logo

Thực trạng và giải pháp cổ phần hoá các NHTM nhà nước Việt Nam

Trong xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang từng bước thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập với khu vực và Thế giới. Trong quá trình hòa với xu hướng phát triển chung của nhân loại ấy, tự do hoá tài chính như là một yêu cầu không thể thiếu, một giải pháp quan trọng tạo ra những bước tiến lớn cho hội nhập và phát triển. Trước yêu cầu tự do hoá tài chính đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương......
1 LUÂN VĂN TỐT NGHIỆP ̣ Đề tài : Thực trạng và giải pháp cổ phần hoá các NHTM nhà nước Việt Nam MỤC LỤC 2 Mở đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang từng bước thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập với khu vực và Th ế giới. Trong quá trình hòa với xu hướng phát triển chung của nhân loại ấy, tự do hoá tài chính như là một yêu cầu không thể thiếu, m ột giải pháp quan trọng tạo ra những bước tiến lớn cho hội nhập và phát triển. Trước yêu cầu tự do hoá tài chính đang diễn ra ngày càng m ạnh m ẽ, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương trong đổi mới để nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam vốn còn tồn tại nhiều hạn chế. Đặc biệt, sau khi Ngh ị quy ết TW 9 khoá IX của Đảng về cổ phần hoá DNNN trong đó có các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Ngân hàng và chỉ thị số 11/2004/CT-TTG về đổi mới DNNN, chỉ định hai Ngân hàng : Ngân hàng Ngoại th ương và Ngân hàng Đồng Bằng Sông Cửu Long là hai Ngân hàng sẽ cổ phần hoá được ban ra thì việc cổ phần hoá NHTM Nhà nước trở thành một vấn đề mới mẻ, được sự quan tâm chú ý hàng đầu của nhiều thành ph ần trong và ngoài nước. Cho đến nay, việc cổ phần hoá NHTM Nhà nước đã có nh ững kh ởi đầu và đang được tích cực triển khai.Tuy nhiên nh ững gì đã đ ạt đ ược v ẫn được đánh giá là chậm so với kế hoạch. Và thực tế, quá trình th ực hi ện vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc. Bởi vậy, việc tìm ra các giải pháp đ ể thúc đẩy quá trình cổ phần hoá NHTM Nhà nước là cần thiết đối với các NHTM Nhà nước nói riêng và đối với nền kinh tế nước ta nói chung. Đây chính là lý do em chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp cổ phần hoá NHTM 3 Nhà nước Việt Nam với mong muốn được tìm hiểu thêm và đóng góp một vài ý kiến nhỏ đối với sự kiện kinh tế đầy tính thời sự này. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng hệ th ống các quan đi ểm và luận cứ khoa học cho việc cổ phần hoá NHTM Nhà nước từ đó đề ra các giải pháp cần thiết để thúc đẩy quá trình cổ ph ần hoá theo đúng ti ến độ. 3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu Đề tài chọn cổ phần hoá các NHTM Nhà nước Việt Nam làm đ ối tượng nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp thống kê, tổng hợp, đối chiếu, so sánh dựa trên cơ sở ph ương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử nhằm làm sáng tỏ th ực trạng và th ể hiện quan điểm cá nhân 4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài góp phần chứng minh sự cần thiết cổ phần hoá NHTM Nhà nước ở Việt Nam và khẳng định sự đúng đắn trong đường lối của Đảng và Nhà nước khi chọn con đường cổ phần hoá. Từ việc phân tích thực t ế c ổ phần hoá NHTM Nhà nước đang diễn ra ở Việt Nam diễn biến, thuận lợi và khó khăn đề tài đưa ra các giải pháp cần thiết cho việc giải quyết những vướng mắc hiện tại để thực hiện tiến hành cổ phần hoá NHTM Nhà nước . 5. Kết cấu của đề tài Với những nội dung trên ngoài phần mở đầu và phần kết thúc, kết cấu của đề tài gồm 3 chương : Chương I : Cổ phần hoá NHTM Nhà nước Chương II : Thực trạng cổ phần hoá NHTM Nhà nước ở Việt Nam Chương III : Giải pháp cần thiết đối với cổ phần hoá NHTM Nhà nước Việt Nam. 4 5 Chương I Tổng quan về cổ phần hóa NHTM nhà nước 1.1 Ngân hàng thương mại Nhà nước và vai trò của nó đối với nền kinh tế. 1.1.1 Khái niệm Hiện nay, hệ thống NHTM quốc doanh gồm 5 Ngân hàng : Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng nhà đồng bằng sông Cửu Long. Trong quá trình hình thành và phát tri ển c ủa h ệ th ống NHTM Việt Nam các NHTM quốc doanh luôn ở vị trí đi đầu, đóng vai trò quyết định . Xuất phát từ chức năng của Ngân hàng có thể định nghĩa: Ngân hàng là một loại định chế tài chính mà hoạt động th ường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. NHTM là loại hình Ngân hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu. Từ đó, NHTM Nhà nước là NHTM do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh, góp ph ần th ực hi ện các m ục tiêu kinh tế, xã hội của Nhà nước. Hoạt động của NHTM Nhà nước chịu sự điều chỉnh của luật DN, luật DNNN, luật các tổ chức tín dụng. Các NHTM Nhà nước chính là các DNNN quy mô lớn về vốn, về lao động, hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có giá trị gia tăng cao. Và không giống những loại hình doanh nghiệp khác, sản ph ẩm của Ngân hàng chủ yếu là tiền, một loại hàng hoá đặc biệt, đối tượng giao dịch là c ộng đồng rộng lớn nên sự an toàn của hệ thống Ngân hàng được đặt lên hàng đầu. 6 Hoạt động chính của NHTM nhà nước bao gồm có: Nghiệp vụ tài sản nợ : Phản ánh hoạt động tạo lập nguồn vốn của Ngân hàng. Nguồn vốn này bắt nguồn từ huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội : Vốn tiền gửi như nhận tiền gửi không kì hạn, nhận ti ền g ửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm, vốn đi vay như phát hành kì phiếu, ch ứng ch ỉ ti ền gửi, vay của NHNN, các Ngân hàng và tổ chức tài chính khác…Vốn tự có gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm bổ sung vào vốn tự có, và vốn coi như tự có (lợi nhuận chưa chia,các quỹ khác chưa sử dụng) Nghiệp vụ tài sản có: Phản ánh hoạt động sử dụng vốn c ủa NHTM.Đặc điểm của hoạt động này là phải an toàn và sinh l ời. Nó là các hoạt động cho vay: chiết khấu thương phiếu, cho vay ứng trước, factoring… Hoạt động đầu tư, dự trữ ngân quỹ Ngoài ra, hệ thống NHTM đang ngày càng mở rộng khả năng kinh doanh của mình bằng cách cung cấp các dịch vụ tiện ích cho khách hàng. 1.1.2 Vai trò của Ngân hàng thương mại Nhà nước Vì là NHTM do Nhà nước sở hữu nên cũng như các DNNN, các NHTM Nhà nước cũng là công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng kinh tế và chức năng xã hội của mình. Bởi vậy, bên c ạnh các ch ức năng v ốn có của một NHTM như chức năng làm thủ quỹ xã hội, chức năng trung gian thanh toán, chức năng trung gian tín dụng và chức năng tạo tiền, NHTM nhà nước còn có những chức năng, vai trò quan trọng khác, khẳng định vị th ế chủ đạo và những đóng góp lớn lao của nó đối với nền kinh tế. Thứ nhất, NHTM Nhà nước là công cụ trực tiếp chủ y ếu để th ực hiện chính sách tiền tệ của NHNN. Để thực hiện chính sách ti ền t ệ, NHNN phải sử dụng các công cụ để điều tiết lượng tiền trong lưu thông, nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ cuả chính sách tiền t ệ ch ỉ đ ược th ực 7 thi có kết quả với sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của các NHTM mà chủ yếu là các NHTM Nhà nước với ưu thế hơn hẳn về thị phần, uy tín. Khi NHNN muốn thực hiện chính sách tiền tệ sẽ phát tín hi ệu tới các NHTM bằng các công cụ như dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu,… Theo đó các Ngân hàng sẽ thay đổi chính sách hoạt động cho phù h ợp mà đi đầu là các NHTM Nhà nước, sau đó sẽ chuyển tiếp tới toàn h ệ th ống Ngân hàng. Cũng thông qua NHTM Nhà nước, NHNN phát hành thêm ti ền vào lưu thông, thực hiện các chính sách tín dụng, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất của Ngân hàng để điều tiết các hoạt động của n ền kinh t ế.Vì v ậy, hoạt động của NHTM Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến s ự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế. Thứ hai, NHTM Nhà nước cung ứng vốn cho các dự án đầu tư đặc biệt là những dự án đầu tư cần vốn lớn, dài hạn. Với ưu th ế, uy tín h ơn hẳn các tổ chức tài chính khác như mạng lưới chi nhánh rộng, vốn l ớn, không bị hạn chế giấy phép hoạt động, thị phần huy động vốn c ủa NHTM Nhà nước luôn chiếm hơn 70% tổng nguồn vốn huy động. Vì nguồn vốn huy động lớn như thế, các NHTM Nhà nước là đơn vị có khả năng lớn nhất trong việc cung ứng vốn cho dự án lớn, cho những công trình phúc lợi lớn của Nhà nước như xây dựng các nhà máy, các chung cư, cầu đường…góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ ba, thông qua các chi nhánh, mạng lưới rộng khắp của NHTM Nhà nước, Chính phủ có thể chuyển vốn đến nh ững vùng khó khăn, nh ững đối tượng chính sách đang cần vốn.Từ đó,tạo khả năng phát triển cho những vùng, những ngành không có điều kiện thuận lợi, không thu hút được đầu tư. Có như thế mới thực hiện được chủ trương đồng đều trong cả nước, xoá bỏ khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng, người giàu và người nghèo. 8 Ở Việt Nam, hoạt động của NHTM Nhà nước đã đem đến cho sự nghiệp xây dựng đất nước những thành công không thể phủ nhận. Những công trình giao thông, điện, những công trình trọng điểm quốc gia đ ược xây dựng từ phần lớn nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng đang làm thay đổi diện mạo đất nước từng ngày. Năm 2003, vốn đầu tư Nhà n ước, trong đó phần lớn là tín dụng của NHTM Nhà nước, chiếm tới 56,5% t ổng s ố vốn đầu tư toàn xã hội. Không chỉ cấp tín dụng, các Ngân hàng còn tích cực trong các chương trình xoá đói giảm nghèo của Nhà nước. Đi ển hình là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.Tại nhiều vùng nông thôn, miền núi còn nghèo nàn khó khăn, các cán bộ tín dụng đ ến c ấp v ốn và hướng dẫn nông dân làm giàu, thúc đẩy phát triển kinh tế ở các địa phương.Các chương trình cho vay trả chậm nhà ở vùng ngập lũ ở đ ồng bằng sông Cửu Long, cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường, cho vay giải quyết việc làm học sinh, sinh viên…được thực hiện. Đó là nh ững ho ạt động vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rộng rãi. Theo quy ết đ ịnh số 131/2002/QĐ-TTG ngày 04/10/2002, Ngân hàng chính sách xã hội đã được thành lập để thực hiện vai trò xã hội của nó là cho vay chính sách, tạo điều kiện để các NHTM Nhà nước chú trọng vào hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, với hoạt động bản chất là cấp tín d ụng trong đi ều ki ện n ền kinh tế nước ta con chưa phát triển ,các NHTM Nhà nước vẫn có nh ững đóng góp nhất định đối với các chương trình xã hội như công tác xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trong vai trò là công cụ thực hiện chính sách tiền t ệ c ủa NHNN, các NHTM Nhà nước cũng đang hợp tác tích cực và có hiệu qu ả h ơn tr ước kia. Sự phối hợp chặt chẽ của các Ngân hàng đã nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô từ đó th ực hiện các m ục tiêu về tăng trưởng, lạm phát mà quốc hội đề ra . 1.2 Những vấn đề cơ bản về cổ phần hoá NHTM nhà nước 9 1.2.1 Khái niệm 1.2.1.1 Khái niệm chung Cổ phần hoá là khái niệm đã có từ hàng trăm năm nay.Có thể hi ểu đó là việc chuyển đổi một doanh nghiệp thành công ty cổ phần tức là những doanh nghiệp mà vốn điều lệ thuộc sở hữu của nhiều cổ đông, các cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân và không hạn chế số lượng tối đa. Trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần là một mô hình t ổ ch ức kinh tế phổ biến bởi tính ưu việt của nó so với một số mô hình doanh nghiệp khác, thể hiện ở hiệu quả hoạt động, sự năng động , khả năng tự điều ti ết, tăng vốn cao, mối liên hệ hữu cơ, bản ch ất với thị trường ch ứng khoán luôn chứa đựng yếu tố cạnh tranh, thúc đẩy để phát triển. Bởi vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp được coi là “ con đẻ “ của nền kinh tế thị trường, đem lại nhiều thành công lớn trong quá trình xây dựng và phát tri ển n ền kinh tế nhiều thành phần của nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, hình thức cổ phần hoá được áp dụng đối với các DNNN và được coi là lối ra phù hợp cho khu vực kinh tế nhà nước. Chủ trương c ổ phần hoá DNNN được đặt ra khi đất nước ta bước vào thời kì đổi mới theo Quyết định số 143/HĐ-BT ngày 15/10/1990 của hội đồng bộ trưởng và thực hiện thí điểm từ năm 1992 theo quyết định số 202/HĐ-BT ngày 8/6/1992. Theo luật DNNN, DNNN là doanh nghiệp do nhà nứơc sở h ữu toàn b ộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi ph ối. Như vậy nói đ ến c ổ ph ần hoá DNNN chính là nói đến việc biến các DNNN từ có một ch ủ s ở h ữu là Nhà nước thành các doanh ngiệp có nhiều chủ sở hữu, có nhiều cổ đông. Sở hữu đó có thể bao gồm cả pháp nhân, cả thể nhân,người nước ngoài hay người lao động. Việc hình thành DNNN ở mỗi nước trên thế giới là do điều kiện khách quan của từng nước chi phối và quyết định. ở Việt Nam , trong n ền 10 kinh tế kế hoạch hoá tập trung, DNNN là một công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý và điều hành vĩ mô, thực hiện chức năng kinh tế và xã hội. Cũng vì thế, thời kì này, DNNN được Nhà nước ưu đãi và có nh ững tr ợ giúp nhất định. Bước sang nền kinh tế thị trường, các DNNN ph ải ch ấp nhận hoà nhập vào thị trường cạnh tranh gay gắt với những biến động khôn lường. Những ưu đãi trong cơ chế cũ thường không được tính toán một cách chính xác, sự bao cấp của Nhà nước cũng có hạn với một số lượng DNNN quá lớn, khiến cho nhiều DNNN làm ăn thua l ỗ, ít hi ệu qu ả và trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Xuất phát t ừ th ực ti ễn đó, Đảng và Nhà nước đã đưa ra chủ trương đổi mới, sáp nhập, h ợp nh ất, gi ải thể và cổ phần hoá các DNNN . Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IX nêu rõ: “…Thực hiện chủ trương cổ phần hoá nh ững doang nghi ệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, t ạo đ ộng lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả…Thực hiện việc giao bán, khoán cho thuê, các doang nghiệp loại nh ỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [190] ”. Sau hơn mười ba năm thực hiện, cổ phần hoá DNNN đã đem lại những kết quả khả quan, cho they sự chuyển biến tích cực so với trước khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, thể hiện qua số liệu của một số doanh nghiệp được cổ phần hoá: Vốn điều lệ tăng 50%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 137%, nộp ngân sách tăng 45%, thu nhập người lao động tăng 63%. 1.2.1.2. Khái niệm cổ phần hoá NHTM nhà nước. Giống như cổ phần hoá DNNN, cổ phần hoá NHTM Nhà nước là quá trình chuyển hoá cơ cấu sở hữu tài sản và quyền chủ động điều hành hoạt động từ đơn sở hữu là Nhà nước sang đa sở hữu. Trong quá trình đó, 11 Nhà nước chuyển và góp toàn bộ “ Cơ nghiệp “ của NHTM Nhà nước trước khi cổ phần hoá vào một cấu trúc Ngân hàng mới với mục tiêu cần đạt được là quy mô vốn lớn hơn, công nghệ hiện đại h ơn, ph ương thức quản trị kinh doanh văn minh hơn, chất lượng sản phẩm được dự báo cao hơn, sức cạnh tranh mạnh hơn, lợi nhuận ròng hàng năm lớn hơn, tổng số thuế nộp cho ngân sách Nhà nước hàng năm nhiều hơn…và do đó danh tiếng thương hiệu của Ngân hàng mới được duy trì và phát triển ở đẳng cấp cao hơn. Như vậy đây chính là quá trình dịch chuyển các nhân tố cũ, đồng thời tạo sức hút các nhân tố mới trở thành một cấu trúc Ngân hàng mới để cùng khai thác các tiềm năng thị trường hiệu quả hơn. Tuy nhiên, mặc dù là một DNNN nhưng về bản chất NHTM Nhà nước là một DNNN đặc biệt vậy nên việc cổ phần hoá NHTM Nhà nước không thể hoàn toàn giống với cổ phần hoá DNNN.Việc phân bi ệt sự khác nhau này có vai trò quan trọng đối với việc đề ra các giải pháp phù h ợp v ới cổ phần hoá NHTM Nhà nước. Trước hết, sự khác nhau là vì giá trị tài sản của Ngân hàng r ất l ớn so với giá trị doanh nghiệp, lại mang nhiều tính chất riêng biệt nên việc đánh giá tài sản của Ngân hàng khi cổ phần hoá thường ph ức t ạp, khó khăn h ơn đánh giá tài sản doanh nghiêp. Sự riêng biệt đó thể hiện ở : Thứ nhất, phần lớn tài sản của Ngân hàng là các khoản tín dụng cho vay. Các tài sản này không giống tài sản thông th ường c ủa doanh nghi ệp vì nó phụ thuộc rất lớn vào mức độ rủi ro, khả năng thanh khoản, mức sinh lời dự tính. Để xác định được giá trị của chúng ph ải căn cứ vào các nhân t ố đó. Thứ hai, về phần tài sản bất động sản của ngân hàng, các TMNN đều có rất nhiều chi nhánh, trụ sở phân bố nhiều nơi trong c ả n ước. Thêm vào đó là các tài sản Ngân hàng thu được từ cầm cố, xi ết n ợ. So v ới doanh nghiệp, khối lượng tài sản bất động sản của Ngân hàng lớn h ơn r ất nhi ều 12 vì vậy việc đánh giá giá trị loại tài sản này của Ngân hàng ch ắc ch ắn s ẽ không đơn giản hơn trong doanh nghiệp. Thứ ba, về giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển, các NHTM Nhà nước đều ra đời, tồn tại và phát triển từ khá lâu, có uy tín lớn, hoạt động có hiệu quả với lượng khách hàng lớn là giá trị vô hình “khổng lồ” của các Ngân hàng. Sự khác nhau thứ hai , là hoạt động Ngân hàng là ho ạt đ ộng nh ạy cảm và có mối liên hệ mật thiết đôí với nền kinh tế. Bản thân các Ngân hàng cũng có sự phụ thuộc lớn lẫn nhau chứ không tách riêng như đối với các DNNN. Chỉ cần sự biến động trong một Ngân hàng cũng có th ể dẫn s ự xáo trộn trong hoạt động của cả hệ thống và của nền kinh tế. Lịch sử đã chứng minh rằng sự thất bại của 10.000 ngân hàng ở Mỹ vào giữa những năm 1930-1933 đã làm cho cuộc khủng hoảng trầm trọng hơn và dai dẳng hơn. Gần đây cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á cũng cho th ấy nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng không phảI do áp l ực tài tr ợ cho những thiếu hụt về ngân sách như cuộc khủng hoảng ở châu Mỹ La tinh mà chính là do những yếu kém của hệ thống ngân hàng. Điều này đòi hỏi cổ phần hoá NHTM nhà nước phải hận trọng hơn nhiều so với cổ ph ần hoá doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi cổ phần hoá NHTM Nhà nước phải thận trọng hơn nhiều so với cổ phần hoá doanh nghiệp. 1.2.2 Sự cần thiết phải cổ phần hoá NHTM nhà nước Với những vai trò chức năng của mình hệ thống ngân hàng đóng vai trò như mạch máu của nền kinh tế. Ngày nay sự vận động c ủa kinh t ế th ế giới là kinh tế hàng hoá với cơ chế thị trường không chỉ cạnh tranh trong nước mà cả quốc tế. Việc Việt Nam thực hiện đổi mới mở cửa đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, chuyển DNNN thành doanh nghiệp độc lập tự chủ trong đó bao gồm cả đổi mới cơ cấu hệ thống 13 NHTM Nhà nước Việt Nam. Trước yêu cầu đó cổ phần hoá được xem là biện pháp khả thi nhất được ví như một mô hình tối ưu, một ” sản ph ẩm văn minh” của nền kinh tế thị trường. Bởi vì cổ phần hoá sẽ giúp NHTM Nhà nước giải quyết được những vấn đề sau đây: Thứ nhất, tăng vốn tự có để đáp ứng yêu cầu về tăng trưởng và an toàn Về năng lực tài chính nói chung các NHTM nhà nước Việt Nam còn rất yếu so với nhu cầu thực tiễn. Thiếu vốn tự có đang là m ột v ấn đ ề b ức xúc đối với NHTM Nhà nước. Thực tế, trong số vốn tự có hiện nay của các ngân hàng thì trên 50% là vốn danh nghĩa, tức là đ ược hình thành t ừ trái phiếu đặc biệt của Chính phủ. Loại trái phiếu này ch ỉ bi ến thành v ốn m ỗi năm có 3% do cách trả lãi trái phiếu đặc biệt của bộ tài chính và ch ỉ là gi ải pháp tình thế. Để đạt được tỉ lệ an toàn vốn quốc tế tối thiểu là 8%, nh ư d ự ki ến đến năm 2010, các NHTM quốc doanh cần 117.000 tỷ đồng. Với tình trạng ngân sách Nhà nước như hiện nay (tổng thu ngân sách 150 nghìn tỷ đồng/ năm, lại phải phân bổ cho nhiều mục tiêu quan trọng khác), thì đây là con số nằm ngoài khả năng của ngân sách. Mặt khác, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần phảI có một lượng vốn lớn. Vì vậy NHTM nhà nước cần có đủ tiềm lực tài chính để cho vay đối với nền kinh tế. Bằng con đường cổ phần hoá, sau cổ phần hoá, các NHTM Nhà nước sẽ có khả năng huy động vốn từ dân cư, từ thị trường ch ứng khoán và nhà đầu tư nước ngoài, những chủ nhân mới có thể đáp ứng nhu cầu vốn của Ngân hàng. Như vậy, cổ phần hoá sẽ giúp ngân sách Nhà nước giảm bớt gánh nặng đồng thời tăng cường năng lực tài chính cho NHTM Nhà nước Thứ hai, bứt ra khỏi tín dụng theo chỉ định và rủi ro đạo đức. 14 Khu vực DNNN chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tín dụng của NHTM Nhà nước. Vấn đề đáng nói là mặc dù kinh doanh kém hiệu qu ả nhưng các DNNN lại được hưởng các đặc quyền như vay không th ế ch ấp, vay lãi suất thấp, được nhà nước bảo lãnh tiền vay… Năm 2003, tổng s ố nợ phải đòi của các DNNN khoảng 96.000 tỷ đồng trong nợ phải trả (chủ yếu là NHTM Nhà nước) gấp đôi số nợ phải đòi. Nhiều DNNN và c ơ quan chủ quản đề nghị chính phủ, Thủ tướng chính phủ can thiệp vào hoạt động tín dụng của NHTM quốc doanh như cho phép Ngân hàng cho vay v ượt 50% vốn tự có, đồng ý để Ngân hàng miễn thế chấp, xin giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ làm xấu đi quan hệ tín dụng thương mại. Cổ phần hoá s ẽ kéo NHTM Nhà nước ra khỏi vòng luẩn quẩn của tình trạng “rủi ro đạo đức” trên . Mất đi một chỗ dựa lại phải hoạt động trong quy luật khắt khe của thị trường đòi hỏi các DNNN cũng phải biết làm cách nào để huy động thêm vốn từ các nguồn có thể có trong nền kinh tế. Do đó c ổ ph ần hoá không chỉ giúp hệ thống NHTM nhà nước hoạt động hi ệu qu ả h ơn mà còn giúp hình thành cơ chế, tạo môi trường để các DNNN khác hoạt động có hiệu quả hơn. Thứ ba, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng lực quản lý điều hành Mặc dù có những cải cách đáng kể trong quản trị điều hành, hoạt động của các NHTM nhà nước còn bộc lộ những yếu kém về trình độ quản lý và năng lực làm việc. Sau cổ phần hoá, tỷ trọng sở hữu sẽ quyết định mức độ tự ch ủ trong kinh doanh của Ngân hàng, trong quyết định đầu tư và quy ết định tín d ụng. Theo đó, năng lực điều hành quản trị của NHTM Nhà nước sau c ổ ph ần hoá sẽ được cải thiện. Nó thúc đẩy các lãnh đạo Ngân hàng ph ải làm vi ệc vì lợi ích cổ đông, có tinh thần trách nhiệm h ơn bởi lúc này giám đ ốc là người làm thuê chịu sự giám sát chặt chẽ trong điều hành hoạt động Ngân 15 hàng. Với sự giám sát của các nhà đầu tư qua việc niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng trên thị trường chứng khoán, cũng như tính nhạy cảm của nhà đầu tư về tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, mô hình cổ phần hoá giảm thiểu được tình trạng trì trệ,hoạt động kém hiệu quả .Khi quyền lợi riêng gắn với quyền lợi chung thì người lao đ ộng cũng quan tâm hơn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, không ngừng tiết kiệm chi phí đem lại lợi ích cho Ngân hàng nói riêng và cho nền kinh tế nó chung. Thứ tư, hiện đại hoá công nghệ và phát triển sản phẩm mới. Vấn đề hiện đại hoá công nghệ tuy đã được quan tâm và có nhiều chuy ển biến song phần lớn cũng mới trong giai đoạn thử nghiệm và mới ch ỉ ch ủ yếu được thực hiện tại các đô thị.Thông qua công cụ cổ phần hoá, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thu hút nguồn vốn và các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm và năng lực tài chính tham gia vaò công tác qu ản lý đi ều hành thời kỳ hậu cổ phần hoá. Đây chính là cơ hội để các Ngân hàng đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ. Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh Việc Việt Nam tham gia vào hiệp định Việt Nam - Hoa Kỳ và h ội nhập kinh tế quốc tế, tự do hoá tài chính, khi những rào cản được gỡ bỏ dần để tiến tới một sân chơi bình đẳng, đặt các NHTM Nhà n ước Vi ệt Nam trước nguy cơ lớn về sự cạnh tranh gay gắt với các Ngân hàng khác, không chỉ với các Ngân hàng trong nước mà còn các Ngân hàng nước ngoài mà trước hết ở đây là các Ngân hàng của Mỹ. Hiện tại thị phần huy động vốn 76% tổng nguồn vốn huy động toàn hệ thống Ngân hàng đã góp phần tạo nên một nền vốn tương đối ổn định cho hoạt động tín dụng của các NHTM Nhà nước. Nhưng liệu khả năng huy động vốn này của các Ngân hàng có giữ nguyên được như vậy khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực vào năm 2010. Khi ấy, đối xử quốc gia đầy đủ, các Ngân hàng Hoa Kỳ sẽ không bị hạn chế quyền nhận tiền gửi bằng đồng Vi ệt Nam t ừ 16 các pháp nhân, thể nhân Việt Nam. Chắc chắn khi đó, một bộ phận không nhỏ của NHTM Nhà nước sẽ trở thành khách hàng của các chi nhánh Ngân hàng Hoa Kỳ và các Ngân hàng con của Hoa Kỳ t ại Vi ệt Nam. Đi ều này là dễ hiểu vì các Ngân hàng Hoa Kỳ có khả năng cung cấp các dịch vụ trên c ơ sở nền tảng công nghệ hiện đại, tiện ích, trình độ kinh nghi ệm qu ản lý s ử dụng vốn hiệu quả. Các NHTM quốc doanh sẽ phải chia sẻ thị phần, kéo theo đó là sự suy giảm về nguồn vốn . Khi các điều kiện hạn chế đối với chi nhánh và Ngân hàng con của Hoa Kỳ được cởi bỏ dần, lợi thế về thị phần tín dụng của NHTM nhà nước cũng rất có thể không còn. Vốn tự có của các NHTM Nhà n ước là nhỏ bé. Thực tế để tài trợ cho các dự án lớn, các NHTM Nhà nước th ường phải tiến hành cho vay dưới hình thức hợp vốn. Khi các Ngân hàng Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam được nới lỏng theo lộ trình, thì kh ả năng h ọ giành được các dự án khả thi có quy mô lớn của các Ngân hàng trong nước là r ất rõ. Việc này đồng nghĩa với việc các Ngân hàng trong nước sẽ mất khách hàng và khách hàng sẽ gia tăng sử dụng các dịch vụ khác của Ngân hàng Hoa Kỳ và quan hệ giao dịch với các Ngân hàng trong nước sẽ giảm đi. Trong quá trình hội nhập ,đối thủ cạnh tranh của các NHTM Nhà nước không chỉ là Ngân hàng Hoa Kỳ mà còn nhiều Ngân hàng n ước ngoài khác.Việc Việt Nam sắp gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng đòi hỏi việc mở cửa của lĩnh vực tài chính tiền tệ. Sự lớn m ạnh c ủa các Ngân hàng trong nước ngoài quốc doanh cũng đang tạo sức ép cạnh tranh với các NHTM Nhà nước.Để tồn tại và đứng vững trong môi trường ấy,cổ phần hoá để chuyển dịch cơ chế hoạt động, đa dạng hoá sở hữu,bình đẳng trong hoạt động, chuyên môn hoá nghiệp vụ, đổi mới công nghệ hoạt động, kinh nghiệm quản lý, chất lượng nhân sự là con đường duy nhất của các NHTM Nhà nước Việt Nam, tạo ra s ự cạnh tranh lành mạnh cho các Ngân hàng. 17 Vì cổ phần hoá là một phương thức hữu hiệu, giúp các NHTM Nhà nước có thể cùng một lúc đạt được nhiều mục tiêu trong chiến lược phát triển như thế nên có thể khẳng định cổ phần hoá là cần thiết đối với các NHTM Nhà nước. 1.3 Kinh nghiệm về cổ phần hoá NHTM nhà nước trên thế giới. Cổ phần hoá NHTM nhà nước đang là một xu thế diễn ra phổ biến trên thế giới. Trong khoảng 15 năm qua, đã có rất nhiều quốc gia ti ến hành cổ phần hoá các NHTM sở hữu nhà nước. Đây có thể xem là m ột trong những điểm mốc đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của NHTM nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế đất nước và vai trò của chính phủ trong việc lên kế hoach và điều tiết sự phát triển đó. Việc tìm hiểu, xem xét về quá trình cổ phần hoá của một nước đi trước, nh ất là những nước có có đặc điểm kinh tế xã hội tương đồng với nước ta, có th ể đem lại những bài học kinh nghiệm hữu ích cho việc cổ phần hoá các NHTM nhà nước hiện nay. 1.3.1. Cổ phần hoá NHTM nhà nước tại một số quốc gia. 1.3.1.1. Cổ phần hoá NHTM nhà nước tại Mexico: Năm 1991, Chính phủ Mexico bắt đầu thực hiện cổ ph ần hoá các NHTM nhà nước. Tháng 8/1991, ngân hàng đầu tiên thực hiện c ổ ph ần hoá là Banco Nacional de Mexico (Banamex) với tổng tài sản 4.430 triệu USD, trong đó phần bán cho các nhà đầu tư tư nhân là 70.7% (3.132 triệu USD). Ngay sau đó, vào tháng 10/1991, một ngân hàng khác là Grupo Financiero Bancomer cũng được cổ phần hoá giống Banamex, tức là bán m ột ph ần tài sản cho nhà đầu tư tư nhân.Tổng giá trị ngân hàng này 2.798 tri ệu USD v ới tỷ lệ bán 56%. Tháng 12/1993, Ngân hàng thứ ba tiến hành cổ phần hoá là Grupo Financiero Serfin. Khác với hai ngân hàng trước, ngân hàng này không bán tài sản cho các nhà đầu mà thực hiện bán cổ phiếu để thu hút thêm vốn đầu tư. 18 Tuy nhiên, đến năm 1994-1995 đã xảy cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Mexico làm cho tỷ giá bị sụp đổ, lãi suất tăng với tốc độ chóng mặt. Để cứu cho hệ thống ngân hàng trong đó có các ngân hàng vừa tiến hành cổ phần hoá, Chính phủ Mexico đã phảI chi khoảng 100 tỷ USD (tương đương 16%GDP) nhằm tái cấp vốn và cơ cấu lại bảng cân đối tài sản trước khi thực hiện bán một số ngân hàng cho các nhà đầu tư n ước ngoài. Theo đánh giá của các chuyên gia thì nguyên nhân xảy ra cu ộc kh ủng hoảng ở Mexico có một phần bắt nguồn thu từ cổ phần hoá nên đã quá v ội vàng khi thực hiện cổ phần NHTM nhà nước khi chưa đủ điều kiện vì trước đó các NHTM nhà nước ở Mexico đều hoạt động trong tình tr ạng thiếu vốn, kém hiệu quả và không tuân theo chuẩn mực quốc tế. 1.3.1.2.Cổ phần hoá NHTM nhà nước ở Đông Âu. - Cổ phần hoá NHTM nhà nước ở Cộng hoà Séc: Cộng hoà Séc bắt đầu cảI cách hệ thống ngân hàng vào đầu nh ững năm 1990. Lúc này, tất cả vốn lưu động của các doanh nghiệp nhà nước được tài trợ bởi các khoản tín dụng ngắn hạn theo hạn mức v ới lãi su ất thấp được xem là các khoản vay khó đòi (TOZ). Với mục tiêu tái cấu trúc các khoản vay này theo các điều kiện thương mại, Séc đã thành lập cen- tralized hospital bank với tên gọi là Konsolidachi Banka (KnB). Tất cả các khoản TOOZ được chuyển nhượng cùng với lượng tương ứng các khoản tiền gửi doanh nghiệp từ các ngân hàng khác. Tuy nhiên các khách hàng là các doanh nghiệp nhà nước vẫn duy trì quan h ệ với các ngân hàng mà đang được cung cấp các dịch vụ ngân hàng và các khoản vay m ới. Qua nhi ều thời kì, các khoản vay khác lại được phân loại nợ xấu và được chuyển từ các ngân hàng lớn nhất cộng hoà Séc cho Knb để xử lý và nhà n ước tái c ấp vốn cho các ngân hàng này. Mặc dù thời điểm cải cách được xem là phù hợp, nhưng Séc đã thất bại trong việc tái cấu trúc hệ th ống tài chính v ới mục tiêu xây dựng bốn NHTM quốc doanh lớn thành các trụ c ột c ủa h ệ 19 thống và tách bạch các khoản cho vay chỉ định với các điều kiện đãi sang một ngân hàng chuyên biệt. Nguyên nhân là vì nền tảng cho khu vực ngân hàng định hướng thị trường mạnh chưa được thiết lập. Các ngân hàng lớn vẫn chưa có sự độc lập từ Chính phủ. Nhà nước vẫn chiếm cổ ph ần chi phối trong các ngân hàng sau khi chúng được cổ phần hoá. Các ngân hàng không những vẫn giữ lại mối quan hệ với các khách hàng mà còn n ắm gi ữ cổ phần của các khách hàng này trong quá trình cổ phần hoá. Điều này đã làm nảy sinh vấn đề mâu thuẫn giữa lợi ích của chủ sở hữu và chủ nợ. Khi có một cuộc khủng hoảng tiền tệ nhỏ tác động đến, bảng cân đối của các ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. Vấn đề nợ xấu không được giải quyết triệt để do các khoản tín dụng ưu đãI vẫn được tiếp tục. Để giải quy ết triệt để vấn đề này, các ngân hàng lớn của Séc cần một đợt tái cấp vốn đáng k ể trước khi có thể bán cho các nhà đầu tư. Ước tính t ổng chi phí c ủa vi ệc tái cấu trúc các ngân hàng của Séc lên đến 30% GDP. Đây là con số cao nh ất trong chương trình tái cấu trúc của các nền kinh tế chuyển đổi. - Cổ phần hoá NHTM nhà nước ở Hungary. Ngược lại với cổ phần Séc, Hungary theo đuổi chính sách cổ ph ần hoá các ngân hàng quốc doanh bằng việc bán cổ phần chi phối cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài càng nhanh càng tốt. Việc bán như vậy đòi hỏi vi ệc táI cấp vốn của các ngân hàng phảI tạo ra sự kết nối gi ữa giá tr ị ròng hi ện tại và những giá trị đặc lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Hai đợt táI cấp vốn và nhiều đợt táI cấp vốn bổ sung của các ngân hàng trong nước tạo cho Hungary có được giảI pháp phù hợp xử lý vấn đề nảy sinh từ tâm lý ỷ lại mà trước đó gần như chưa được đề cập đến. Đợt táI cấp vốn l ần thứ nhất chưa đủ tác động mạnh vì các công cụ được sử dụng ch ưa đủ thanh khoản và thu hút về phương diện tài chính vì các ngân hàng đ ược táI cấp vốn vẫn cung ứng tín dụng và các dịch vụ ngân hàng và các khách hàng kém hiệu quả. Đợt táI cấp vốn thứ hai sử dụng các công cụ có tính th ị 20 trường là sự thành công đáng kể vì việc cổ phần hoá thực sự nhắm đến các nhà đầu tư tư tư nhân và đầu tư nước ngoài. Việc táI cấp vốn k ết h ợp v ới chiến lược cổ phần hoá đưa Hungary trở thành nước có hệ thống ngân hàng mạnh nhất trong các nền kinh tế chuyển đổi - Cổ phần hoá NHTM nhà nước ở Ba Lan Là nước đi đầu trong quá trình cổ phần hoá các DNNN trong đó có các NHTM nhà nước với sự giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính c ủa WB và nhóm các nước G7. Kế hoạch được đưa ra là hết năm 1996 Ba Lan sẽ cổ phần hoá 7 trong s ố 9 NHTM nhà nước, nhà nước sẽ nắm giữ 30% cổ phiếu, nhân viên ngân hángẽ nắm giữ 20%, còn lại sẽ được bán đấu gía cho nhà đầu tư nhỏ và một số đối tác chiến lược. Tuy nhiên tỷ lệ này được điều chỉnh theo thời gian. Mục tiêu cổ phần hoá của Ba Lan: - Duy trì sở hữu của nhà đầu tư trong nước, tránh sự thôn tính của nhà đầu tư nước ngoài. - Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. - Củng cố phát triển hệ thống ngân hàng nội địa, chuẩn bị cho sự cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài Hai ngân hàng được cổ phần hoá đầu tiên là hai ngân hàng có chất lượng quản lý và tình hình tài chính tương đối tốt. Thứ nhất là ngân hàng Wiekopolski Bank Kredytowy (WBK) được cổ phần hoá với gía bán trung bình là 6,98USD/ cổ phiếu theo ph ương th ức thoả thuận giữa người mua vầ nhà nước. Tháng 6/1993 cổ phiếu ngân hàng này được niêm yết trên thị trường chứng khoán với giá 19,66USD. Ngân hàng này được cổ phần hoá với sự trợ giúp của WB để thu hút đầu t ư chiến lược từ nước ngoài nhằm chuyển giao công nghệ vào Ba Lan. Năm
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net