HÌNH TƯỢNG HOA SEN TRONG
VĂN HÓA VIỆT NAM
HÌNH TƯỢNG HOA SEN TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
Hoa Sen có vai trò và vị trí đặc biệt cả về tâm linh và văn hóa của người Việt.
Từ bao đời nay, Hoa sen đã đi vào lòng người, đi vào cuộc sống và văn hoá của người
Việt. Ngắm hoa sen chúng ta có thể thấy và nhận ra hình ảnh con người Việt Nam
Mặc dù sinh ra trong bùn lầy nhưng hoa sen không bị ô nhiễm mà lại có khả năng làm
thay đổi hoàn cảnh sống, vì hoa sen hễ mọc ở nơi nào thì sẽ làm cho nước đục nơi đó
lắng trong. Sen có cả hương lẫn sắc, nhưng hương sen không quá nồng mà dịu, gợi
một tinh thần cao thượng. Sắc sen kín đáo, đằm thắm, cánh trắng phớt hồng, nhụy
vàng. Từ khi nở đến khi tàn không hề bị ong bướm bén mảng tới. Qua bao ràng buộc
để đến được chỗ khoáng đạt hư không, sen tiếp tục vươn lên dưới ánh mặt trời, khai nụ
kết hoa, khoe sắc và xông hương tràn ngập không gian.
Sự hình thành của sen diễn ra theo qui luật nhân quả luân hồi. Sen có cả nụ -
hoa - hạt. Hoa nở tượng trưng cho quá khứ, đài sen tượng trưng cho hiện tại và hạt sen
tượng trưng cho tương lai, sự nối tiếp liên tục. Vì vậy, hoa sen trở thành biểu tượng
trong nghệ thuật Phật giáo của Phương Đông. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp thần bí,
huyền ảo, tư tưởng sâu kín. Bông hoa sen cũng tượng trưng cho sự thanh cao, bất
khuất của người quân tử, giữ chặt lòng mình trước cám dỗ của lợi danh, giữ cho mình
sự trong sạch dù ở giữa chốn bùn nhơ.
Từ ý nghĩa tâm linh ấy, bông hoa này đã đi vào tâm thức của người Việt Nam,
trở thành hình tượng trong kiến trúc và điêu khắc của người Việt xưa, trong nghệ
thuật, trong văn học, ẩm thực…
Cho đến tận hôm nay, khi bạn bè quốc tế đến với Việt Nam thì hình ảnh đầu
tiên họ gặp là bông sen vàng trên những chuyến bay của Vietnamairline, hình ảnh
biểu hiện cho sự khai sáng và hoàn mỹ; vừa đời thường lại vừa cao quý, linh thiêng;
vừa duyên dáng, mềm mại, nhưng không kém phần cứng cáp, đĩnh đạc, tượng trưng
cho những con người Việt Nam dũng cảm kiên cường nhưng đôn hậu và cởi mở.
1. Hình tượng hoa sen trong văn học nghệ thuật
Khi nói đến Sen, Là người Việt Nam chắc hẳn ai cũng thuộc câu ca dao:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Khi xưa, Mạc Đĩnh Chi khi đứng trước vua Trần Anh Tông đã thể hiện rõ
phẩm chất của mình qua bài phú “Ngọc tỉnh liên” (Hoa sen trong giếng ngọc): Vì hoa
sen vốn có tiết tháo thanh cao, không hoa nào sánh được, tuy gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn; vả lại sen này lại trồng trong giếng ngọc nữa thì sen càng cao quý biết
bao. Ông như sen, dù có phải ở vào hoàn cảnh ô trọc thế nào thì cũng vẫn giữ khí tiết
thanh cao, huống chi ở phải vào một thời tốt đẹp, vua minh chánh thì người ông càng
cao quý biết mấy. Sen quý nhưng phải có người sành mới biết thưởng thức…”
Làng quê nơi Bác sinh ra cũng có tên là Làng Sen, và có lẽ hoa sen đẹp nhất khi
được ví với hình tượng Bác Hồ, người cha già dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của chúng
ta:
"Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ"
2. Hoa sen trong mỹ thuật truyền thống của người Việt
Ở Việt Nam, đề tài hoa sen xuất hiện khá sớm trong nghệ thuật tạo hình, hầu
như ở thời nào cũng được các nghệ nhân thể hiện trong các đồ án trang trí của nơi thờ
tự hoặc ở các công trình văn hóa của cộng đồng. Sen được khai thác, phản ánh dưới
nhiều góc độ bố cục khác nhau, xuất hiện hằng xuyên theo chiều dài của lịch sử dân
tộc qua những công trình kiến trúc.
Hoa sen trong mỹ thuật thời Đinh - Tiền Lê
Trên một số viên gạch lát nền cỡ lớn tại khu vực đền vua Đinh và đền vua Lê,
ngoài đề tài trang trí chim phượng còn có đề tài hoa sen. Đồ án về các hoa sen ở đây
gồm 4 loại.
Loại hoa sen có 16 cánh thường được thể hiện nổi trên các viên gạch vuông cỡ
lớn. Nhìn chính diện (từ trên xuống), họa tiết được bố cục chung dưới dạng một mặt
tròn nằm giữa viên gạch, gồm 3 lớp. Lớp ngoài cùng là 16 cánh sen xếp đều nhau kết
thành một vành tròn đều đặn. Lớp giữa gồm những vân xoắn đơn được xếp cùng
chiều, nối lưng nhau thành một vành tròn thứ hai, có lẽ thể hiện nhụy hoa. Lớp trong
cùng là một hình tròn điểm 13 chấm nổi, thể hiện hình gương sen với các hạt. Mười ba
hạt sen được sắp xếp thành các cạnh từ trung tâm chạy ra 8 phía, cân đối, đều đặn. Các
cánh sen không chạm thêm chi tiết gì ngoài một đường gờ nhỏ viền theo chu vi của
cánh. Loại đồ án hoa sen 16 cánh này còn gặp nhiều ở thời kỳ sau, ở các tảng đá kê
chân cột cho nên phần giữa và phần nhị hoa không chạm khắc gì và nó có nhiều nét
tương đồng với các đồ án trang trí ở Trung Quốc và Nhật Bản.
Loại hoa sen 14 cánh được trang trí trên một đài sen bằng đất nung, cao xấp xỉ
10,5cm. Đài sen hình tròn, trang trí một hình hoa 14 cánh ở giữa và bao quanh sen là
đồ án hoa cúc dây và một băng các chấm tròn. Trong trường hợp này, sen cũng bố cục
theo lối nhìn chính diện từ trên xuống, được chia thành 3 lớp như kiểu hoa sen 16
cánh. Lớp thứ hai làm nhụy hoa ở đây rất hẹp, các nhụy được thể hiện như những
đường gạch chéo nhỏ. Lớp trong cùng (gương sen) đã có số ụ tròn (thể hiện hạt sen)
nhiều tới 21 hạt, gồm một hạt tương đối to ở giữa và 20 hạt nhỏ bao quanh thành 2
vòng (vòng trong 8 và ở vòng ngoài là 12). Đồ án này khắc họa khá tỉ mỉ. Các hạt sen
ở giữa đều được thể hiện kép bằng 2 vòng tròn đồng tâm còn trong lòng các cánh sen
không những có gờ viền quanh mà còn điểm cả vân lá. Phía ngoài hoa sen là một băng
hoa dây mảnh kiểu dây leo tay mướp (có nhiều vào các thời sau). Ngoài cùng là những
hình chấm tròn to, mỗi chấm được bao quanh bằng hai đường tròn đồng tâm như kiểu
các hạt sen ở giữa.
Loại hoa sen 8 cánh cũng được thể hiện theo lối nhìn chính diện từ trên xuống.
Ngoài 8 cánh chính, có 8 cánh phụ ken giữa từng cặp cánh chính. Họa tiết này được
trang trí trên mặt hai loại gạch, một có dạng vuông, cỡ 34 x 34cm và một có dạng hình
chữ nhật, cỡ 74cm x 34cm. Loại gạch vuông hoa sen bố cục ở giữa, còn loại chữ nhật
thì người ta phân đôi viên gạch, hai hoa sen trang trí hai phía. Hoa sen cánh to và
ngắn, trong lòng cánh có đường viền. Phần hình tròn thể hiện gương sen ở giữa, với 9
chấm tròn thể hiện hình ảnh của các hạt sen được bố cục với một hạt to ở giữa và 8 hạt
nhỏ hơn phân đều ra các phía thành một vòng tròn. Đáng chú ý là giữa cánh sen và
gương sen không có lớp nhụy sen như hai đồ án trên mà chỉ là một băng để trơn.
Loại hoa sen số cánh không cố định khá đa dạng, được trang trí ở đầu các ngói
ống giọt gianh. Có loại cánh sen thon dài, mũ sen vát; có loại nhỏ, ngắn; có loại to
mập; có loại dài có đường gờ xen giữa hai cánh. Số lượng cánh cũng không cố định,
có loại 7 cánh , có loại 8, 9 cánh, tất cả đều cách điệu đơn giản, chỉ có cánh sen và đài
gương. Có khi đài gương cũng không có hạt sen.
4 loại đồ án hoa sen trên là những đồ án khá đẹp, chứng tỏ tuy các thời Đinh -
Tiền Lê ngắn ngủi nhưng cũng đã sáng tạo ra những sản phẩm có dấu ấn đặc trưng
trong lịch sử mỹ thuật nước nhà.
Hoa sen trong mỹ thuật thời Lý
Đây là thời kỳ mà Phật giáo phát triển mạnh, được coi như quốc giáo và trang
trí hoa sen được ứng dụng rất nhiều với các đài hoa sen, các bệ tượng Phật bằng hoa
sen, các kiến trúc hình hoa sen. Những tảng đá kê chân cột cho đến diềm cửa tháp,
diềm bệ tượng và cả đồ gốm... hễ đâu có điều kiện thích hợp là nghệ nhân dùng ngay
hoa sen để trang trí. Đặc biệt các công trình liên quan đến Phật giáo thì đề tài hoa sen
càng được sử dụng nhiều.
Loại đồ án hình hoa sen đỡ chân cột: Do yêu cầu chống mối mọt và ẩm thấp
nên các chân cột đều được kê đá. Tận dụng điều đó, các nghệ nhân đã trang trí các
cánh sen viền quanh, tạo cảm giác như toàn bộ ngôi chùa được dựng trên các đóa hoa
sen. Hoa sen chân cột có phần giống với hoa sen trên các viên gạch ở thời Đinh - Lê,
được bố cục các cánh thành một vòng tròn theo kiểu nhìn chính diện từ trên xuống.
Hoa bao gồm 16 cánh chính và 16 cánh phụ. Điều khác nhau là các đồ án này của thời
Lý không thể hiện phần nhị sen và gương sen, có lẽ vì cột che khuất. Đáng chú ý là
lòng của các cánh sen thời Lý ở các di tích liên quan tới vua, thường được chạm thêm
đôi rồng dâng chầu lá đề. Nét chạm tỉ mỉ tinh tế, tôn thêm vẻ cao quý của cánh sen.
Loại đồ án này còn thấy trên một số đồ gốm men ngọc thời này.
Loại đồ án hoa sen đỡ các vật thiêng, là hình các đài sen trong tư thế nhìn
nghiêng, như đài sen làm bệ đỡ cho các chân chim phượng, trong các đồ án phượng
múa ở các thành bậc (ở chùa bà Tấm, Hà Nội), hoa sen làm bệ đỡ cho các vật thiêng
bố cục trong hình lá đề, hoặc trong các đồ án dàn nhạc, thiên thần, về rồng chầu (ở
chùa Phật Tích)... Trong đó các đài sen thường đỡ các lá đề.
Loại đồ án hoa văn hoa sen kết hợp hoa dây và hoa thiêng khác thành băng dọc
ở diềm cửa tháp hay ở bệ tượng, nay còn thấy ở di tích chùa Long Đọi, tháp Chương
Sơn. Nghệ nhân bố cục thay đổi một hoa sen lại đến một hoa cúc, được thể hiện trong
những vòng tròn của hoa dây. Cả vòng tròn này lại gần như tiếp tuyến nhau và chỗ gặp
nhau là hình các thiên thần nhỏ bé đang trong động tác múa. Những hoa dây ở đây
mang tính chất ước lệ, trên thực tế lá sen, lá cúc đã cách điệu khác hẳn thực tế. Bố cục
của đồ án hoa sen trong các trường hợp này thường theo kiểu nhìn nghiêng hơi chếch
để thấy cả gương sen với hạt sen. Các cánh sen cũng chia làm hai lớp như loại đồ án
đài sen đỡ vật thiêng, nhưng lớp dưới của nó vừa làm đài đỡ vừa biến thành một vòng
tròn ôm trọn lấy cả phần trên của gương sen. Tuy cách điệu khá cao nhưng đồ án hoa
văn sen này được xếp vào loại có bố cục chuẩn nhất, cân đối và đơn giản trong đường
nét mà vẫn mô tả được cái dáng vẻ riêng của hoa sen.
Loại đồ án hoa sen trên gốm men ngọc được trang trí trong lòng một chiếc bát
men ngọc (hiện vật trưng bày của Bảo tàng lịch sử Hà Nội). Bát vào loại nhỏ, có màu
men ngà hơi chuyển sang màu vàng nâu sẫm. Nghệ nhân gốm khắc chìm hình hoa văn
lên đất, sau đó tráng men và đem nung. Đó cũng là kỹ thuật phổ biến của các đồ gốm
men ngọc thời Lý. Các hoa sen được thể hiện theo lối nhìn nghiêng, trang trí ở trong
lòng bát. Cuống hoa quay vào tâm bát, cứ một bông hoa sen lại một bông hoa cúc,
chúng hoàn toàn độc lập với nhau. Tổng cộng có 3 hoa sen và 3 hoa cúc. Hoa sen gồm
nhiều cánh, nở rộng ra 2 phía với bố cục tuân thủ sự cân xứng trong toàn bộ đồ án
trang trí.
Hoa sen trong mỹ thuật thời Trần
Sang thời Trần, đề tài hoa sen vẫn được kế tục khai thác như trong tạo hình thời
Lý. Đáng chú ý, trên một số gốm hoa nâu thời này xuất hiện các đồ án hoa sen với
phong cách hiện thực sinh động. Một điều duy nhất để phân biệt là: các hoa văn trong
lòng cánh sen thời Lý đôi khi có hình rồng, hoặc hoa dây, mà thời Trần hoàn toàn
không có. Cánh sen thời Trần thường chỉ chạm thêm một đường gờ chìm viền theo
mép cánh và ở trung tâm mỗi cánh đôi khi được điểm các hạt tròn trong một bố cục
cân xứng khá chặt chẽ.
Đài sen thế kỷ 11 - 12
Đồ án hoa sen đỡ các vật thiêng thời Trần khá phong phú như đồ án đỡ chân
chim phượng trên trán bia chùa Tổng (Hưng Yên), đỡ các hình lá đề trong đồ án ở
chùa Thái Lạc, chùa Dâu (Bắc Ninh), ở các chân cột, cốn, nhất là ở cửa chùa Thái Lạc,
đài sen đỡ phía dưới các tượng phỗng, một đề tài chuẩn của thời kỳ này. Trên các bệ
tượng Phật của thời Trần đều chạm thành những đài sen lớn. Cánh sen có 2 hoặc ba
lớp, xen kẽ nhau, thể hiện thành những khối nổi, không còn chỉ là hoa văn nữa. Tuy
nhiên cũng có những bệ lớp phía dưới cùng lại chỉ chạm nông thành một viền hoa văn
trang trí, các cánh sen được chạm nối tiếp nhau vòng quanh bệ, hình thức thường to
khoẻ, chen khít dăng thành hàng dài nhiều khi thì bố cục nghiêng mà nhiều nhà nghiên
cứu gọi là cánh sen vẹo. Trong lòng các cánh sen thường chạm thêm những hình hoa
kết hợp bởi các ô tròn.
Đồ án hoa sen cách điệu thành hoa dây được sử dụng khá nhiều trên kiến trúc
của chùa Thái Lạc. Và có lẽ đây cũng là ngôi chùa duy nhất có đồ án trang trí này. Hoa
sen chạy dài phía dưới đôi rồng đang trịnh trọng dâng chầu lá đề, hay uốn lượn phía
trên các “tầng mây”, nơi có hình các tiên nữ đầu người mình chim đang vừa múa vừa
dâng hoa.
Hoa văn hoa sen trên gốm hoa nâu: Gốm hoa nâu được ra đời vào cuối thời Lý
và phát triển mạnh ở thời Trần, gồm nhiều loại, kiểu dáng khác nhau. Có loại to như
chậu, ang, thạp. Có loại nhỏ như bát, đĩa, liễn,... Hiện vật ngày nay còn lại ở một số
bảo tàng như Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Mỹ thuật hoặc các bảo tàng địa phương ở Hà
Nội, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Thanh Hóa, Hà Tây.v.v... Một số khác nằm ở
các sưu tập tư nhân trong và ngoài nước. Trên các đồ gốm này thường được chia thành
ô hoặc thành băng để trang trí bằng cách dùng bút vẽ lên xương đất, sau đó tráng men
và kẻ vạch rồi mới đem nung. Đề tài trang trí gồm nhiều loại mà trong đó hoa sen
chiếm số lượng lớn. Hoa văn hoa sen có loại đơn giản, chỉ vẽ vạch mấy nét mà thành,
như trường hợp một chiếc âu trong sưu tập của Bảo tàng quốc gia Bỉ, phần lớn chúng
được vẽ theo lối nhìn nghiêng... Từ một cuống hoa ở dưới vươn lên rồi tiếp đến các
cánh hoa đổ ra hai phía bọc quanh một đài gương ở giữa. Hai cánh trên cùng đang ôm
lấy gương sen, hai cánh tiếp nở vươn rộng ra hai bên và hai cánh dưới cùng đổ xuống
phía dưới. Đơn giản như vậy nhưng vì các cánh sen này không bị gò bó trong một
khuôn mẫu đăng đối nào nên trông rất sinh động. Nét bút của nghệ nhân ở đây tung
hoành thoải mái. Khi thì nhấn mạnh tạo một mảng đậm cho một cánh sen, lúc lại nâng
cao lướt nhẹ mô tả một chi tiết của cuống hoa hay của búp sen. Mỗi ô một hoa, mỗi
hoa một kiểu dáng, thường đứng riêng lẻ một mình hoặc kết hợp với một vài cây cỏ và
búp sen. Đặc biệt có đồ án trên một chiếc tháp gốm của Bảo tàng Hải Dương, nghệ
nhân còn vẽ thêm nhiều búp sen và lá sen nhiều kiểu dáng, có lá bố cục theo lối nhìn
chính diện từ trên xuống thành cả mảng tròn to, thấy rõ cả chi tiết các gân lá. Ở một
liễn men nâu ở Bảo tàng Lịch sử Hà Nội, hoa sen lại bố cục thành hoa dây uốn lượn
cong tròn đều. Cứ mỗi ô trống là một hoa sen, bố cục theo lối nhìn nghiêng, cánh hoa
đổ ra hai phía như ở các đồ gốm hoa nâu khác. Dây hoa này có nhiều lá, có lá như một
cánh sen, có lá lại giống lá của hoa cúc trông rất sinh động.
Hoa sen trong mỹ thuật thời Lê sơ
Vào thời Lê sơ, đạo Phật bị hạn chế, các chùa tháp không phát triển, nhưng hoa
sen vẫn là loại đề tài được chú ý nhiều. Hoa sen không những được trang trí trên các
bệ tượng Phật, trên các chân tảng cột chùa mà còn ở các thành bậc cung điện của triều
đình và trên cả các bia tiến sĩ ở Văn Miếu.
Đồ án hoa sen ở mặt ngoài thành bậc các cung điện như ở bậc điện Kính Thiên
(Hà Nội), điện Lam Kinh (Thanh Hóa), Văn Miếu (Hà Nội). Mặc dù dưới hình thức
cuộn vòng của hoa dây, nhưng trung tâm vẫn là bông hoa sen. Hoa sen thể hiện theo
kiểu nhìn nghiêng, thấy rõ cả từng lớp của hoa. Trong cùng là một búp hoa còn xếp
kín chưa nở. Tiếp đó là các lớp cánh sen toả đều ra hai bên như bố cục hình nan quạt.
Vì được cách điệu cao nên ở đây khó nhận ra các cánh sen quen thuộc.
Ở thành bậc điện Lam Kinh đồ án hoa sen cũng giống như ở thành bậc điện
Kính Thiên. Đáng chú ý là có một số đồ án ở giữa không phải là chùm cánh, mà lại là
cả một đài sen tạo thành một mảng to như hình lá sen, còn ở giữa là các hình xoắn
cách điệu. Trên thành bậc cửa Văn Miếu (Hà Nội), các cánh sen vẫn thể hiện theo lối
vân xoắn, gương sen ở giữa vẫn chạm lối nhìn nghiêng. Rõ ràng cả hoa sen của 3
thành bậc đều có chung một phong cánh thể hiện. Đó là lối vân xoắn cách điệu cao,
đường nét chạm rành mạch sắc nét.
Đồ án hoa sen ở diềm bia: Một số
Bộ Tam Thế chùa Khám Lạng
bia thời Lê sơ như các bia tiến sĩ ở Văn
Miếu (Hà Nội - 1484), bia chùa Cao (Hà
Tây - 1505)... đều có trang trí hình hoa sen xen lẫn các hoa khác. Bố cục hoa sen theo
kiểu nhìn nghiêng, còn các cánh hoa thì phần lớn đang chụm lại che kín đài gương, ở
trên là 3 lớp cánh đang xếp sát nhau, phía dưới cũng có 3 cánh nhỏ đã nở rộng. Đó là
trường hợp hoa sen diềm bia chùa Cao. Còn ở diềm bia Văn Miếu bố cục cũng như
vậy nhưng có phần đơn giản hơn. Ở giữa là hai cánh sen ôm lấy đài gương, phía ngoài
có 5 cánh nở đều ra các phía, giống hoa sen bệ chùa Ngọc Khám (Bắc Ninh - thế kỷ
XVII)
Hoa sen trên bệ tượng Phật: Các bệ tượng Phật thời Lê sơ, như bệ các chùa
Khám Lạng (Bắc Giang - 1432), chùa Cao (Hà Tây-1505)... đều có trang trí cánh sen.
Kiểu cách và chi tiết của các hoa văn này gần giống với các cánh sen trên các bệ thời
Trần. Đặc biệt ở chùa Khám Lạng, ngoài các cánh sen to, còn có lớp cánh sen được
chạm theo kiểu xếp gối lên nhau chỉ thấy nửa hình, cứ thế mà thành băng dài. Lối bố
cục gối lên nhau này cũng đã thấy có ở thời Trần. Ở chùa Cung Kiệm, dưới chân bệ đá
của tượng Phật niên đại 1449, còn thể hiện một đóa hoa sen nổi trên sóng nước, chạm
theo lối nhìn hơi chếch nghiêng, các cánh sen nở vây quanh một búp sen ở giữa, lá
phía ngoài hình sóng, bố cục đơn giải, ít chi tiết.
Hình tượng hoa sen trong nghệ thuật tạo hình Việt là một đề tài rất phong phú,
được thể hiện ở rất nhiều các hình thức trang trí mỹ thuật và kiến trúc đặc trưng riêng
cho mỗi thời kỳ lịch sử dân tộc. Nó không chỉ mang lại giá trị vật chất cho cuộc sống,
mà còn mang giá trị tinh thần vô giá với người Việt. Chính vì vậy hình tượng hoa sen
không chỉ là cảm hứng sáng tác của các nghệ nhân xưa, mà ngày nay các họa sĩ hiện
đại vẫn có nhiều tác phẩm thành công với đề tài hoa sen, qua nhiều cách nhìn và ngôn
ngữ tạo hình khác nhau, nhưng đều biểu đạt được giá trị thẩm mỹ vĩnh hằng của loài
hoa đã thấm sâu vào tâm hồn dân tộc Việt.
3. Hoa sen trong văn hoá ẩm thực Việt Nam:
Từ ảnh hưởng của hoa sen trong đời sống tinh thần mà người dân Việt Nam đã
đưa sen lên đỉnh cao của văn hóa ẩm thực.
Các bộ phận trên bông hoa sen được biến
chế thành những món ăn đặc trưng, mang đậm
một hương vị Việt Nam như gỏi ngó sen, mứt
sen, trà sen. Sen hồ Tịnh Tâm của Cố đô Huế
ngày xưa được dùng để ướp trà cho vua. Người ta
ướp trà vào ban đêm. Khi sen vừa hé nhụy là lúc trời đất đang giao hoà, hương còn rất
đượm. Trà được đặt vào trong lòng hoa rồi dùng dây buộc lại, ép không cho hoa nở ra,
để qua hết đêm trà sẽ hấp thụ toàn bộ hương sen. Sáng hôm sau thì thu trà, trà sen Huế
vì thế có hương thơm thanh khiết và đậm đà đến say lòng.
Chè sen Huế với hạt sen tươi, bóc vỏ, lột lớp lụa mỏng, xoi tim rồi đem chưng
cách thủy, chưng với đường phèn thì hương mới thơm. Chè sen được múc trong bát cổ
men sứ màu xanh nhỏ như “mắt trâu”, chỉ độ dăm bảy hạt sen vàng nở lươm tươm.
Trong các dịp lễ tết hay kỵ giỗ, chè sen là món quan trọng gần như không thể thiếu
trong lễ phẩm. Cúng xong, chỉ một bát thôi là đã thưởng thức đủ cái “quốc hồn quốc
túy” của xứ Huế rồi!
Ngoài ra, người Huế còn dùng sen để nấu cơm sen rất nổi tiếng trong các món
ăn truyền thống Huế. Cách nấu cơm sen cũng hết sức cầu kỳ, chỉ có những người phụ
nữ Huế thực thụ tính tình điềm đạm có bản sắc “tôn nữ” mới nấu được cơm sen. Trong
những món ăn “bát bửu”, cơm sen xuất hiện với một phong cách rất Huế. Những ai
muốn thưởng thức món cơm sen Huế hãy đến cố đô vào mùa sen nở. Ngoài ra, còn có
nhiều món ăn thượng vị từ sen Huế mang nhiều hương sắc và hương vị đậm đà.
Còn một nét đặc biệt nữa là người miền Bắc thường dùng dùng lá sen để gói
cốm. Hương đồng, cỏ nội quấn quyện với hương đồng cỏ nội. Những hạt cốm xanh
màu ngọc thạch trở nên dẻo và thơm lâu hơn khi nằm trong lòng chiếc lá sen tươi.
Hương thơm dìu dịu của lá sen hoà quyện với hương cốm. Thật là một sự kết hợp hài
hòa tuyệt vời mà bất cứ ai đã thưởng thức còn nhớ mãi.