ phần nội
dung. Đương nhiên, người sử dụng có thể click vào tít đó để đọc
cả bài, nhưng nếu tít nào cũng phải qua động tác này thì quá mất
thời giờ.
5
6. Thủ thuật đặt tít:
- Dùng thủ pháp khác thường: “Kỵ sĩ trên mái nhà”
- Thủ pháp nghịch lý: “Những xác chết biết nói”
- Thủ pháp trích dẫn: trích dẫn lời của các nhân vật phỏng vấn
hoặc các nhân vật có uy tín xuất hiện trong bài viết.
- Thủ pháp chơi chữ: “Thanh Hóa: đầu tư từ đâu?”
- Thủ pháp nói bóng gió: “Vành móng ngựa…”
- Thủ pháp nhân cách hóa: lấy đồ vật hay khái niệm để thay
thế con người, nói về con người.
- Thủ pháp nhại lại: nhại khéo lại tên sách, tên phim, tên bài
hát thành ngữ tục ngữ,…
7. Tiêu chí giật tít:
Một tít phải đảm bảo 4 yêu cầu sau: trung thực, chính xác, hấp
dẫn và trình bày đẹp.
a. Tình trung thực:
Tít phải phản ánh trung thực nội dung và sắc thái của câu
chuyện và phải phù hợp với ảnh hoặc đồ họa kèm bài.
Bài viết về vấn đề gì và mào đầu của bài viết như thế nào?
Lấy ý tưởng từ mào đầu (vấn đề chính của câu chuyện) để viết tít
nhưng không đơn thuần sao chép lại mào đầu.
Đây là một câu chuyện vui, buồn, nghiêm túc hay nhẹ nhàng?
Câu chuyện về một cá nhân hay là tin về một chính sách của
chính phủ? Đây là tin thời sự hay một bài? Hãy cố gắng viết tít
đúng với sắc thái của câu chuyện và tính chất của bài viết.
Nếu có ảnh hoặc đồ họa kèm bài, phải đảm bảo rằng tít phản
ánh đúng nội dung ảnh và đồ họa. Điều này đặc biệt đúng trong
trường hợp có ảnh kèm bài vì các kết quả nghiên cứu cho thấy
hầu hết độc giả sẽ nhìn ảnh trước tiên khi đọc trang báo. Sau đó
họ đọc tít và rồi mới bắt đầu đọc bài báo.
6
Nếu bài có tít phụ thì tít phụ phải phù hợp với tít chính và cùng
sắc thái với tít chính, dù nội dung của tít chính và phụ hoàn toàn
khác nhau.
b. Chính xác:
Tít phải chính xác. Chính xác ở đây bao hàm cả về nội dung,
chính tả, ngữ pháp… Nếu tít của bài báo sai, độc giả sẽ nghĩ rằng
toàn bộ bài báo cũng sai.
Trước hết, phải đảm bảo chắc chắn rằng nội dung của tít là
chính xác. Ngày tháng, số liệu, sự kiện, tên người… phải chính
xác tuyệt đối như thông tin nêu trong bài.
c. Hấp dẫn:
Tít phải thu hút được độc giả, làm họ muốn đọc bài viết, vì vậy
hãy dùng ngôn từ sắc sảo và hấp dẫn.
Lựa chọn từ ngữ cho tít là vấn đề đóng vai trò quyết định trong
việc thu hút độc giả đọc bài viết đó. Vì số lượng từ dành cho tít
không nhiều, phải đảm bảo từng từ đều đáng giá. Khi bạn đọc bài
viết, hãy viết ra những từ có thể dùng cho tít.
Vì chỗ trên trang báo dành cho tít rất hạn chế nên phải tiết
kiệm từ. Tránh dùng hai từ khi có thể dùng một từ. Các nhà báo
cũng thường có xu hướng dùng những từ bóng bảy để gây ấn
tượng cho độc giả. Cần tránh dùng từ bóng bảy khi có thể dùng từ
đơn giản mà hiệu quả vẫn vậy. Trên thực tế, hầu hết độc giả là
những người bình thường và bận rộn, họ muốn đọc ngôn từ đơn
giản, dễ hiểu và không phải mất thời gian để nghĩ về chúng.
d. Hình thức đẹp:
Tít phải vừa vặn với khoảng trống dành cho tít trên trang báo,
không được nén hoặc dãn chữ. Tít trông phải đẹp mắt và hợp với
các tít khác trên trang báo và các tít phụ.
7
Cần biết tít của bạn sẽ được dành bao nhiêu chỗ trên trang
báo và hãy viết tít vừa vặn với khoảng trống đó. Đừng co hoặc
kéo dãn chữ trên tít cho vừa với khoảng trống và phải biết rõ chỗ
ngắt dòng là ở đâu (đối với đầu đề dài 2, 3 dòng), vì đôi khi ngắt
dòng không đúng từ sẽ làm tít rất khó đọc.
8. Những tiêu chí đánh giá một tít hay:
- Sáng sủa, dễ hiểu: dùng từ đơn giản, cụ thể, không viết tắt.
- Ngắn, mạnh, trực tiếp: loại bỏ những chi tiết phụ, rườm rà. Đi
thẳng vào vấn đề chính, dùng từ mạnh, liên quan đến bài, không
dùng tính từ, trạng từ, dùng câu thể chủ động, khẳng định. Có thể
bỏ qua động từ. Tránh dùng dấu chấm than vì nó không thay thế
được những từ mạnh.
- Chính xác, trung thực. Không thay thế nội dung bằng hình
thức. Không nói quá.
- Thích hợp, độc đáo: một tít chỉ được dùng cho một bài báo.
Tít là riêng biệt.
- Phù hợp với thể loại: tít phải phù hợp với bài báo, với giọng
điệu của nó, với phong cách, với thể loại báo chí. Dùng trích dẫn
đối với thể loại phỏng vấn, điều mắt thấy tai nghe với thể loại
phóng sự hay công thức với xã luận.
9. Một số chỉ dẫn khi viết tít:
Phần lớn người đọc chỉ quan tâm đến những tin bài mà họ cảm
thấy có thể làm cho cuộc sống của họ thêm thú vị. Do đó trạng
thái tâm lý của người đọc là điều mà phóng viên cần lưu ý khi đặt
tít:
- Thích cái mới: người đọc luôn dị ứng với một lời kêu gọi quá
cũ mặc dù nó hoàn toàn đúng, một ý kiến cũ không bao giờ có thể
tạo ra được một thái độ mới.
8
- Thích cái lạ: người đọc thường chú ý tới những ý kiến, chi tiết
độc đáo, sâu sắc hơn là những ý kiến chung chung, đúng đắn
nhưng vô thưởng vô phạt, ghét những ngôn ngữ thô sơ, gây nhàm
chán.
- Người đọc thích tự phát hiện, ghét bị lên lớp vì vậy nhà báo
không nên áp đặt quan điểm lộ liễu của mình ở ngay trên tít, tránh
dùng những từ ngữ như cần, nên, thiết nghĩ, phải chăng,…
- Thích tư duy lạc quan, hướng lên phía trước.
Vì vậy nhà báo không được tỏ ra cao hơn độc giả: không dùng
từ ngữ chuyên môn, nên nhớ là không phải cái gì mình biết thì độc
giả cũng biết, thông tin nào người đọc thấy khó hiểu là họ bỏ qua
ngay.
Nên chọn ra vấn đề chính trong thông điệp: một tít hay là phần
cốt yếu trong thông điệp này. Khi đã viết xong bài báo, cần đặt
câu hỏi: mình cần nói điều gì với độc giả? Trước hay sau khi viết
bài? Có những khi chúng ta tìm ra ngay được tít trước khi viết bài.
Nhưng thông thường phải viết xong bài mới đến công đoạn tìm tít.
Giải thích rõ ràng nội dung của bài báo bằng những ngôn từ
gần gũi với người sử dụng. Tít phải là phần tóm lược cực ngắn
của nội dung liên quan.
Tránh dùng các câu sáo rỗng. Nên nhớ độc giả không hề quan
tâm tới trình độ sử dụng ngôn ngữ của phóng viên mà họ quan
tâm tới bản thân tin tức.
Tránh chơi chữ, vì nó có thể phản tác dụng, đặc biệt đối với
các đầu đề tin (đối với bài, hoặc một số phóng sự đặc biệt thì có
thể chơi chữ). Nhưng nếu muốn chơi chữ thì phải đảm bảo dùng
đúng cách.
9
Hãy độc đáo khi dùng từ. Có một số từ thường được báo chí sử
dụng quá nhiều trong tít. Nên tránh dùng những từ như vậy thì tít
sẽ độc đáo hơn.
Nên tránh dùng các từ viết tắt và nhiều dấu chấm, phẩy trong tít
vì trông rối mắt và khó hiểu.
Dùng động từ chủ động thay vì bị động. Điều này giúp tít ngắn
gọn hơn và mạnh hơn.
Viết đơn giản và đảm bảo rằng tít có nghĩa rõ ràng. Tránh đưa
những thông tin phức tạp và các con số không cần thiết vào tít.
Đừng phóng đại sự hấp dẫn để lôi kéo mọi người nhấn chuột
nhằm tìm hiểu nội dung bài viết. Người sử dụng quá ngấy với cái trò
đánh lừa này và rất khó chịu khi mất thời gian chờ download một
trang web để rồi nhận ra đó không phải cái mà họ muốn. Trên báo
in, sự tò mò có thể khiến người ta lật trang hoặc bắt đầu đọc một bài
bái. Trên báo điện tử, nó sẽ làm người ta… phát điên.
Trong khi cố gắng diễn tả đầy đủ nội dung, đừng quên là tít càng
ngắn thì càng dễ đọc. Cố dùng những động từ, tính từ có thể giảm
bớt giới từ kèm theo.
Nên lưu ý một chi tiết “nhỏ mà không nhỏ” là khi người sử dụng
các công cụ tìm kiếm thì tin tức sẽ xếp theo thứ tự chữ cái A, B, C.
Tít tiếng Anh thì có thể bị mắc sai lầm vớ vẩn và bị tụt xuống cuối
bảng vì có mạo từ “the” lên đầu câu. Tiếng Việt thì không có những
từ kiểu này nhưng vẫn nên lưu ý thủ thuật nhỏ là đổi từ nếu có thể
để tin “lên hàng” một chút.
Từ đầu tiên nên là từ quan trọng nhất và mang nhiều thông tin
nhất. Nó có lợi khi xếp “chỗ tốt” vị trí trong danh mục tìm kiếm và khi
người sử dụng nhìn sẽ thấy dễ hơn. Chẳng hạn bắt đầu bằng tên
công ty, tên người hay vấn đề được đề cập trong bài viết.
Chớ đặt mấy tít liền bằng cùng một chữ, vì như thế khó nhận rõ
sự khác biết khi lướt qua một danh mục.
10
Nhờ đồng nghiệp góp ý kiến và nghiêm túc tiếp thu ý kiến của
họ. Nếu họ thấy rằng tít bài rất hay nhưng chẳng có nghĩa gì thì
nhiều khả năng độc giả cũng cảm thấy như vậy.
Chương II: Khảo sát cách đặt tít trên báo mạng:
1. Khảo sát:
Khảo sát 25 tít trên báo mạng điện tử Vietnamnet (từ T2/2008
đến T5/2009): chỉ ra chất liệu sử dụng để đặt tít, nhận xét hiệu
quả và nhược điểm của các cách sử dụng.
STT TÍT CHẤT LIỆU SỬ NHẬN XÉT
DỤNG
1 Cờ bạc, "sex - Sử dụng từ tiếng - sex show là một từ ghép không
show" - khi nào anh: sex show có trong từ điển từ ghép tiếng anh.
vào khuôn khổ? - Sử dụng câu hỏi Từ ghép này ít được sử dụng bởi
(Bùi Dũng – nghi vấn. lẽ show có nghĩa là màn trình diễn,
04/02/2008) sự khoe khoang, phô trương, còn
sex hiểu theo nghĩa danh từ có
nghĩa là giới, giống, quan hệ tình
dục. Show thường kết hợp với các
từ như live show, game show,
show room,.. chứ chưa thấy kết
hợp sex show.
- Việc sử dụng từ sex show trong
tít này chưa phù hợp với quy luật
từ ghép tiếng anh, vừa gây phản
cảm với người đọc, cảm giác như
tác giả đang học đòi dùng tiếng
anh. Trong bài viết tác giả cũng
không dành không gian để giải
thích sex show có nghĩa là gì.
11
Thông tin từ bài báo ta có thể hiểu
sex show theo nhiều cách: hoạt
động mại dâm, những buổi biểu
diễn khoe cơ thể. Nên dùng từ
thuần Việt thay thế vừa dễ hiểu
vừa phù hợp với từ cờ bạc đã có
trong tít: Cờ bạc, mại dâm - khi
nào vào khuôn khổ?
2 "Vote for - Sử dụng từ tiếng - Vote for Vietnam là một cụm từ
Vietnam" rồi... anh: vote for tiếng Anh có nghĩa là bầu chọn
suy nghĩ Vietnam cho Việt Nam.
(Phạm Hoàng - Dùng dấu chấm - Dùng từ tiếng anh trong tít này là
Hải – lửng khá hợp lý vì việc bầu chọn Hạ
16/02/2008) Long là một trong các kỳ quan
thiên nhiên của thế giới được thực
hiện trên mạng và ngôn ngữ là
tiếng anh, trong bài viết tác giả
cũng đã giải thích ý nghĩa của cụm
từ này sang tiếng việt.
- Dấu chấm lửng dùng để nhấn
mạnh từ “suy nghĩ”, thu hút độc giả
vào từ này. Độc giả sẽ tò mò tại
sao bầu chọn xong rồi lại phải suy
nghĩ, suy nghĩ vấn đề gì, từ đó sẽ
chú ý đọc nội dung bài báo.
3 DNNN VN - Sử dụng từ viết tắt - DNNN VN là viết tắt của cụm từ
không thể áp - Sử dụng thuật ngữ Doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam.
dụng mô hình chuyên ngành: Cụm từ viết tắt này không khó
chaebol Hàn chaebol đoán nghĩa nhưng sử dụng từ viết
12
Quốc tắt quá dài trên tít cũng gây phản
(Phương Loan cảm cho độc giả. Trong bài viết tác
– 28/03/2008) giả cũng không giải thích DNNN
VN là viết tắt của cụm từ nào.
- Chaebol là một mô hình tập đoàn
kinh tế của Hàn Quốc. Trong bài
viết, tác giả chỉ đề cập đến mô
hình chaebol mà không giải thích
mô hình đó là gì, kết cấu như thế
nào. Vì vậy đọc xong cả bài báo
mà độc giả vẫn chưa hình dung ra
được mô hình chaebol như thế
nào.
- Đọc cả bài báo ta còn nhận thấy
tít chính và tít phụ (tít xen) giống
hệt nhau. Điều bất hợp lý nữa là
hai tít này chỉ cách nhau một câu
văn (sapo).
4 WB: VN không - Sử dụng từ viết - WB là viết tắt của hai từ World
có thành tố của tắt: WB:VN Bank (Ngân hàng Thế Giới).
khủng hoảng - VN là viết tắt của hai từ Việt
tài chính Nam.
(Phương Loan - VN người đọc có thể đoán ngay
– 03/06/2008) ra nghĩa là Việt Nam, nhưng WB là
từ viết tắt tiếng Anh rất ít người có
thể đoán ra nghĩa. Vậy mà tác giả
mặc nhiên nghĩ rằng ai cũng biết
đến từ này nên trong bài viết vẫn
tiếp tục viết tắt như vậy mà không
13
hề có sự giải thích nghĩa.
- Sử dụng hai cụm từ viết tắt liên
tiếp, WB là từ viết tắt tiếng Anh
làm cho tít báo không rõ ràng về
mặt thông tin, hình thức không thu
hút được sự chú ý của độc giả.
5 Sau "bùng nổ" - Sử dụng dấu - Dấu ngoặc kép dùng để nhấn
hoa hậu là ngoặc kép, dấu mạnh từ, muốn người đọc chú ý tới
gì...? chấm lửng và dấu từ trong ngoặc “bùng nổ”.
(Bùi Dũng – hỏi. - Dấu chấm lửng gây sự chờ đợi,
25/06/2008) rằng câu hỏi sẽ được trả lời ở
trong bài viết. Đồng thời dấu chấm
lửng cũng thể hiện là sự việc được
đề cập vẫn chưa kết thúc.
- Tít cho độc giả biết vấn đề bài
viết đề cập: chúng ta có gì sau
những cuộc thi sắc đẹp. Tuy nhiên
câu hỏi này chưa được trả lời ngay
mà độc giả phải tự khám phá trong
bài viết. Tít này sẽ thu hút những
độc giả có tính tò mò, muốn khám
phá, có nhiều thời gian đọc báo,
những người cần nắm bắt thông
tin nhanh, thông tin nóng rất dễ bỏ
qua.
6 Không thể “vơ Sử dụng thành ngữ: - Vơ đũa cả nắm là thành ngữ
đũa cả nắm” vơ đũa cả nắm dùng để ví thái độ đánh giá xô bồ,
giáo sư coi tất cả như nhau, không phân
(Nguyễn Thành biệt người tốt với người xấu, việc
14
Lập – hay với việc dở.
29/08/2008) - Đây là bài báo phản hồi của độc
giả tới Vietnamnet về cách đặt vấn
đề “Giáo sư của ta thực tế chỉ là…
danh” đăng trên báo Khuyến học
và Dân trí số ra ngày 17/08/2008.
Đọc tít báo ta có thể hiểu ngay
quan điểm của người viết: không
đồng ý với ý kiến “giáo sư của ta
chỉ là danh”, phê phán thái độ
đánh giá của bài báo trên là phiến
diện, đồng thời độc giả này đưa ra
quan điểm: vẫn có nhiều giáo sư
thực thụ.
7 Sao phải "cố - Sử dụng thành - Cố đấm ăn xôi là thành ngữ dùng
đấm ăn xôi"? ngữ: cố đấm ăn xôi để chỉ sự bảo thủ, cố nhẫn nhục,
(Bùi Dũng – - Sử dụng câu hỏi chịu đựng để theo đuổi, hi vọng
19/10/2008) nghi vấn điều gì đó dù biết rằng đó là việc
làm không hiệu quả.
- Câu hỏi nghi vấn kết hợp với
thành ngữ gây sự tò mò cho độc
giả: ai “cố đấm ăn xôi”? tại sao lại
phải như vậy? Độc giả tự trả lời
câu hỏi bằng cách đọc nội dung
bài báo. Đây là một cách khá hiệu
quả để thu hút sự quan tâm của
độc giả tới nội dung bài báo.
8 Xây TTTM 19- - Sử dụng từ viết tắt - TTTM là từ viết tắt của cụm từ
12: "Báo chí TTTM. Trung tâm Thương mại.
15
nói, chúng tôi - Sử dụng trích dẫn - Câu trích dẫn không biết là phát
mới biết"! - Câu cảm thán biểu của ai nên gây sự tò mò cho
(Linh Thủy – độc giả.
Phương Loan) - Trong bài báo đây là lời phát biểu
– 17/12/2008 từ HĐND thành phố Hà Nội. Câu
cảm thán thể hiện sự phê phán
điều mâu thuẫn trong lời phát biểu
này. HĐND là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, quyết
định những vấn đề quan trọng,
phê duyệt, tổ chức thực hiện các
quy hoạch, kế hoạch ở đ ịa
phương. Vậy mà HĐND lại phát
biểu việc xây dựng TTTM 19-12:
“Báo chí nói, chúng tôi mới biết”.
Đây là một dự án lớn và mang tầm
quốc gia mà HĐND không biết thì
thật là phi lý.
9 Gói kích cầu: - Sử dụng thành - Nước chảy chỗ trũng là câu thành
Đừng để "nước ngữ: nước chảy chỗ ngữ dùng để chỉ hiện tượng của
chảy chỗ trũng" trũng. cải, lợi lộc cứ dễ dàng vào tay kẻ
(Hương Lan – giàu có (tựa như nước bao giờ
19/12/2008) cũng chảy vào và đọng lại ở chỗ
trũng).
- Tít báo cung cấp cho ta thông tin
và thể hiện thái độ của tác giả:
mong muốn sự minh bạch, công
bằng giữa các doanh nghiệp, tránh
tình trạng tiền lại rót về các doanh
16
nghiệp nhà nước vốn đã được ưu
đãi nhiều khi thực hiện gói kích
cầu của chính phủ.
10 "Mật" và "không - Sử dụng dấu - Dấu ngoặc kép dùng để nhấn
mật" ngoặc kép mạnh từ ngữ, gây sự chú ý cho
(TS Nguyễn độc giả. Tuy nhiên đọc xong tít báo
Ngọc Điện – độc giả chưa thể biết được nội
27/12/2008) dung bài báo đề cập đến vấn đề
gì. Tít này chỉ thu hút được những
người có trí tò mò, còn những
người ít thời gian, muốn nắm bắt
ngay thông tin thì sẽ bỏ qua.
11 "Sao" Việt với - Sử dụng tiếng - paparazzi là từ tiếng Ý có nghĩa
paparazzi: Italya: paparazzi tiếng việt là các tay nhiếp ảnh của
Không hớ hênh - Sử dụng dấu các tờ báo. Đây là một từ được sử
thì việc gì phải ngoặc kép dụng khá phổ biến trên báo chí,
ngán! - Câu cảm thán người đọc dễ dàng hiểu được
(Bùi Dũng – nghĩa, nghĩa thông dụng nhất là:
31/12/2008) người săn ảnh.
- Dấu ngoặc kép dùng để nhấn
mạnh từ “sao” và muốn người đọc
hiểu từ này theo nghĩa khác: không
phải là ngôi sao mà là người nổi
tiếng. Tuy nhiên đây là một từ rất
phổ biến, được nhiều người dùng
nên không nhất thiết phải để trong
dấu ngoặc kép mọi người vẫn hiểu
được nghĩa của từ.
17
- Câu cảm thán tựa như lời phát
biểu của nhân vật xuất hiện trong
bài viết nên tạo ra sự khách quan
(không phải ý kiến của người viết
mà là ý kiến của người trong cuộc)
12 Những "hot Sử dụng tiếng anh - Hot boy và hot girl là những từ
boys", "hot để đặt tít: hot boys, tiếng anh được sử dụng rất phổ
girls" tại Oscar hot girls biến trên các trang báo, có nghĩa là
2009 những chàng trai, cô gái nổi tiếng
(Sao Linh – trong một lĩnh vực nào đó, thu hút
23/02/2009) được sự quan tâm chú ý của nhiều
người.
- Hot boys và hot girls trong tít bài
báo này dùng để chỉ những nghệ
sĩ nổi tiếng đến dự lễ trao giải
Oscar 2009.
- Ở đây tác giả Sao Linh chưa
dùng đúng từ bởi lẽ hot boys, hot
girls ở dạng số nhiều, đã là những
chàng trai, cô gái. Vì vậy việc xuất
hiện từ “những” ở đầu câu là thừa.
13 Thứ trưởng Lê - Sử dụng dấu - Dấu ngoặc kép để nhấn mạnh từ
Tiến Thọ: Đây ngoặc kép và dấu ngữ trong ngoặc, muốn người đọc
là một đề án... chấm lửng. chú ý tới từ này.
"nhạy cảm" - Dấu chấm lửng gây sự chờ đợi,
(Khánh Linh – mục đích cũng để nhấn mạnh đến
23/02/2009) từ ngữ dùng sau dấu chấm lửng.
- Tít gây sự tò mò cho người đọc:
đề án này đề cập đến cái gì, tại
18
sao lại nhạy cảm,…Lời phát biểu
của một thứ trưởng cũng gây được
sự quan tâm của độc giả.
14 Họ đang gìn giữ - Sử dụng dấu hỏi - Dấu hỏi trong ngoặc đơn vừa thể
hay đang phá trong ngoặc đơn hiện sự nghi ngờ, vừa thể hiện thái
hoại (?) độ châm biếm của tác giả.
(Hạnh Nguyên - Một tít gợi mở với dấu hỏi trong
– 27/02/2009) ngoặc đơn là cách tạo ra sự chú ý
cho độc giả, là một biện pháp để
bộc lộ quan điểm của tác giả và
làm câu văn thêm sắc sảo, hấp
dẫn.
15 Khủng hoảng, - Sử dụng dấu phẩy - Dấu phẩy dùng để tách ý: khủng
bi kịch khi và dấu chấm lửng hoảng là chủ thể của vấn đề được
không tiền và... đề cập, bi kịch khi không tiền và …
có tiền có tiền là phạm vi vấn đề.
(Bùi Dũng – - Dấu chấm lửng dùng để nhấn
15/03/2009) mạnh đến từ đứng sau dấu chấm
lửng: có tiền
- Đọc tít ta có thể xác định vấn đề
bài báo đề cập là bi kịch của
những người nghèo và người giàu
trong cơn bão khủng hoảng trong
đó tập trung vào bi kịch của người
giàu. Khi đọc nội dung bài báo thì
không khớp với tít bởi nội dung bài
báo giới thiệu hai vở kịch kinh điển
được viết cách đây nửa thế kỷ có
liên quan đến các cuộc khủng
19
hoảng. Sự không hài hòa giữa tít
và nội dung bài báo sẽ tạo cho độc
giả cảm giác bị đánh lừa.
16 "Hot girl" bị bêu - Dùng từ tiếng anh: - Hot girl là từ tiếng anh xuất hiện
xấu trên diễn hot girl nhiều trên các trang báo đặc biệt
đàn trường là mục giải trí dùng để chỉ những
(Ngọc Khanh – cô gái có cá tính, gây được sự chú
15/03/2009) ý của mọi người.
- Tâm lý của độc giả là thường chú
ý tới người nối tiếng vì vậy cách
đặt tít này khá hiệu quả, kích thích
sự tò mò của người đọc: hot girl
nào bị bêu xấu trên diễn đàn
trường? và muốn biết câu trả lời thì
đương nhiên độc giả sẽ đọc nội
dung bài báo.
17 Sĩ tử cũng… - Sử dụng dấu - Dấu chấm lửng gây sự chờ đợi,
sống thử chấm lửng nhấn mạnh tớ từ đặt sau dấu
(Cẩm Quyên – chấm lửng đó là sống thử.
Lê Hoàng) – - Tít cung cấp đầy đủ thông tin
05/04/2009 được đề cập trong bài viết đó là
hiện tượng sống thử ở một bộ
phận học sinh lên các thành phố
lớn ôn thi đại học. Mặc dù đang
phải tập trung cho kỳ thi vẫn có thể
sống thử. Sống thử trong sinh viên,
người đi làm trước khi kết hôn là
hiện tượng không mới nhưng sống
thử với đối tượng đang ôn thi đại
20