logo

Thuyết Tương Đối, Vật Lý Lượng Tử

Một trong những điều gây cảm hứng nhất của khoa học là nó làm thay đổi cái nhìn của chúng ta về thế giới này dưới ánh sáng của những khám phá mới. Cho đến nay, vật lý học vẫn còn đang loay hoay dò đường trước một bước ngoặt quan trọng .
46 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ                   3 Mọi chú giải (cước chú) trong sách này đều là  của người dịch bản Việt ngữ.  .   TÁNH KHÔNG,   Vô cùng biết ơn Giáo sư Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, mặc  THUYẾT TƯƠNG dầu tuổi đã cao và công việc bộn bề, đã dành thì giờ  ĐỐI, VÀ VẬT LÍ đọc lại bản dịch. Kiến thức sâu rộng về nhiều lãnh  LƯỢNG TỬ vực và lòng quan hoài đến tương lai tuổi trẻ và văn hoá Việt Nam của Thầy đã mang lại cho tôi một nguồn cảm hứng thâm sâu.    Xin cám ơn Anh Chân Nguyên Đỗ Quốc Bảo đã giúp  tra cứu một số tên sách.  Trích từ “Vũ Trụ Nằm Trong Một Nguyên Tử”   Nguyên tác: The Universe in a Single Atom  Tác giả: Dalai Lama XIV  Dịch giả: Trần Uyên Thi  Copyright © 2009        DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 47 48 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ Vũ trụ quan của tôi chủ yếu dựa trên triết thuyết và giáo pháp của Phật giáo, vốn phát khởi từ các bậc trí thức thuộc Ấn Độ cổ đại. Tôi được học về triết học cổ Ấn Độ từ tuổi ấu thơ, với thầy Tadrak Rinpoche — vị quan phụ chính2 của Tây Tạng lúc bấy giờ — và thầy Ling Rinpoche. Tadrak Rinpoche là một vị thầy khả kính, đã luống tuổi, và rất nghiêm khắc. Còn Ling Rinpoche thì nhỏ tuổi hơn nhiều, có giọng nói nhỏ nhẹ và hiểu sâu học rộng, nhưng rất ít nói (ít nhất là khi tôi còn nhỏ). Còn nhớ thời ấy tôi không khỏi cảm thấy e sợ khi có sự hiện diện của hai thầy. [Ngoài ra], còn có một vài thầy phụ tá giúp tôi đàm luận về những điều đã học, trong đó có thầy Trijang Rinpoche và Ngodrup Tsonknyi — một tu sĩ, đồng thời là một học giả người Mông Cổ. Sau khi Tadrak Rinpoche viên tịch, Ling Rinpoche trở thành giảng sư chính của tôi, và Trijang Rinpoche được lên chức phụ giảng. Tôi tiếp tục học với hai vị thầy này cho đến hết chương trình học vấn chính thức. Hai thầy đã giảng dạy cho tôi về những tông phái khác nhau của Phật giáo Tây Tạng. Cả hai Một trong những điều gây cảm hứng nhất của khoa học là nó thầy đều rất thân thiết với tôi, nhưng có cá tính rất khác nhau. làm thay đổi cái nhìn của chúng ta về thế giới này dưới ánh Ling Rinpoche có một thân hình rắn chắc, đầu hói, mặt to, mắt sáng của những khám phá mới. Cho đến nay, vật lí học vẫn còn nhỏ, và mỗi khi cười thì cả người thầy đều rung lên. Còn đang loay hoay dò đường trước một bước ngoặt quan trọng Trijang Rinpoche thì dáng người dong dỏng cao, đi đứng (paradigm shift1) kể từ khi có sự phát khởi của thuyết tương khoan thai và sang trọng, với sống mũi cao hơn một người Tây đối và cơ học lượng tử (quantum mechanics) ở vào đầu thế kỉ Tạng bình thường. Thầy rất hiền từ, giọng nói trầm ấm, nhất là XX. Các nhà khoa học cũng như triết học thường xuyên phải khi thầy tụng kinh, nghe rất là du dương. Ling Rinpoche là một đương đầu với nhiều mô hình trái ngược nhau về bản chất của triết gia sâu sắc với một đầu óc sắc bén và một trí nhớ lạ kì. thực tại: thuyết Newton cho rằng vũ trụ này có tính cách máy Còn Trikang Rinpoche thì lại là một nhà thơ nổi tiếng nhất của móc và xác định, còn thuyết tương đối của Einstein và cơ học thời đại, và rất thông thạo về hai lãnh vực nghệ thuật và văn lượng tử thì lại cho rằng vũ trụ này “hỗn loạn” hơn nhiều. Thực chương. Đối với tính tình và năng khiếu của tôi, tôi cảm thấy ra, những gì mô hình thứ nhì này mang lại cho sự hiểu biết của thân thiết với Ling Rinpoche hơn hết trong các vị thầy. Có thể chúng ta về thế giới vẫn chưa được hoàn toàn sáng tỏ. nói một cách công bình rằng Ling Rinpoche đã có ảnh hưởng lớn lao nhất đến cuộc đời tôi. 1 Xin xem chú thích ở chương II.  2 Regent TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 49 50 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ Khi bắt đầu học về các chủ thuyết khác nhau của các tông đã nhận chân được giá trị thực sự của học vấn. Không hiểu vì phái Ấn, tôi cảm thấy chúng rất xa lạ với những điều mà bản sao, kể từ năm 16 tuổi, tôi bắt đầu ngấu nghiến học về triết học, thân tôi có thể chứng nghiệm được. Chẳng hạn, thuyết nhân tâm lí học, và tâm linh học Phật giáo. Không những tôi theo quả của phái Số Luận3 (Sāṃkhya) cho rằng quả là sự biểu hiện đuổi việc học một cách say mê, mà tôi còn bắt đầu liên hệ được của những gì đã nằm sẵn trong cái nhân, và thuyết hoàn vũ những gì tôi học với nhận thức của tôi về cuộc đời và những gì cách (theory of universals) của phái Thắng Luận4 (Vaiśeṣika) đang xảy ra ở thế giới bên ngoài. thì cho rằng mặc dầu đa hình vạn trạng, các vật thể hàm chứa Trong khi tôi vùi đầu vào sách vở Phật học, vào việc tham tính phổ quát bất biến thường hằng, độc lập với tất cả các biệt thiền, quán chiếu về những giáo pháp và tu tập của Đạo Phật, tướng. Có những thuyết hữu thần Ấn Độ muốn chứng minh sự thì Tây Tạng đang phải đương đầu với sự có mặt của binh sĩ hiện hữu của một Đấng Tạo Hoá, và có những lí luận của Phật Trung Quốc trong lãnh thổ Tây Tạng, trong nỗ lực tiến đến một giáo phản bác lại điều ấy. Ngoài ra, tôi còn phải học về những giải pháp chính trị ổn thoả cho cả hai bên, và tình trạng ngày dị biệt vô cùng phức tạp giữa các chủ thuyết khác nhau ngay cả càng trở nên rối rắm hơn. Cho đến khi tôi hoàn tất chương trình trong các tông phái Phật giáo nữa. Những điều này quá sức học vấn và tham dự kì thi Geshe 5 tại thành phố linh thiêng huyền bí, rối rắm và không liên quan trực tiếp gì đến đời sống Lhasa6 trước hằng ngàn tu sĩ — một sự kiện đánh dấu đỉnh cao của một đứa trẻ mới mười mấy tuổi, chỉ thích lắp ráp đồng hồ, của con đường học vấn của tôi (cho đến nay, đây vẫn là điều xe máy, và dán mắt vào những bức hình về Thế Chiến Thứ Hai tôi thấy hài lòng nhất) — thì những khủng hoảng ở Tây Tạng qua sách vở và tạp chí Life như tôi. Quả vậy, lúc Babu Tashi gỡ buộc tôi phải trốn chạy khỏi quê hương sang Ấn Độ, và từ đó cái máy phát điện ra để chùi rửa, thì tôi đứng bên cạnh để giúp bắt đầu cuộc đời tị nạn lưu vong của tôi, cho đến tận ngày hôm ông. Tôi thường say sưa với công việc này đến nỗi quên cả nay. Thế nhưng, chính vì đã mất đi quốc tịch Tây Tạng, tôi có học, quên cả ăn. Và khi các thầy phụ tá đến giúp tôi học, đầu thể nói một cách thành thực rằng tôi đã nghiễm nhiên trở thành óc của tôi lại lởn vởn hình ảnh của cái máy phát điện và những một công dân của thế giới. bộ phận của nó. Nhưng tất cả đều thay đổi khi tôi tròn 16 tuổi. Các sự kiện trên thế giới biến chuyển nhanh đến chóng mặt. Khi quân đội Trung Quốc tiến sát đến biên giới Tây Tạng vào mùa Hè năm Một trong những tuệ giác sâu sắc nhất của Phật giáo bắt đầu từ 1950, thầy Tadrak [quan phụ chính] đề nghị tôi tạm thời đứng cái gọi là “tánh không7”. Cốt tuỷ của tánh không là sự nhận ra đảm nhận vai trò lãnh đạo quốc dân. Có lẽ chính vì tuổi thơ biết sâu sắc rằng có một sự chênh lệch rất lớn giữa những gì tri đã bị đánh mất, vì gánh nặng của một thực trạng đen tối và giác của ta cảm nhận được (trong đó có sự hiện hữu của chính những khủng hoảng không lối thoát đang đè lên hai vai, mà tôi ta) và bản chất thực sự của sự vật. Trong cuộc sống hàng ngày, ta thường xem bản thân ta và thế giới này là những thực thể 3 Số Luận học phái 數論學派, một trong sáu hệ phái triết học cổ Ấn Độ  sau thời Đức Phật.  5 Geshe: kì thi tương đương với tiến sĩ Phật học ở Tây Tạng.  4 Thắng Luận học phái 勝論學派, một học phái triết học cổ điển của Ấn  6 Lhasa: Thủ đô của Tây Tạng.  Độ sau thời Đức Phật.  7 Không tánh: 空 性, sa. Śūnyatā, ta gọi là “Tánh không”.  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 51 52 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ cách biệt, xác định, riêng rẽ và lâu bền. Chẳng hạn, thử thẩm tương thuộc của vạn vật, trong khi những gì tồn tại biệt lập thì định tri kiến của ta về cái tôi, ta sẽ thấy rằng ta có khuynh bất biến và cách biệt. Tất cả mọi sự vật trên đời này đều được hướng tin rằng thực có một cái “tôi” trong ta, một cái tôi cá cấu thành bởi những sự kiện phụ thuộc và liên quan lẫn nhau, nhân có lí lịch riêng biệt, tồn tại biệt lập với những yếu tố vật bởi một dòng hiện tượng liên tục tương duyên với nhau, không chất và tinh thần làm nên sự hiện hữu của ta. Triết học tánh có thực thể cố định, vĩnh hằng, bất biến, và những hiện tượng không cho ta biết rằng cái nhìn này không những là một sai lầm (phenomena) này bản thân chúng cũng thay đổi và biến cải căn bản, mà còn là nguồn gốc của những luyến ái, bám chấp, không ngừng. Nói rằng tất cả sự vật và sự kiện đều là “không” và dẫn đến vô số những thiên kiến, định kiến của ta. nghĩa là nó không sở hữu một tự tánh bất biến, một thực tại tự Theo thuyết tánh không, bất kì một sự tin tưởng nào vào tồn, hay một “thực thể” tuyệt đối riêng biệt. Chân lí nền tảng một sự hiện hữu có tính cách nội tại và biệt lập8 đều không bền về bản chất thực sự này của vạn vật chính là cái mà kinh sách vững. Tất cả sự vật và sự kiện — vật chất [thân] hay tinh thần Phật giáo gọi là “tánh không”, hay śūnyatā trong tiếng Phạn. [tâm], ngay cả những khái niệm trừu tượng như thời gian — Trong cái nhìn ngây thơ và thường tình của ta về thế giới, đều không thể tồn tại một cách khách quan, biệt lập. Nếu ta ta tưởng như các sự vật và hiện tượng có một thực tính nội tại nghĩ rằng các sự vật và sự kiện tồn tại một cách biệt lập, thì thường hằng. Ta tưởng rằng thế giới này được cấu thành bởi nghĩa là ta đã đặt giả thuyết rằng là chúng, bằng cách nào đó, những sự vật và sự kiện cụ thể, biệt lập, và những sự vật, sự đã tự viên mãn cụ túc và điều đó có nghĩa là chúng hoàn toàn kiện [cụ thể, biệt lập] ấy tương tác với nhau. Ta tưởng rằng cách biệt. Điều này cũng có nghĩa là chúng không có khả năng những hạt giống thực có tự tánh tạo ra những mầm cây thực có tác động qua lại và ảnh hưởng lên các hiện tượng khác. Thế tự tánh ở một thời điểm thực có tự tánh trong một không gian nhưng, ta đã biết rằng có lí duyên khởi: nếu tôi tra chìa khoá thực có tự tánh. Ta tưởng rằng mỗi phần tử trong cái dòng vào máy xe, bu-ri 9 sẽ bật lửa, máy sẽ chạy, dầu và xăng sẽ duyên khởi ấy — nhân, thời, sở, quả — đều có thể một bản thể cháy lên. Trong một thế giới mà các sự vật hiển hiện và tồn tại vững chắc. Cái nhìn của ta về thế giới, mà ta nghĩ là được cấu một cách riêng biệt và tự hữu, những sự kiện trên sẽ không bao thành bởi những khách thể rắn chắc và có những đặc tính cố giờ xảy ra; tôi sẽ không thể viết ra chữ trên giấy, và quí vị cũng hữu, được ta củng cố thêm bằng cách sử dụng ngôn ngữ với sẽ không thể đọc được những dòng chữ này đây. Chính vì những chủ từ và thuật từ theo cấu trúc một bên là danh từ và chúng ta tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, ta phải giả tĩnh từ, và một bên là động từ10. Thế nhưng vạn vật đều do thiết rằng chúng ta không phải là những cá thể riêng biệt, mặc nhiều thành phần khác nhau tạo nên; một con người gồm có hai dầu ta cảm thấy dường như là vậy. phần thân lẫn tâm. Hơn nữa, mặt mũi đích thực của vạn vật tuỳ Nói cách khác, khái niệm về một sự hiện hữu nội tại, biệt thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như là cái tên [cái mà Ngài lập của vạn vật [dharma] hoàn toàn không thích hợp với lí duyên khởi. Bởi vì lí duyên khởi hàm chứa tính tương tuỳ và 10 Thí dụ, ta hay nói: “Trời mưa”, nhưng có phải trời mưa đâu (không có  8 Independent:  theo  từ  nguyên,  là  không  phụ  thuộc,  không  tương  liên,  chủ thể [subject] và tác nhân [actor] ở đây), chỉ có mưa thôi. Hoặc ta nói:  không tương ứng, không tương duyên.  “Tôi giận”, nhưng có thực là có một cái tôi đang giận không, hay chỉ có  9 Bougie, tiếng Pháp: nến điện, điện lạp.  cái giận thôi, nhưng ta lại nắm bắt lấy cái giận đó, và coi nó là “của tôi”?  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 53 54 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ Long Thọ gọi là “giả danh” - ND] mà ta đặt cho chúng, chức Tôi cũng được học với một học giả Tây Tạng tài ba và năng của chúng, và những khái niệm của ta về chúng. khiêm tốn tên là Nyima Gyaltsen (Gen Nyima là tên thân mật Mặc dầu được dựa trên cách hiểu của kinh điển Phật giáo của thầy). Thầy Gyaltsen có một khả năng trời phú hiếm hoi là cổ xưa, được cho là do chính Đức Phật [Thích Ca Mâu Ni] có thể giảng giải những tư tưởng thâm sâu vi diệu của đạo Phật giảng, triết lí tánh không đã được dẫn giải một cách có hệ bằng những từ ngữ hết sức dễ hiểu. Thầy hơi hói và thường đeo thống lần đầu tiên bởi một triết gia Phật giáo tên là Nāgārjuna một cặp kính râm to và tròn. Một mắt của thầy bị chứng co giật [Bồ tát Long Thọ], sống vào thế kỉ thứ II. Hiện nay, chúng ta nên thầy hay chớp mắt luôn. Nhưng khả năng định tâm của biết rất ít về cuộc đời của Ngài, chỉ biết rằng Ngài sinh ra ở thầy, nhất là khả năng tập trung vào một luồng tư duy phức tạp Nam Ấn và là người quan trọng thứ nhì góp phần lập nên Đạo hay định vào một điểm, thì phải nói là đáng kinh ngạc, thậm Phật ở Ấn Độ, sau Đức Phật. Các sử gia tán thán công đức của chí được xem như là một huyền thoại. Thầy có thể nhận biết Ngài trong việc thành lập trường phái Trung Luận11 (Madhya- một cách sáng suốt tất cả những gì đang xảy ra chung quanh maka) thuộc Phật giáo Đại thừa12 (Mahāyāna), một tông phái mỗi khi nhập định. Vì tánh không là lãnh vực chuyên môn của đóng vai trò chủ yếu ở Tây Tạng cho đến ngày nay. Tác phẩm thầy, những giờ học với thầy mang lại cho tôi nhiều hứng thú. nổi tiếng nhất của Ngài là Căn bản Trung Quán Luận tụng13 (Madhyamaka-kārikā), ngày nay vẫn còn được học thuộc lòng, nghiên cứu, và thảo luận trong các trường cao đẳng Phật học ở Tây Tạng. Thế giới vi mô (microscopic) của cơ học lượng tử đã mang lại Tôi dành nhiều thì giờ đọc kĩ và đem ra thảo luận với các vị nhiều thách thức đối với sự hiểu biết thông thường của chúng thầy cũng như đồng môn của tôi về quyển sách này. Vào những ta, và đây chính là một trong những điều phi thường và thú vị năm 1960, trong thập niên đầu tiên của cuộc đời lưu vong tại của vật lí học hiện đại. Vì ánh sáng có thể được thấy dưới hai Ấn Độ, tôi đã có cơ hội tìm hiểu sâu về tánh không. Hồi đó, nói dạng, hoặc là hạt (particle), hoặc là sóng (wave), và vì nguyên chung tôi rảnh rang hơn bây giờ nhiều, không phải tham dự lí bất định (principle of uncertainty), ta không thể nào biết nhiều lễ lạc. Tôi cũng chưa được đi chu du khắp các nơi trên được một điện tử có chức năng gì và nó đang ở đâu14, và khái thế giới như bây giờ, một công việc chiếm rất nhiều thì giờ của niệm vật lí lượng tử về sự chồng chập15 mang lại một cách hiểu tôi. Trong khoảng mười năm đó, tôi có cơ hội quí báu được hoàn toàn mới lạ so với vật lí học cổ điển, vốn cho rằng mọi dành nhiều thời giờ học hỏi với hai vị thầy của tôi, đều là vật đều có tính cách chỉ định và có thể tiên đoán được. Chẳng những chuyên gia về cả lí thuyết lẫn thực hành về tánh không. 14 Một điện tử có thể có mặt ở nhiều nơi cùng một lúc. Trong Kinh Hoa  Nghiêm, có lần Đức Thế Tôn có mặt một lần ở cả ba cõi: Ngài đến thăm  cõi trời Dạ Ma, đồng thời cũng có mặt ở cõi Ta Bà, và cõi trời Đao Lợi nữa.  11 Trung  Luận:中論,  Madhyamaka­śāstra,  Middle  Way  Treatise  (hoặc  15 Đây là dịch sát theo nghĩa của từ tiếng Anh “superposition” (sự chồng  Trung Quán phái, Mādhyamika, Middle Way School).  chập) — nguyên tử này chồng lên nguyên tử kia. Nhưng, trên thực tế, các  12 Đại Thừa: 大乘, Great Vehicle  nguyên tử không “chồng” lên nhau mà cái này nằm trong cái kia (tương  13 Madhyamaka­kārikā  (Fundamental  Wisdom  of  the  Middle  Way),  do  nhập, tương dung). Đây là một thí dụ cụ thể về sự giới hạn của ngôn từ  Ngài Cưu‐ma‐la‐thập 鳩摩羅什 dịch sang Hán văn.  trong vật lí học hiện đại.  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 55 56 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ hạn, thí nghiệm tư tưởng trứ danh của ông Schrödinger về con khiến cho ta dễ rơi vào ngã chấp và cái nhìn lệch lạc khi ta tiếp mèo: một con mèo được đặt trong một cái thùng chứa chất xúc với thế giới bên ngoài và các loài hữu tình đang chung phóng xạ có 50% khả năng phóng ra chất độc giết chết nó. sống với ta trên quả điạ cầu này. Khi ta cho rằng có những Trong trường hợp này, ta buộc phải giả thiết rằng cho đến khi ngoại vật có thuộc tính nội tại là quyến rũ, thì ta sẽ phản ứng nắp thùng được mở ra, con mèo này vừa sống lại vừa chết, và trước các sự vật ấy với một tình cảm luyến ái, sai lạc, nhưng điều này dường như là một nghịch lí. đồng thời trước những ngoại vật khác mà ta cho là có tự tánh Đối với một Phật tử Đại thừa được tiếp xúc với tư tưởng không quyến rũ, ta lại phản ứng với một sự ghét bỏ sai lạc. Nói của Bồ tát Long Thọ, thì rõ ràng có một sự cộng hưởng giữa một cách khác, Ngài Long Thọ cho rằng chính sự nắm bắt nguyên lí tánh không và vật lí hiện đại. Nếu vật lí học lượng tử (chấp thủ) lấy những sự vật tồn tại một cách biệt lập đưa đến cho biết rằng vật chất không rắn chắc và xác định như ta tưởng, phiền não, dẫn đến hàng loạt những hành động, phản ứng tiêu thì tôi dám nghĩ rằng khoa học đang tiến dần đến tuệ giác của cực và, cuối cùng, dẫn đến khổ đau. Nói tóm lại, theo Ngài đạo Phật về tánh không và tính hỗ tương của sự vật. Trong một Long Thọ, nguyên lí tánh không không phải chỉ để thoả mãn cuộc hội thảo ở New Delhi, tôi đã được nghe nhà vật lí học những tò mò của trí năng về thực tại mà còn hàm chứa một ý Raja Ramanan, được xem là một Sakharov16 của Ấn Độ, nhắc nghĩa sâu sắc về tâm lí và đạo đức. đến sự đồng hướng giữa triết lí tánh không của Long Thọ và cơ Tôi có lần hỏi nhà vật lí học David Bohm, một người bạn học lượng tử. Sau khi thảo luận với nhiều khoa học gia, tôi tin của tôi, rằng: Đứng trên bình diện khoa học hiện đại, ngoài vấn rằng những khám phá lớn lao của vật lí học kể từ thời đề nhìn và thấy sự vật một cách sai lầm ra, nếu người ta tin vào Copernicus đang dẫn đến nhận thức rằng bản chất của thực tại sự tồn tại biệt lập của vạn vật, thì có gì không ổn không? Câu không phải như ta nhìn thấy. Nếu ta quan sát và nghiên cứu thế trả lời của ông rất hay và hữu lí. Ông nói rằng nhìn lại những giới này sâu sắc hơn — bằng phương pháp khoa học, bằng thí chủ thuyết khác nhau đã từng chia rẽ nhân loại, như nạn kì thị nghiệm, hoặc theo nguyên lí tánh không của Phật giáo, hay chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hay thuyết đấu tranh bằng phương pháp thiền quán — ta sẽ thấy rằng sự vật vi tế giai cấp của Marx, ta thấy rằng nền tảng của các chủ thuyết này hơn nhiều, thậm chí, trong nhiều trường hợp, mâu thuẫn với là cách nhìn các sự vật như chúng là những cá thể riêng rẽ, biệt những giả thuyết và cái nhìn thông thường của ta về thế giới. lập. Từ sai lầm này dẫn đến một sai lầm khác là họ cũng tin Có thể ta sẽ đặt câu hỏi này: có tri giác sai lầm về thực tại tưởng rằng những vật thể rời rạc cấu thành nên sự vật cũng có đã đành rồi, nhưng nếu ta cứ tin tưởng rằng vạn vật tồn tại một tính cách biệt lập và tự tồn. Câu trả lời của nhà vật lí học cách biệt lập và tự hữu, thì có tai hại gì không? Ngài Long Thọ Bohm, dựa trên những nghiên cứu của ông về vật lí lượng tử, cho rằng nhận thức này dẫn đến những hậu quả rất tai hại. Ngài cũng chính là những ưu tư mà Ngài Long Thọ đã viết ra cách giảng rằng sự tin tưởng vào sự tồn tại riêng rẽ của vạn vật đây gần hai ngàn năm về vấn đề đạo lí và cách nhìn sự vật theo kiểu này. Đành rằng, nói một cách chính xác, thì khoa học 16 Andrei D. Sakharov (1921‐1989): Khoa học gia nguyên tử cận đại của  không quan tâm nhiều đến vấn đề đạo lí và luân thường, nhưng liên bang Sô‐viết, được coi là cha đẻ của bom khinh khí. Ông đã cầm đầu  có một điều chắc chắn là khoa học — một nỗ lực của con phong trào phản kháng nền độc tài chà đạp nhân quyền trong thời Stalin,  người — không tách rời khỏi mục đích mang lại hạnh phúc cho và chủ trương huỷ diệt võ khí hạch tâm. Giải Nobel Hòa bình 1975.  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 57 58 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ nhân loại. Cho nên, câu trả lời của Bohm không có gì đáng về thực tại, khoa học, và chỗ đứng của con người một cách ngạc nhiên cả. Tôi hy vọng chúng ta có thêm những nhà khoa đúng đắn hơn dựa trên những tri thức mới mẻ nhất mà khoa học có cùng nhận thức như ông về mối quan hệ mật thiết giữa học mang lại. khoa học, khuôn khổ nhận thức của nó, và [sự sống còn của] Dưới ánh sáng của những khám phá đó của khoa học, tôi nhân loại. nhận thấy rằng Phật giáo phải sẵn sàng xem xét lại những lí Theo tôi được biết thì khoa học hiện đại đã trải qua một thuyết vật lí thô thiển trong thuyết nguyên tử sơ khai của Phật cuộc khủng hoảng vào đầu thế kỉ XX. Những công trình vĩ đại giáo để thích ứng với khoa học hiện đại, mặc dù nó đã có chỗ trong vật lí học cổ điển của Isaac Newton, James Maxwell, đứng vững chắc và lâu dài trong truyền thống Phật giáo. Lấy v.v... đã cung cấp cho chúng ta những giải thích có vẻ rất là thí dụ, thuyết nguyên tử cổ xưa của Phật giáo, mà cho đến nay hiệu quả về thế giới, và chúng có vẻ thích hợp với trực giác vẫn chưa thay đổi gì lắm, cho rằng vật chất được cấu tạo bởi thường tình của ta. Song, những công trình này đã bị thuyết tám thành phần sơ đẳng được gọi là “nguyên tố”, đó là: thổ, tương đối và những khám phá về vật chất ở tầng vi mô [tầng thuỷ, hoả, và khí [tức tứ đại], cùng với sắc, hương, vị, và xúc dưới nguyên tử], gọi là cơ học lượng tử, hạ bệ. Nhà vật lí Carl [bốn trong sáu trần]. Đất có tính cứng, có sức chịu đựng; nước von Weizsäcker có lần giải thích với tôi rằng vật lí học cổ điển có tính mềm, và dính lại với nhau; lửa làm bốc hơi; và gió gây chấp nhận cái nhìn máy móc về thế giới. Với cái nhìn này, nên sự chuyển động. Một “nguyên tử” được xem là một sự tập một số định luật vật lí có tính cách phổ quát gồm lực hấp dẫn hợp của tám thành tố này, và sự hiện hữu của vật thể trong thế và luật cơ học có khả năng xác định các mô hình tác động của giới vĩ mô được giải thích dựa trên nền tảng của sự kết tập của vật chất một cách hữu hiệu. Trong khối kiến thức này, có bốn các khối nguyên tử này. Theo một tông phái rất xưa của Phật thực tại khách quan: vật thể, lực, không gian, và thời gian, và giáo, phái Tì-bà-sa bộ 18 (Vaibhāṣika), những khối chất luôn luôn có một sự phân biệt rạch ròi giữa chủ thể (người “nguyên tử” này là những thành phần nhỏ nhất của vật chất, quan sát) và khách thể (vật được quan sát). Thế nhưng, không thể phân chia được nữa và không có thành phần cấu tạo. Weizsäcker nói, theo thuyết tương đối và vật lí lượng tử, thì Khi những “nguyên tử” này kết hợp lại để tạo thành vật thể, trên nguyên tắc, chúng ta phải từ bỏ sự phân biệt chủ thể và trường phái Tì-bà-sa bộ cho rằng những nguyên tử rời này khách thể, và cả sự tin chắc của ta vào tính khách quan của các không va chạm vào nhau, mà nhờ không khí và những lực khác dữ kiện nhận xét được. Tuy vậy, ông Weizsäcker nhấn mạnh, của tự nhiên ép chúng dính lại với nhau thành một hệ thống vật vấn đề là hiện nay ta vẫn sử dụng những ngôn từ của vật lí học chất, thay vì co rút vào bên trong hoặc giãn nở vô hạn định. cổ điển khi nói về cơ học lượng tử và những thí nghiệm có khả Chắc chắn rằng những lí thuyết đó đã được phát triển trong năng mang lại một bức tranh mới về thực tại của nó, trong khi cuộc giao đấu gay go với các tông phái triết học Ấn Độ, nhất đó những ngôn từ này đã bị vật lí lượng tử bác bỏ17. Ngoài vấn các thuyết luận lí (logical systems) của các học phái Chính Lí19 đề này ra, ông cho rằng ta phải luôn luôn tìm hiểu về mối (Nyāya) và Thắng Luận20 (Vaiśeṣika). Nghiên cứu sách vở của tương duyên chặt chẽ của tự nhiên và cải thiện nhận thức của ta 18 Tì‐bà‐sa bộ 毘婆沙部  19 Chính Lí học phái 正理學派, còn gọi là Ni‐dạ‐da học phái 尼夜耶學派  17 Thí dụ cụ thể là việc sử dụng danh từ “superposition” ở đoạn trên.  20 Thắng Luận học phái 勝論學派  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 59 60 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ triết học Ấn Độ từ thời xa xưa, ta thấy rằng có rất nhiều cuộc một chủ thuyết của một tông phái triết học Phật giáo được cho tranh luận, bàn thảo, đối thoại sôi nổi giữa các tông phái khác là chính thống, và vì thế đáp ứng được những thắc mắc cũng nhau. Những tông phái cổ điển như Phật giáo, Chính Lí học như gạt bỏ được những sự chống đối của các tông phái khác vì phái (Nyāya), Thắng Luận học phái (Vaiśeṣika), Di-mạn-sai tính cách hữu lí của nó. Mặc dầu những lí lẽ trong quyển A-tì học phái21, (Mīmāṃsā), Số Luận học phái22 (Sāṃkhya), và Bất đạt-ma đại-tì-bà-sa luận khá quen thuộc với Phật giáo Tây nhị phệ-đàn-đa học phái23 (Advaitavedānta) có cùng mục tiêu, Tạng, sách này chưa bao giờ được dịch sang tiếng Tây Tạng ý hướng và phương pháp luận. Những sự thảo luận sôi nổi này một cách hoàn chỉnh. thúc đẩy sự phát triển tri thức và sự chấn chỉnh các tư tưởng Dựa trên hai quyển này, nhất là quyển sau, Thế Thân 27 triết học, kể từ thời kì phôi thai của Phật giáo Ấn Độ cho đến (Vasubandhu), một trong những ngôi sao sáng của Phật giáo thời trung đại và đương đại Tây Tạng. Ấn Độ, cho ra đời quyển A-tì đạt-ma câu-xá luận 28 Có lẽ một trong những lí thuyết nguyên tử xa xưa nhất (Abhidharmakośabhāṣyam) vào thế kỉ thứ IV sau Công được ghi lại trong hai cuốn A-tì-đàm tâm luận24 (Abhidharma- nguyên. Sách này tóm lược những điểm chính trong quyển A-tì hṛdaya-śāstra) và A-tì đạt-ma đại-tì-bà-sa luận25 (Abhidharma- đạt-ma đại-tì-bà-sa luận (Abhidharma-mahāvibhāṣā-śāstra của mahāvibhāṣā-śāstra) của Pháp Thắng26 (Dharmaśrī) thuộc phái Pháp Thắng) và giảng giải sâu xa hơn nữa. Nó trở thành một Tì-bà-sa bộ (Vaibhāṣika). Cuốn thứ nhất được các học giả sau trong những sách chuẩn bàn về triết học và tâm lí học Phật giáo này cho rằng ra đời vào khoảng giữa thế kỉ thứ II trước Công sơ thuỷ ở Tây Tạng. Hồi còn trẻ, tôi phải học thuộc lòng quyển nguyên và thế kỉ thứ I sau Công nguyên. Mặc dầu quyển sách sách này. này chưa từng được dịch sang tiếng Tây Tạng, tôi được biết Về sự tập hợp của các nguyên tử và mối tương quan giữa rằng có một bản dịch sang tiếng Trung Hoa vào thế kỉ thứ III các nguyên tử và các thành phần của nó, Phật giáo sơ thuỷ sản sau Công nguyên. Sách của Pháp Thắng cho thấy một sự cố sinh ra đủ mọi triết thuyết, nhưng chỉ là dựa trên sự suy luận gắng tinh tế trong việc hệ thống hóa những điểm then chốt của mà thôi. Có một điểm thú vị là trong quyển A-tì đạt-ma câu-xá triết học Phật giáo sơ khởi, cho nên ta có thể kết luận rằng phần luận có nói đến kích thước của các loại “nguyên tử” khác nhau, lớn những tư tưởng này đã phát sinh vào khoảng trước thời thí dụ một “hạt”, đơn vị nhỏ nhất, không thể phân chia được điểm quyển sách này ra đời. Trong khi đó, quyển A-tì đạt-ma nữa, bằng khoảng 1 phần 2400 kích thước của một “nguyên tử đại-tì-bà-sa luận là một quyển sách tổng hợp, ra đời khoảng của một con thỏ” — tôi cũng không biết nghĩa là gì nữa. Tôi đầu thế kỉ I và III sau Công nguyên. Quyển sách này đưa ra thực tình không hiểu Ngài Thế Thân tính làm sao ra con số này! Mặc dầu chấp nhận thuyết nguyên tử căn bản, một số tông 21 Di‐mạn‐sai học phái 彌曼差學派  phái Phật giáo không tin rằng nguyên tử là vật nhỏ nhất, không 22 Số Luận học phái 數論學派  thể phân chia được nữa (bất khả phân). Một số thậm chí đặt 23 Bất nhị phệ‐đàn‐đa học phái 不二吠檀多學派  24 A­tì­đàm tâm luận 阿毘曇心論 , “Essence of Higher Knowledge “  27 Thế Thân: 世親, Vasubandhu  25 A­tì đạt­ma đại­tì­bà­sa luận, “Great Treatise on Instantiation“  28 A­tì đạt­ma câu­xá luận 阿毘達磨俱舍論, “Treasury of Higher  26 Pháp Thắng: 法勝, Dharmaśrī  Knowledge “  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 61 62 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ nghi vấn về bốn khối chất sắc, hương, vị và xúc [tứ trần] là Bản thân tôi chưa bao giờ hiểu được quan niệm cho rằng những thành phần căn bản tạo nên vật chất. Ngài Thế Thân rất những thành phần cơ bản tạo nên vật chất là sắc, hương, vị, xúc nổi tiếng về những lời phê bình của ông về lí thuyết cho rằng [tứ trần]. Nếu người ta đưa ra một lí thuyết ở tầng dưới nguyên thật có những nguyên tử bất khả phân tồn tại một cách khách tử cho rằng vật chất được tạo ra do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) quan. Ông lí luận rằng nếu quả có những nguyên tử tồn tại biệt thì tôi còn hiểu được. Dù sao, tôi cảm thấy rằng về phương lập, thì làm cách nào giải thích các vật thể quanh ta? Để cho diện này, tư tưởng Phật giáo, mà nói cho cùng thì mới chỉ là những vật thể này có mặt, ta phải giải thích được làm cách nào một môn vật lí có tính cách ức đoán và sơ đẳng, bây giờ cần các nguyên tử đơn giản kết tập lại với nhau để tạo thành những phải được thay đổi dưới ánh sáng mới của vật lí học hiện đại, hệ thống [vật chất] phức tạp29. một lãnh vực đã hiểu một cách cặn kẽ với những tri thức đã [Theo Ngài Thế Thân], nếu quả thực có một sự kết hợp như được chứng minh bằng thí nghiệm, rằng thành phần cấu tạo của vậy, thì ta hãy tưởng tượng ra một mô hình trong đó có một vật chất là những điện tử xoay quanh một hạt nhân, trong có nguyên tử chính được sáu nguyên tử khác vây quanh, bốn protons và neutrons. Nếu ta đọc về sự mô tả của vật lí hiện đại nguyên tử ở bốn góc, một ở trên, và một ở dưới. Như vậy thì, về các hạt ở tầng dưới nguyên tử như quarks và leptons30, thì ta cái phần mà hạt nguyên tử ở chính giữa tiếp xúc với hạt nguyên sẽ thấy rõ ràng rằng lí thuyết của Phật giáo sơ thuỷ và quan tử ở phiá đông có cũng tiếp xúc với hạt nguyên tử ở phiá bắc niệm về những nguyên tử bất khả phân nhiều lắm cũng chỉ là luôn hay không? Nếu không, thì cái nguyên tử ở chính giữa những mô hình thô thiển. Tuy vậy, khái niệm căn bản của đạo phải có nhiều hơn một phần, và như vậy có nghĩa là nó còn có Phật về vật thể — cho dù là một vật thể vi tế nhất cũng phải thể bị phân chia thành nhiều phần nhỏ hơn nữa; do đó hạt được nhìn như là một vật cộng hợp (composite)31 — cho đến nguyên tử ở chính giữa có một phần tiếp xúc với hạt nguyên tử nay, vẫn là điều đúng. ở phiá đông, và một phần khác tiếp xúc với hạt nguyên tử ở Một trong những động lực lôi cuốn khoa học và triết học phiá bắc. Ngược lại, nếu cái phần tiếp xúc với hạt nguyên tử ở vào việc tìm hiểu những thành phần cấu tạo cơ bản của vật chất phiá đông cũng tiếp xúc với hạt nguyên tử ở phiá bắc, thì là sự tìm kiếm những thành phần tối hậu không thể phân chia không có lí gì cái phần đó lại không tiếp xúc với tất cả các hạt được nữa [nhỏ nhất]. Điều này không những hấp dẫn các nhà nguyên tử kia. Và, trong trường hợp đó, Thế Thân lí luận, vị trí triết học Ấn độ cổ xưa và các nhà khoa học hiện đại, mà còn lôi trong không gian của cả bảy nguyên tử ấy (sáu nguyên tử vây kéo các khoa học gia cổ đại của Hy Lạp, những người được quanh và một nguyên tử chính giữa) sẽ trùng nhau, và tất cả sẽ mệnh danh là “những nhà theo thuyết nguyên tử” (atomists). hợp lại thành một nguyên tử duy nhất. Với suy luận như vậy, Đây là cái gọi là “cuộc hành trình đi tìm kiếm cái bản chất thực Thế Thân nói rằng không thể nào giải thích thế giới vĩ mô này sự của thực tại”, tuỳ theo người ta hiểu nó như thế nào. Nhưng bằng quan niệm về sự kết tập (aggregration) của những vật thể Phật giáo cho rằng cuộc tìm kiếm này sai lầm ngay từ căn bản, đơn thuần, như là nguyên tử bất khả phân. 30 Quarks và leptons là những vi hạt dưới nguyên tử (subatomic), và là  29 Điều này được khoa học giảng giải minh bạch với mô hình nguyên tử  những thành tố lí tưởng được định trong những công thức toán học bởi  giống một hành tinh hệ, có những tầng điện tử xoay quanh một cái nhân.  những liên hệ tương ứng với nhau.  Tầng điện tử ngoài cùng là tầng có tác dụng hóa học mạnh nhất.  31 Đây là nội dung của từ “hữu vi” thường dùng trong Phật học.  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 63 64 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ vì nó đã bị lạc hướng ngay từ đầu. Có một thời khoa học đã phức tạp nhất một cách rõ ràng. Là thư kí của buổi hội thảo, đoan chắc rằng khi tìm ra các nguyên tử, người ta đã tìm thấy ông có khả năng tóm lược, đúc kết những cuộc thảo luận một cái bản chất thực sự của vật thể, nhưng những thí nghiệm vật lí cách cô đọng, và điều này đã giúp ích cho tôi rất nhiều. ở thế kỉ XX đã còn phân tách nguyên tử ra thành nhiều phần Vài năm trước đó, tôi đã có vinh hạnh được viếng thăm nhỏ hơn nữa. Mặc dầu có ít nhất một quan niệm trong vật lí Viện [nghiên cứu] Niels Bohr ở Copenhagen và mở một cuộc lượng tử cho rằng vĩnh viễn người ta sẽ không bao giờ có thể đối thoại thân mật với các khoa học gia của Viện. Mấy ngày tìm thấy một cái hạt nhỏ nhất tồn tại khách quan và bất khả trước, trong vài ngày ngắn ngủi ghé Luân Đôn, tôi đã mời nhà phân, nhưng hiện nay vẫn có nhiều nhà khoa học nuôi hy vọng vật lí học David Bohm và phu nhân đến dùng cơm trưa tại sẽ tìm thấy những cái vi hạt tối hậu ấy. khách sạn mà tôi đang tạm trú. Nghe nói tôi sắp có một cuộc Mùa hè năm 1998, tôi đến thăm phòng thí nghiệm của nhà đối thoại về mối quan hệ giữa triết học Phật giáo và vật lí học vật lí học người Úc Anton Zeilinger tại Đại học Innsbruck. tại Viện nghiên cứu Bohr, Bohm đã ưu ái mang cho tôi hai Anton đưa cho tôi xem một công cụ có thể nhìn thấy một trang tóm lược của Bohr về tư tưởng của ông đối với bản chất nguyên tử đơn độc đã bị ion hoá32. Nhưng, rất tiếc, mặc dầu đã của thực tại. Thật là hấp dẫn khi nghe Bohm mô tả về mô hình cố gắng, tôi vẫn không thể chứng mục được cảnh tượng huyền “hành tinh hệ” (planetary model) của nguyên tử do Bohr khởi diệu đó. Có lẽ tôi chưa đủ duyên. xướng và mô hình Rutherford, cả hai đều bắt nguồn từ mô hình Tôi gặp Anton lần đầu tiên trong cuộc hội thảo Mind and “mứt mận” (“plum pudding” model). Hai mô hình này nói rằng Life (Tâm thức và Cuộc sống) tại Dharamsala năm 1997. Ông nguyên tử là một hạt nhân với các điện tử xoay quanh. có nhiều điểm trái ngược với nhà vật lí học David Bohm: to Mô hình “mứt mận” nảy sinh vào cuối thế kỉ thứ XIX, sau con, để râu, và đeo kiếng. Ông có tính khôi hài, và mỗi khi ông khi J. J. Thompson khám phá thấy sự có mặt của các điện tử cười thì cả cơ thể của ông cũng cười theo. Là một nhà vật lí mang điện tích âm. Ông tin rằng điện tử mang điện tích dương học thực nghiệm, ông hoàn toàn cởi mở trong việc chấp nhận có vai trò cân bằng điện tử mang điện tích âm được trải khắp thẩm định lại toàn bộ vấn đề lí thuyết dựa trên kết quả của nguyên tử như là mứt mận, và các quả mận là những điện tử. những thí nghiệm mới mẻ. Ông thích thú tìm hiểu Phật giáo Song, sang đầu thế kỉ thứ XX thì Ernest Rutherford khám phá trên bình diện lí thuyết, để so sánh tư tưởng của Phật giáo và ra rằng khi các hạt alpha mang điện tích dương được bắn vào vật lí lượng tử, vì ông nhận thấy rằng cả hai đều phản đối bất kì một tấm lá vàng mỏng, phần lớn các hạt này đi xuyên qua một ý niệm nào về một thực tại khách quan và biệt lập. được, nhưng có một số bị dội lại. Ông đã kết luận một cách Cũng trong cuộc hội thảo này, tôi đã gặp gỡ nhà vật lí học chính xác là điện tích dương của các nguyên tử vàng không thể người Mĩ Arthur Zajonc. Ông có giọng nói nhẹ và cặp mắt vô trải đều khắp các nguyên tử như là mứt mận, mà chúng tập cùng sắc sảo, nhất là khi ông tập trung vào một điều gì. Ông là trung lại nơi điểm giữa của nguyên tử: khi một hạt alpha đụng một thầy giáo có tài, và có khả năng giảng giải những đề tài phải trung tâm của một nguyên tử vàng, điện tích dương đã đủ để đẩy chúng ra. Từ đó Rutherford đưa ra mô hình “thái dương 32 Ion hoá (ionized): nguyên tử bị mất đi hay thêm vào một điện tử ở  hệ” (solar system) của một nguyên tử, trong đó hạt nhân có tầng ngoài cùng trong một dung dịch nước có chứa điện và vì thế có khả  điện tích dương được vây quanh bởi các điện tử mang điện tích năng hoá hợp với một ion đối nghịch.  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 65 66 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ âm. Sau đó, Niels Bohr đã cải tiến mô hình thái dương hệ của Mặc dầu tôi đã từng được nghe về thuyết tương đối của Rutherford thành mô hình “hành tinh hệ” của nguyên tử, và Einstein cách đây khá lâu, David Bohm là người đầu tiên giải đây chính là cha đẻ của cơ học lượng tử. thích về thuyết ấy và về ý nghĩa triết học của nó cho tôi. Vì tôi Trong buổi nói chuyện, Bohm cũng có kể sơ với tôi về không có căn bản về toán học, giảng dạy cho tôi về vật lí hiện cuộc thảo luận từ lâu giữa Bohr và nhà bác học Einstein về cái đại, nhất là những đề tài hóc búa như thuyết tương đối, là điều nhìn của họ đối với vật lí lượng tử. Nội dung của cuộc thảo không dễ dàng chút nào! Mỗi lần nhớ lại sự kiên nhẫn của luận này xoay quanh sự phản bác của Einstein về giá trị của Bohm, giọng nói nhỏ nhẹ và cử chỉ dịu dàng, và sự lo lắng làm nguyên lí bất định (uncertainty principle). Điểm then chốt của cách nào cho tôi có thể lãnh hội được những điều ông giảng, là cuộc đối thoại xoay quanh vấn đề là thực tại, trên căn bản, có tôi lại thấy nhớ ông da diết. phải là bất định, bất khả tiên tri, và theo xác suất (probabilistic) Bất kì một người bình thường nào muốn tìm hiểu về thuyết hay không. Einstein cật lực phản đối điều này, như trong bài tương đối của Einstein cũng đều nhận thấy rằng muốn hiểu viết “God does not play dice!” (Thượng Đế không chơi trò xúc được thuyết này thì trước hết phải phủ nhận hết những nhận xắc) của ông. Điều này khiến tôi liên tưởng đến các cuộc tranh thức thông thường. Einstein đưa ra hai định đề: sự bất biến của luận trong lịch sử của Phật giáo Tây Tạng đã đóng vai trò trọng vận tốc ánh sáng, và nguyên lí của tính tương đối. Thuyết này yếu như thế nào đối với việc thiết lập và cải tiến các tư tưởng xác nhận rằng tất cả các định luật vật lí phải hoàn toàn như triết học. nhau đối với hai người quan sát đang di chuyển theo hai chiều Khác với các triết gia Phật giáo, các nhà vật lí học hiện đại đối nghịch nhau. Với hai tiền đề này, Einstein đã làm một cuộc có khả năng mở rộng nhãn quan rất nhiều nhờ sự trợ giúp của cách mạng trong nhận thức khoa học của chúng ta về không các công cụ khoa học như những tấm kính viễn vọng khổng lồ, gian và thời gian. thí dụ như kính viễn vọng Hubble, hoặc của các kính hiển vi Thuyết tương đối của ông cung cấp cho chúng ta phương điện tử. Kết quả là những hiểu biết thực chứng gặt hái được về trình nổi tiếng về năng lượng và vật chất E=mc2. Phải thú thực các thực thể vật chất vượt xa sức tưởng tượng của con người ở rằng đây là phương trình duy nhất mà tôi biết (ngày nay, người thời cổ đại. Với cái nhìn đó, tôi đã từng đề nghị đưa vào các ta thấy nó cả trên áo thun!) Ngoài ra, là một loạt những lí trường đại học Phật giáo môn vật lí căn bản. Tôi nhấn mạnh thuyết thực nghiệm giả tưởng (thought experiments) có tính rằng đây không phải là đưa vào một môn học mới, mà chỉ là cách thách thức và thú vị, chẳng hạn như nghịch lí cặp song cập nhật hoá chương trình đã có sẵn mà thôi. Tôi rất vui mừng sinh (twin paradox), sự nở dài của thời gian (time dilation), khi thấy các trường đại học Phật giáo đã thường xuyên tổ chức hoặc sự co rút (contraction) của vật thể ở vận tốc cao. Đa số những buổi học thêm về vật lí hiện đại, do các giáo sư vật lí và những lí thuyết này ngày nay đã được chứng minh bằng thí các sinh viên cuối ban tiến sĩ của các đại học ở Tây phương tổ nghiệm cụ thể. Nghịch lí cặp song sinh nói rằng nếu một trong chức. Tôi hy vọng rằng những nỗ lực bước đầu này sẽ dần dần hai người sinh đôi bay vào không gian trên một chiếc phi tiến đến việc đưa môn vật lí hiện đại vào chương trình triết học thuyền với vận tốc bằng vận tốc của ánh sáng đến một hành của các thiền viện Tây Tạng. tinh cách xa trái đất 20 năm ánh sáng rồi bay về lại trái đất, thì sẽ thấy người anh/em sinh đôi của mình già hơn mình 20 tuổi. TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 67 68 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ Điều này khiến tôi liên tưởng đến câu chuyện của Ngài Vô (Sautrāntika) đã phản bác ý niệm cho rằng thời gian là tuyệt Trước33 (Asaṅga) được bay đến cõi trời Đâu Suất34, ở đó Vô đối. Họ vẽ thời gian trên một cái trục quá khứ, hiện tại, và vị Trước được học năm bản kinh Di Lặc, một trong những bộ lai, và chứng minh mối quan hệ hỗ tương của ba thời và lập kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa, chỉ trong khoảng thời luận rằng ý tưởng về sự có mặt biệt lập của ba thời này là gian uống xong một li trà. Nhưng khi ông trở về trái đất, thì không bền vững và không có cơ sở. Họ cho thấy rằng thời gian mọi người đã già đi 50 tuổi. không phải là một thực thể tự thân tồn tại độc lập với những Để có thể hoàn toàn thưởng thức ý nghĩa của nghịch lí cặp hiện tượng thời gian mà là một tập hợp những liên hệ giữa các song sinh, ta phải nắm được hàng loạt những phương trình hiện tượng xảy ra. Ngoài những hiện tượng xảy ra trong dòng phức tạp, mà tôi e rằng đều nằm ngoài khả năng của tôi. Theo thời gian mà ta dựa vào để lập ra ý niệm về thời gian, không hề tôi hiểu thì, ý nghĩa quan trọng nhất của thuyết tương đối của có một “cái thùng” mà trong đó mọi sự vật và sự kiện xảy ra; Einstein là không gian, thời gian, và trọng lượng (mass) không không hề có bất cứ một cái gì tuyệt đối và tự nó tồn tại. thể là những thực thể tuyệt đối, hiện hữu bởi tự ngã, thường Khái niệm về tính tương đối của thời gian, sau đó được hằng, bất biến. Không gian không phải là một phạm trù độc lập Long Thọ phát triển thêm, phần nhiều mang tính cách triết học, có ba chiều, và thời gian không phải là một thực thể riêng biệt, nhưng đã được duy trì trong triết học Phật giáo từ gần hai ngàn mà không gian và thời gian hiển lộ đồng thời với nhau trong năm nay. Mặc dầu tôi nghe nói là một số nhà khoa học xem một liên-tục-thể bốn chiều của không gian và thời gian (four liên tục thể không gian - thời gian bốn chiều của Einstein như dimentional continuum of “space-time”). Tóm lại, thuyết tương một “cái thùng” tự nó tồn tại, trong đó các sự kiện xảy ra… đối cho thấy mặc dầu vận tốc ánh sáng là thường hằng, không nhưng đối với một nhà tư tưởng Phật giáo quen thuộc với tư thay đổi, không có một hệ qui chiếu đặc cách tuyệt đối tưởng của Long Thọ, sự chứng minh của Einstein về thuyết (absolute priviledged frame of reference), và tất cả, trong đó có tương đối của thời gian, nhất là qua những thí nghiệm tưởng không gian và thời gian, tối hậu đều tương đối mà thôi. Đây tượng của ông, rất có ích trong việc đào sâu thêm sự hiểu biết thực sự là một khám phá phi thường. về tánh tương đối của thời gian. Trong triết học Phật giáo, ý niệm “thời gian là tương đối” Thú thực thì, tôi chưa nắm bắt được hết lí thuyết lượng tử, không phải là xa lạ. Trước thế kỉ thứ II, phái Kinh lượng bộ35 mặc dầu tôi đã cố gắng rất nhiều! Tôi được biết rằng một trong những nhà vật lí lượng tử nổi tiếng, Richard Feynman, đã nói câu này: “Tôi nghĩ tôi có thể phát biểu một cách chắc chắn 33 Vô Trước: 無著, Asaṅga, một trong những đại luận sư của Phật giáo Ấn  rằng không ai có thể hiểu hết cơ học lượng tử”, vì thế tôi cảm Độ sống vào thế kỉ thứ IV, người sáng lập Duy Thức Tông 唯識宗  thấy còn có người đồng hành. Nhưng ngay cả với những người (Vijñānavādin). Tương truyền sư được Bồ tát Di Lặc trực tiếp giáo hoá.  34 Đâu  Suất  兜率  (Tuṣita,  Maitreya’s  Heavenli  Realm):  dịch  nghĩa  là  Hỷ  dở toán như tôi (toán học là một lãnh vực của khoa học hiện Túc 喜足 (vui vẻ và no đủ). Là cung trời thuộc cõi Dục Giới, trú xứ của Bồ  đại mà tôi chẳng có chút duyên nghiệp gì với!), có một sự thật tát Di Lặc 彌勒.  rõ ràng là chúng ta không thể xem những hạt dưới nguyên tử 35 Kinh Lượng bộ 經量部 (Sautrāntika) là một nhánh của Tiểu Thừa 小乘  như những thực thể xác định, biệt lập, hay loại trừ lẫn nhau (Hīnayāna)  xuất  phát  từ    Thuyết  Nhất  Thiết  Hữu  bộ  說一切有部  (mutually exclusive). Thành phần cấu tạo cơ bản của vật chất (Sarvāstivādin) khoảng 150 năm trước Công nguyên.   TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 69 70 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ và của ánh sáng (các photons) có thể biểu hiện dưới dạng sóng, “Copenhagen” về cơ học lượng tử 36, trong khi David Bohm là hay hạt, hay cả hai. (George Thompson, người được giải một trong những người chỉ trích kịch liệt trường phái đó. thưởng Nobel vì chứng minh được điện tử là sóng, chính là con Thú thật, tôi vẫn chưa hiểu rõ hoàn toàn ý nghĩa triết học và trai của J. J. Thompson, người cũng được giải thưởng Nobel vì nhận thức của nghịch lí nhị nguyên giữa sóng và hạt này là gì. đã thấy được điện tử là hạt). Tôi nghe nói rằng các điện tử biểu Tôi sẵn sàng chấp nhận ý nghĩa triết học căn bản rằng ở tầng hiện dưới dạng hạt hay sóng tuỳ thuộc vào người xét nghiệm dưới nguyên tử, ý niệm về thực tại không thể tách rời khỏi hay vào những dụng cụ được người đó chọn để sử dụng trong công cụ được dùng để đo lường của người quan sát, vì thế việc quan sát. không thể nói rằng thực tại đó hoàn toàn khách quan. Tuy vậy, Mặc dầu đã được nghe nói đến tính mâu thuẫn này của ánh nghịch lí này dường như cũng hàm ý rằng ở tầng dưới nguyên sáng, mãi đến năm 1997, khi nhà vật lí học thực nghiệm Anton tử, hai trong những nguyên tắc luận lí quan trọng nhất là luật Zeilinger minh họa cho tôi thấy tận mắt, bằng những biểu hình tương phản (the law of contradiction), và luật bài trung chi tiết, tôi mới cảm thấy mình nắm bắt hẳn được vấn đề. (excluded middle law) dường như không tuân thủ, trừ phi Anton chỉ cho tôi thấy rằng chính sự thí nghiệm khiến cho một người ta cho những điện tử này một trí tuệ nào đó. Theo kinh điện tử sẽ hành xử như là hạt hay là sóng. Qua cuộc thí nghiệm nghiệm thường tình, ta nghĩ rằng đã là sóng thì không thể là nổi tiếng hai khe hở (double-slit), các điện tử được bắn từng cái hạt, song ở tầng lượng tử, ánh sáng có vẻ như mâu thuẫn vì nó vào một tấm chắn có hai khe hở và in dấu lên một tấm phim hành xử như cả hai. Tương tự, trong thí nghiệm hai khe hở, các chụp ảnh đằng sau tấm chắn. Nếu chỉ có một khe hở mở ra, thì quang tử đi qua hai khe hở cùng lúc, do đó không tuân theo các điện tử in lên tấm phim dưới dạng hạt. Nhưng nếu cả hai luật bài trung, vì theo luật này thì chúng chỉ có thể đi qua một khe đều mở, và rất nhiều điện tử được bắn vào, thì hình ảnh in trong hai khe hở. trên tấm phim cho thấy rằng chúng đã đi qua cả hai khe hở đó Về ý nghĩa nhận thức của thí nghiệm hai khe hở, tôi nghĩ là dưới dạng sóng. vẫn còn nhiều điều cần tranh cãi. Nguyên lí bất định nổi tiếng Anton đem ra một công cụ khác để lặp lại thí nghiệm này của Heisenberg nói rằng nếu ta có thể đo được vị trí của một với mô hình nhỏ hơn, và tất cả chúng tôi đã theo dõi cuộc thí điện tử chính xác chừng nào thì xung lượng (momentum) của nghiệm đó một cách thích thú. Anton thiên về khuynh hướng nó càng bất định chừng đó, và ngược lại, nếu ta có thể đo được thực nghiệm của cơ học lượng tử, đặt để tất cả tri thức của ông xung lượng của điện tử chính xác chừng nào thì vị trí của nó về vấn đề này dựa trên những gì ông học được từ các thí càng bất định chừng đó. Ta có thể biết được ở một thời điểm nghiệm. Phương thức này trái ngược với cách tiếp cận của nhất định điện tử đó ở đâu, nhưng ta lại không biết nó đang David Bohm (ông này chủ yếu làm việc bằng lí thuyết và chú “làm gì”, hoặc ta biết được nó đang “làm gì”, nhưng lại không trọng đến ảnh hưởng triết học của cơ học lượng tử). Sau này, biết nó đang ở đâu. Điều này có nghĩa là người quan sát đóng tôi được biết là Anton là người thuộc trường phái vai trò then chốt: để biết được vị trí của một điện tử, ta phải bỏ qua xung lượng; để biết được xung lượng của nó, ta phải bỏ 36 Tức trường phái lượng tử (quantum) cổ điển của Niels Bohr (và  Heisenberg), thiên về thực nghiệm (nhưng cũng dùng toán học).  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 71 72 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ qua vị trí. Vì vậy, người quan sát có ảnh hưởng đến thực tại và bản thể của nhân sinh. Nói một cách ngắn gọn thì lí duyên được quan sát. Song, vấn đề vai trò của người quan sát là một sinh có thể hiểu theo ba cách: Thứ nhất, tất cả các pháp hữu vi câu hỏi nhức nhối của cơ học lượng tử. Thật vậy, trong cuộc (conditioned things and events) chỉ khởi sinh như là cái quả hội thảo Tâm thức và Cuộc sống năm 1997, các khoa học gia của sự tương tác giữa các nhân và các duyên. Chúng không thể đưa ra nhiều cái nhìn với nhiều sắc thái khác nhau. Một số cho tự nhiên mà có và hợp thành được. Thứ hai, có mối quan hệ rằng vai trò của người quan sát nằm trong giới hạn của công cụ phụ thuộc hai chiều giữa cái một và cái tất cả; không có cái được sử dụng cho việc quan sát, trong khi đó một số khác cho một, thì không thể có cái tất cả, không có cái tất cả thì không rằng người quan sát đóng vai trò quyết định đối với thực tại có lí do gì lại có cái một. Mối quan hệ hỗ tương giữa cái một đang được quan sát. và cái tất cả này áp dụng cho cả không gian và thời gian. Thứ Vấn đề này đã được thảo luận trong Phật giáo từ lâu lắm. ba, bất cứ một cái gì hiện hữu và có lí lịch riêng chỉ có thể tồn Một đằng là những người Phật tử có óc “thực tế”, tin tưởng tại trong một mạng lưới của tất cả các sự vật có thể có hoặc rằng thế giới vật chất được cấu thành bởi những thành phần bất tiềm ẩn một mối quan hệ tương duyên và tương tác với nó. khả phân và tồn tại khách quan, độc lập với tâm thức. Một Không có một pháp (hiện tượng) nào có thể tồn tại riêng biệt đằng thì là những người Phật tử “lí tưởng”, cái gọi là phái “duy và có lí lịch nội tại. thức”, phản đối bất kì một ý niệm nào về một thực tại khách Thế giới là do một mạng lưới của những liên hệ qua lại quan của thế giới bên ngoài. Họ cho rằng thế giới vật chất bên phức tạp cấu thành. Ta không thể nói đến thực tính của một vật ngoài, nói cho cùng, chỉ là sự phản quang của tâm thức đang thể cách biệt nào ở ngoài phạm vi của những liên hệ qua lại của quan sát. Tuy vậy, có một trường phái thứ ba, đó là tông phái nó với môi trường xung quanh, với các hiện tượng khác, trong Qui Mậu Luận Chứng (Prāsaṅgika), một tông phái có uy tín đó có ngôn ngữ, ý niệm, và những qui ước khác. Vì vậy, không nhất trong truyền thống Tây Tạng. Trường phái này, mặc dầu thể có chủ thể nếu không có cái khách thể xác định chủ thể ấy, không phản đối một thực tại của thế giới bên ngoài, cho rằng cũng không có khách thể nếu không có chủ thể để cảm nhận, thực tại ấy phải được hiểu là nó có tính cách tương đối; nó tuỳ không có người làm nếu không có việc đã làm. Không có cái thuộc vào ngôn ngữ mà ta sử dụng, các qui ước xã hội, và ghế nếu không có chân ghế, cái mặt ghế, cái lưng ghế, gỗ, đinh, những ý niệm chung. Quan niệm về một thực tại có sẵn, độc cái sàn nhà mà cái ghế đang ở trên, cái bức tường tạo nên cái lập với người quan sát, là không bền vững. Như trong vật lí học căn phòng mà cái ghế đang được đặt trong đó, người thợ mộc hiện đại cho thấy, vật chất không thể được nhận thức hay mô tả làm ra chiếc ghế, và cuối cùng, cái người gọi nó là “cái ghế” và mà không có người quan sát — vật chất và tinh thần phụ thuộc nhận ra nó là cái mà anh ta có thể dùng để ngồi lên. Không lẫn nhau. những là sự hiện hữu của vạn vật hoàn toàn tuỳ thuộc lẫn nhau Sự nhận biết về tánh phụ-thuộc-mà-phát-sinh của thực tại mà mặt mũi đích thực của nó còn phụ thuộc vào những vật thể này, cái mà trong Phật giáo gọi là lí duyên sinh37 (dependent khác và những điều kiện khác nữa. origination), chính là cốt tuỷ của tư tưởng Phật giáo về thế giới Trong vật lí học, nghịch lí EPR làm nổi bật thêm tính hỗ tương sâu sắc giữa vạn vật. EPR là chữ viết tắt tên của ba tác giả của nó: Albert Einstein, Boris Podolsky, và Nathan Rosen, 37 Do thập nhị nhân duyên mà thành  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 73 74 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ lúc đầu được ba nhà khoa học này lập ra để thánh thức ngành Một vấn đề khác của vật lí học nguyên tử là vấn đề đo cơ học lượng tử. Giả sử có một cặp hạt được tạo ra, và bị tách lường. Tôi được biết là có cả một cuộc nghiên cứu dành riêng rời, hai hạt chuyển động theo hai hướng đối nghịch nhau, với cho đề tài này. Đa số các khoa học gia cho rằng hành động cân một khoảng cách thực là xa, chẳng hạn từ Dharamsala (nơi tôi đong đo đếm gây ra sự “sụp đổ” các chức năng của sóng hoặc ở) đến New York. Một trong những tính chất của cặp hạt này là của hạt, tuỳ theo công cụ được dùng để đo lường. Chỉ có lúc đo chúng phải xoay theo hai hướng đối nghịch nhau: nếu cái này lường thì cái khả năng đó mới trở thành sự thật. Nhưng điều “đi lên”, thì cái kia “đi xuống”. Theo vật lí học lượng tử, sự chúng ta phải đối mặt là những sự vật và sự kiện diễn ra trong tương quan giữa kết quả đo lường (xuống hay lên) phải hiện cuộc sống hằng ngày. Vậy thì, vấn đề là: làm sao, đứng trên cái hữu mặc dầu thuộc tính của từng cái một chưa được xác định nhìn của vật lí học, ta có thể hoà hợp những ý niệm thường tình cho đến khi người thí nghiệm đo lường kết quả của một hạt, của ta đối với những sự vật mà ta tiếp xúc và thấy hằng ngày chẳng hạn như cái hạt ở New York. Lúc đó, hạt ở New York sẽ với thế giới kì dị của cơ học lượng tử? Hai thái cực này có thể có một kết quả, thí dụ như là “đi lên”, thì cái kia cũng phải dung hoà được không? Không lẽ ta bắt buộc phải có một cái đồng thời “đi xuống”. Sự xác định kết quả lên/xuống này là tức nhìn “tâm thần phân liệt” (schizophrenic) về thế giới? thì, ngay cả đối với cái ở Dharamasala, mặc dầu nó chưa được Trong hai ngày tu học ở Innsbruck về tri thức luận đo lường. Tuy bị tách rời, hai hạt này hành xử như là một khối (epistemology) liên quan đến nền tảng của cơ học lượng tử và đồng nhất. Dường như có một sự tương tức đáng kinh ngạc và tư tưởng Trung Luận của Phật giáo, Anton Zillinger, Arthur sâu sắc nơi linh hồn của vật lí lượng tử! Zajonc và tôi đã có một cuộc đối thoại nho nhỏ. Anton cho hay Có lần, trong một buổi nói chuyện trước công chúng ở Đức, rằng một đồng nghiệp được nhiều người biết đến của ông từng tôi đã gây được sự chú ý của nhiều khoa học gia thực thụ khi nói rằng phần lớn các nhà vật lí lượng tử như là bị “tâm thần tôi nói đến tuệ giác sâu sắc về thế giới quanh ta của truyền phân liệt” trong nghề nghiệp chuyên môn của mình: Khi họ ở thống thiền quán. Tôi nói về điểm gặp gỡ giữa truyền thống trong phòng thí nghiệm, họ là những nhà khoa học hiện thực; Phật giáo Tây Tạng và khoa học hiện đại, nhất là về tư tưởng họ nói về các quang tử và điện tử ở chỗ này, ở chỗ kia… của Phật giáo cho rằng thời gian là tương đối và sự phản đối Nhưng, hễ khi có ai bàn tới triết học và hỏi họ về nền tảng của một ý niệm rằng vạn vật có tự tánh riêng biệt. Lúc đó, tôi để ý cơ học lượng tử, họ lại nói là không có cái gì thực có hết nếu thấy sự có mặt của Weizsäcker trong thính chúng, và tôi đã thú không có công cụ đo lường! thật với ông về sự hiểu biết ít ỏi của tôi về vật lí lượng tử, ông Trong Phật học, cũng có vấn đề tương tự như thế về sự đã lịch thiệp đáp lời rằng nếu thầy của ông, Werner khác biệt giữa nhận thức thường tình của ta về thế giới và triết Heisenberg, cũng có mặt, thì sẽ rất thích thú được nghe về thuyết về tánh không của Ngài Long Thọ. Ngài Long Thọ đưa những điểm tương đồng giữa triết học Phật giáo và hiểu biết ra hai khái niệm về sự thật, gọi là tục đế39 (conventional truth), khoa học của ông38. để chỉ những kinh nghiệm thường tình của ta, và chân đế40 (ultimate truth), để chỉ cái chân tướng tối hậu của vạn vật, ở 39 Tục đế: 俗諦, saṃvṛti­satya, chân lí tương đối, tích môn.  38 Tức Heisenberg  40 Chân đế: 眞諦, paramārtha­satya, chân lí tuyệt đối, bản môn.  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 75 76 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ tầng không tánh. Đứng trên phương diện tục đế, ta có thể nói Đến đây, tôi thấy ta cần suy gẫm về nghị luận của Ngài đến thế giới đa nguyên với tự tánh riêng biệt của vạn vật và Nguyệt Xứng 42 (Candrakīrti), sống vào thế kỉ thứ VII, liên quan hệ nhân quả. Đây là điạ hạt mà luật nhân quả, và các luật quan đến sự phân biệt rạch ròi giữa tục đế và chân đế. Ngài logic như là luật nhất như (principles of identity), luật tương Nguyệt Xứng cho rằng, khi tạo nên tri kiến của ta về thực tại, phản (law of contradiction) và luật bài trung (excluded middle ta phải nhận diện sự vi tế của phạm vi giới hạn và đặc điểm của law) tuân thủ theo một trật tự nhất định. Thế giới thực nghiệm vấn đề được đặt ra. Chẳng hạn, ông nói, nếu ta phủ nhận ý này không phải là huyễn ảo, không phải là không thực. Nó thực niệm về cái tôi, về một cái lí lịch riêng rẽ, về luật nhân quả và vì ta cảm nhận được nó: Nếu ta gieo xuống một hạt lúa, nó sẽ lí duyên sinh trong thế giới thường ngày [đứng về phương diện nảy mầm, và sau đó thành cây lúa và cho ta hạt lúa. Nếu ta tục đế], như một số người theo triết lí tánh không chủ trương, uống thuốc độc, ta sẽ chết, và uống thuốc tốt thì có thể sẽ khỏi chỉ vì những khái niệm này không bền vững trên bình diện bệnh. Tuy nhiên, đứng trên bình diện chân đế, vạn vật không chân đế, thì nghĩa là ta đã phạm một sai lầm về mặt phương có tự tánh riêng rẽ, biệt lập. Cái bản thể tánh tối hậu của vạn pháp luận. vật là “rỗng không”, vì chúng không có tự tánh, không có một Đứng trên bình diện tục đế, ta thấy nhân và quả khắp mọi thực thể nội tại. nơi. Khi ta muốn điều tra xem ai là người có lỗi trong một vụ Tôi có thể hình dung nguyên lí nhị đế 41 này trong vật lí tai nạn, chẳng hạn, ta sẽ không hơi đâu đi tìm hiểu sự thâm sâu học. Chẳng hạn, ta có thể xem mô hình của Newton là một thí vi diệu về bản chất tối hậu của thực tại, vì hàng chuỗi sự kiện dụ điển hình của kinh nghiệm thường tình (tục đế), và thuyết xảy ra dồn dập khiến ta không cách nào lần ra được nguyên tương đối của Einstein — dựa trên một giả thuyết hoàn toàn nhân. Khi ta ghi nhận tính chất của nhân và quả trong thế giới khác từ căn bản — cho thấy thêm một mô hình tuyệt vời trên thường tình, ta không thể dùng những sự phân tích trừu tượng, một bình diện khác và bao quát hơn. Mô hình của Einstein mô siêu hình để đi tìm cái “chân bản thể” của vạn vật và những tả những khiá cạnh của thực tại trong đó sự chuyển động tương thuộc tính của chúng, mà ta sẽ dùng những qui ước, ngôn ngữ, đối đóng vai trò chính yếu, nhưng trên thực tế thì nó không ảnh và logic của thế giới thường tình. Ngược lại, Ngài Nguyệt hưởng đến cái nhìn thường tình của ta trong phần lớn trường Xứng lập luận, ta có thể sử dụng những phân tích về chân bản hợp. Tương tự như vậy, mô hình vật lí lượng tử phơi bày thực thể của vạn vật để phủ nhận những định đề siêu hình của một tại trên một bình diện khác, một thực tại của các vi hạt có tính số môn phái triết học, như là ý niệm về Đấng Tạo Hoá, hay cách suy định (inferred), nhất là trên bình diện vi mô. Những linh hồn vĩnh cữu, bởi vì những ý niệm này được đặt ra dựa bức tranh mà những mô hình này vẽ ra đều rất hay, đều thích trên nền tảng của một sự suy luận về bản chất tối hậu của vạn hợp với mục tiêu đặt ra, nhưng nếu ta tin tưởng rằng những mô vật. hình này được làm bằng những thực thể có tự tánh, thì ta sẽ chỉ Trên cơ bản, hai Ngài Long Thọ và Nguyệt Xứng nói thế có thất vọng mà thôi. này: khi ta chỉ nói đến thế giới kinh nghiệm [tức trên phương 42 Nguyệt Xứng: 月稱, Candrakīrti, sống vào thế kỉ thứ VII, được xem là  luận sư lỗi lạc nhất thuộc phái Trung Luận 中論, sau Long Thọ  41 Nhị đế: 二 諦, satyadvaya, gồm tục đế và chân đế.  (Nāgārjuna).  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, VẬT LÍ LƯỢNG TỬ 77 78 VŨ TRỤ NẰM TRONG MỘT NGUYÊN TỬ diện tục đế], miễn là ta không gán cho vạn vật một sự tồn tại ngành vật lí học cổ điển và vật lí học hiện đại, tức cơ học lượng biệt lập trên cơ sở tự tánh, thì những khái niệm về duyên sinh, tử, cũng như đối với các sự vật và sự kiện diễn ra trong cuộc ngã (cái tôi), phân biệt, và luận lí vẫn luôn đứng vững. Nhưng sống hằng ngày. Còn cái khái niệm nhị đế trong vật lí học, mặt giá trị của những nguyên lí này bị giới hạn trong khuôn khổ mũi của nó ra sao, tôi thực tình không biết. Gốc rễ của vấn đề tương đối của tục đế. Nếu ta gán những ý niệm như ngã, hiện triết học do tiếng chuông của cơ học lượng tử gióng lên, làm hữu, và duyên sinh cho những thực thể hiện hữu khách quan, thức tỉnh điạ hạt vật lí học nói chung, là: liệu cái ý niệm về biệt lập, thì ta đã vượt quá giới hạn của logic, ngôn ngữ, và qui thực tại, được xác định bởi một tập hợp của thực thể có tự tánh, ước. Ta không cần phải chứng minh sự tồn tại khách quan biệt có đứng vững được hay không? Triết học về tánh không của lập của vạn vật, bởi vì ta có thể gán cho các sự vật và sự kiện Phật giáo đã mang lại cho con người một mô hình chặt chẽ để không những được sử dụng hằng ngày mà còn hàm chứa một lãnh hội thực tại: mô hình phi thể tánh 43 (non-essentialist căn bản vững chắc về đạo đức và đời sống tâm linh một thực model). Còn điều này đem lại những lợi lạc gì, thì chỉ có thời tính vững chắc, không vô cứ (non-arbitrary). Thế giới, theo gian mới trả lời được. triết lí của tánh không, được cấu thành bởi một mạng lưới của những hiện tượng tương duyên và tương tác, trong đó những cái nhân duyên sinh tạo ra những cái quả duyên sinh theo những định luật nhân-quả duyên sinh, vì thế những gì chúng ta nghĩ và làm trong cuộc sống hằng ngày của riêng ta có ảnh hưởng vô cùng lớn lao đến tất cả mọi người và vật xung quanh ta, mà ta không thể tách rời khỏi. Tri thức giới hạn của con người đang được đặt trước một thử thách gay go, sau khi nền triết học Phật giáo và vật lí hiện đại phơi bày tính mâu thuẫn của thực tại. Cốt lõi của vấn đề nằm ở bình diện tri thức luận: làm thế nào ta có thể nhận thức và lãnh hội thực tại một cách mạch lạc, chặt chẽ? Các triết gia Phật giáo về tánh không không những đã xây dựng cả một nền tảng của sự hiểu biết về thế giới bằng cách từ bỏ cách nhìn vạn vật như là những thực thể có tự tánh và khách quan — một sự cám dỗ có thâm căn cố đế — mà họ còn đem tuệ giác của mình vào trong từng giây phút của cuộc sống thường ngày. Giải pháp của Phật giáo đối với vấn đề có vẻ như là thuộc về tri thức luận đó dựa trên khái niệm nhị đế [tục đế và chân đế]. Vật lí học cũng cần phải đề ra một tri thức luận nhằm nối một nhịp cầu chung cho sự khác biệt trong cái nhìn về thực tại giữa hai 43 Tức không có tự tánh riêng biệt.  TRẦN UYÊN THI DỊCH DALAI LAMA XIV
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net