Thị trường trái phiếu ở Việt Nam
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan đối với mọi
quốc gia trên thế giới. Làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra rất khẩn trương và
mạnh mẽ. Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đánh dấu một bước
tiến rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam.
MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan đối với mọi
quốc gia trên thế giới. Làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra rất khẩn trương và
mạnh mẽ. Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đánh dấu một bước
tiến rất quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian qua, nền kinh
tế Việt đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 8%/năm tương đối
ổn định so với các nước trong khu vực. Để đạt được tốc độ tăng trưởng như
vậy, thì phải chuẩn bị nguồn lực thật tốt và một trong những nguồn lực không
thể thiếu là vốn. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay nhu cầu vốn tăng cao và tăng
dần qua các năm.
Việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam đã đạt được
kết quả hết sức khả quan. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong nước cũng chưa
thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Do đó, để đẩy nhanh
việc huy động nguồn huy động dài hạn thì việc phát triển thị trường vốn trong
thời gian sắp tới là rất cần thiết. Đặc biệt là phát triển thị trường trái phiếu, đây
là kênh dẫn vốn quan trọng để ổn định và phát triển nền kinh tế đất nước.
Với tính cấp thiết của việc phát triển thị trường trái phiếu mà nhóm
TCDN 49A_Thị trường chứng khoán 3 chúng em chọn đề tài “Thị trường trái
phiếu Việt Nam” nhằm đưa ra cái nhìn rõ hơn về thị trường này, từ đó có những
giải pháp mang tính chất định hướng để phát triển thị trường trái phiếu hoạt
động hiệu quả cả trong ngắn hạn và dài hạn.
NỘI DUNG
I. Tổng quan về trái phiếu và thị trường trái phiếu ở Việt Nam
I.1. Trái phiếu
I.1.1. Khái niệm
Trái phiếu đơn giản chỉ là một loại giấy hứa trả tiền dài hạn, do người
đi vay phát hành, hứa sẽ trả tiền cho người nắm giữ trái phiếu một khoản lãi cố
định được xác định trước mỗi năm.
Nói cách khác, trái phiếu (TP) là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi
ích hợp pháp của người sở hữu (người cho vay) đối với một phần vốn nợ của tổ
chức phát hành (người đi vay), xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành
cho người sở hữu với khoản tiền xác định (gốc và lãi) vào thời điểm nhất định
(ngày đáo hạn) ghi trên trái phiếu.
I.1.2. Đặc trưng: Một trái phiếu thường có những đặc trưng sau:
I.1.2.1. Mệnh giá:
Là giá trị danh nghĩa, hay giá trị bề mặt của trái phiếu được in ngay trên
tờ phiếu, đại diện cho số vốn gốc được hoàn trả cho trái chủ tại thời điểm đáo
hạn.
Ở VN, mệnh giá của trái phiếu được ấn định là 100.000 VNĐ và các
mệnh giá khác là bội số của 100.000 VNĐ. Mệnh giá của trái phiếu được xác
định phụ thuộc vào số tiền huy động trong kỳ và số trái phiếu phát hành.
Công thức tính:
MG = VHĐ/SPH Với:
MG: mệnh giá trái phiếu
VHĐ: số vốn huy động
SPH: số trái phiếu phát hành
I.1.2.2.Tỷ suất sinh lời của trái phiếu:
Là lãi suất danh nghĩa của trái phiếu quy định mức lãi mà nhà đầu tư
hưởng hàng năm. Thông thường có 2 phương thức trả lãi: 6 tháng/lần vào ngày
30/6 và 1 năm/ lần vào ngày 31/12.
Mỗi trái phiếu có ghi lãi suất của tổ chức phát hành cam kết sẽ thanh toán
cho chủ sở hữu trái phiếu một số tiền lãi vào một ngày xác định và có thể theo
định kỳ.
Lãi suất danh nghĩa được xác định bởi các điều kiện thị trường tại thời
điểm chào bán trái phiếu.
Số tiền lãi nhà đầu tư nhận được hàng năm = lãi suất coupon x MG
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất trái phiếu:
+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ
thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ
thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc
rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi
suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như
nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
I.1.2.3. Giá mua:
Giá mua trái phiếu là khoản tiền thực tế mà nhà đầu tư bỏ ra để có được
quyền sở hữu trái phiếu. Giá mua có thể bằng, cao, hoặc thấp hơn mệnh giá.
Tuy nhiên dù giá mua thế nào thì tiền lãi luôn được xác định theo mệnh giá. Và
đến ngày đáo hạn, trái chủ sẽ được trả lại vốn gốc bằng với mệnh giá trái
phiếu.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu:
+ Kỳ hạn của trái phiếu: kỳ hạn càng dài, tính biến động của trái phiếu
càng lớn trước sự biến động của lãi suất thị trường.
+ Lãi suất tín dụng dài hạn: khi lãi suất này hạ thấp thì nhiều nhà đầu tư
mua TP làm cho cầu TP tăng và giá TP tăng và ngược lại
+ Tình hình lạm phát: khi nhà đầu tư mua TP các công ty phát hành cam
kết sẽ trả một lãi suất cố định trong suốt kỳ hạn của TP. Do đó khi lạm phát xảy
ra, giá TP sẽ giảm.
+ Tình hình kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp phát hành
+ Rủi ro về tỷ giá
+ Rủi ro thanh lý: rủi ro về tính thị trường phụ thuộc vào khả năng bán dễ
dàng một TP mới.
+ Rủi ro do biến cố bất ngờ
+ Rủi ro TD: nguy cơ công ty phát hành không có khả năng chi trả đúng
hạn, tức là không có khả năng chi trả mệnh giá và lãi đúng hạn
I.1.2.4. Thời hạn:
Thời hạn của trái phiếu là số năm theo đó người phát hành hứa hẹn đáp
ứng những điều kiện của nghĩa vụ.
Kỳ hạn trái phiếu có ý nghĩa quan trọng vì lợi tức trái phiếu phụ thuộc vào
thời hạn của nó.
I.1.2.5. Quyền mua lại:
Đối với loại trái phiếu có điều khoản chuộc lại cho phép tổ chức phát
hành trái phiếu thu hồi trái phiếu và hoàn lại vốn gốc với mức giá dự kiến trước
thời hạn thanh toán. Tổ chức phát hành sử dụng quyền này để bảo vệ họ không
phải trả lãi suất cao hơn đối với số tiền mà họ vay. Tổ chức phát hành thu hồi
trái phiếu khi tỷ lệ lãi suất trên thị trường thấp hơn lãi suất của trái phiếu của tổ
chức phát hành đã phát hành trước đó và có thể phát hành trái phiếu mới với tỷ lệ
lãi suất thấp hơn.
I.1.2.6. Những rủi ro chủ yếu trong đầu tư trái phiếu.
- Rủi ro tài chính: là rủi ro về khả năng thanh toán, trong đó người phát
hành trái phiếu không đủ khả năng tài chính để hoàn trả đầy đủ, đúng hạn các
khoản tiền phải trả như đã cam kết cho trái chủ.
- Rủi ro lãi suất: lãi suất là yếu tố thường xuyên, liên tục biến động,
phản ánh những tương quan cung cầu, vốn tiền tệ, cung cấp tín dụng trên thị
trường tài chính, cũng từ đó dẫn tới những thay đổi liên tục về tỉ suất sinh lời
cần thiết của trái phiếu. Những thay đổi này đem lại rủi ro cho trái chủ và vì thế
nó cần được bù đắp lại bằng những thay đổi về giá trị của trái phiếu.
- Rủi ro thanh toán: là rủi ro về khả năng chuyển đổi thành ngân quỹ
( tiền mặt) trên thị trường, bao gồm cả yếu tố thời gian và giá cả khi chuyển đổi.
- Rủi ro sức mua hay rủi ro do lạm phát gây ra: lạm phát gây sự thay đổi
giá trị, sức mua của tiền tệ, từ đó gây nên những thiệt hại nhất định cho các nhà
đầu tư trái phiếu. Lạm phát sẽ ảnh hưởng đến gái trị của các khoản tiền lời và
vốn đầu tư trái phiếu. Lạm phát cũng ảnh hưởng đến sức mua của trái phiếu
trên thị trường.
I.1.2.7 Đặc điểm cơ bản của trái phiếu
- Đứng trên giác độ của chủ thể phát hành:
+ Chủ thể phát hành trái phiếu tạo nên khoản nợ cho doanh nghiệp
của mình. Chủ thể phát hành không chỉ có công ty mà còn có cả chính phủ và
chính quyền địa phương.
+ Độ an toàn thấp hơn cổ phiếu do phải chịu áp lực phải thanh toán
nợ.
+ Ngược lại chi phí nợ thấp hơn cổ phiếu nên lãi suất thấp hơn tạo
nên khoản tiết kiệm và lợi thế cho chủ thể phát hành.
- Đứng trên giác độ người mua:
+ Người mua trở thành chủ nợ của chủ thể phát hành.
+ Nều như thu nhập chủ yếu của chủ sở hữu cổ phiếu là cổ tức
phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty thì trái lại thu nhập chủ
yếu của trái phiếu là tiền lãi - khoản thu cố định không phụ thuộc vào tình hình
sản xuất kinh doanh của chủ thể phát hành.
+ Nếu công ty hay doanh nghiệp bị phá sản hoặc giải thể thì trước
hết công ty ưu tiên trả nợ cho các trái chủ trước sau đó mới phân chia cho các cổ
đông.
Vì vậy, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Cho
nên đây là dạng đầu tư nên được quan tâm và rất triển vọng trong tương lai.
I.1.3. Phân loại trái phiếu
I.1.3.1. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng:
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng
chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ
chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới
ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ
tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ,
trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực
hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi
danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ
hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu
giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
I.1.3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu:
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm
mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm
công cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi
ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó,
lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn
định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
Trái phiếu chính phủ gồm những loại sau: TP kho bạc di hạn, TP đảm
bảo bằng tài sản thế chấp, TP nghĩa vụ chung, TP thuế hạn chế, TP quốc tế.
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động
vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở
hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ
trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành.
- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn
dài hạn.Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau:
Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được
tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không
được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được
nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên
thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều
hình thức đảm bảo cho khoản vay.
Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
+ Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản
thế chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái
phiếu này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì
họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.
+ Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo
bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá
sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ
có bảo đảm, nhưng trước cổ động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho
phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty
phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ
thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định.
Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể
được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể
của một bên nào đó. Cụ thể là:
+ Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng
khoán trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát
hành song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất
cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được
quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền
chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu
này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển
đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở
thành người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng
hoá chứng khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.
I.1.3.3. Theo thời gian đáo hạn:
+ Tp ngắn hạn: thời hạn 1 đến 5 năm:
+ TP trung hạn: thời hạn 5 đến 15 năm
+ TP dài hạn: trên 15 năm.
+ TP vô hạn: không ghi ngày đáo hạn
I.1.3.4. Căn cứ theo phương thức trả lãi
+ Tp lợi tức
+ Tp chiết khấu
I.1.3.5. Căn cứ theo phạm vi lưu thông
+ Tp quốc nội
+ Tp quốc tế
I.1.4. Điều kiện phát hành
Đối với chủ thể phát hành là doanh nghiệp phải hội đủ những điều kiện
sau:
- Là công ty cổ phần, công ty TNHH, DNNN có mức vốn điều lệ đã góp
tại thời điểm đăng ký phát hành là 10 tỷ đồng VN.
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có
lãi, đồng thơi không có lỗ luỹ kết đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản
nợ phải trả quá hạn trên 1 năm.
- Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả vốn thu được từ đợt
phát hành trái phiếu.
- Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư
về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư và các điều kiện khác.
I.2. Thị trường trái phiếu
I.2.1. Khái niệm
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực
hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực
hiện chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn
cho nền kinh tế.
Thị trường trái phiếu là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn
cho đầu tư và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư
nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Thị trường trái phiếu ở Việt Nam gồm có tín phiếu kho bạc, trái phiếu
chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp (bao gồm
cả trái phiếu ngân hàng thương mại), chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ
có giá trị khác.
I.2.2. Phân loại thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ
cấp
I.2.2.1. Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các trái phiếu mới phát hành. Trên
thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua
việc nhà đầu mua các trái phiếu mới phát hành
Vai trò của thị trường sơ cấp
- Trái phiếu hóa các nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy
động qua việc phát hành chứng khoán
- Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền
nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền san dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp
- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các trái phiếu đem lại vốn cho
người phát hành. Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng
tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị
trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư.
- Những người bán trái phiếu trên thị trường sơ cấp được xác định thường
là Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát
hành,...
- Thị trường sơ cấp chỉ được tổ chức một lần cho một loại chứng khoán
nhất định, trong thời gian hạn định.
I.2.2.2 Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp. Là thị trường chuyển nhượng quyền nhượng quyền sở hữu
trái phiếu. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các trái phiếu đã
phát hành.
Đặc điểm thị trường thứ cấp
- Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu
thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh trái phiếu chứ không thuộc về nhà
phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành
trái phiếu mà vận chuyển giữa những người đầu tư trái phiếu trên thị trường. Thị
trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường trái phiếu, gắn bó chặt
chẽ với thị trường sơ cấp.
- Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh tự do,
giá trái phiếu trên thị trường thứ cấp do cung và cầu, quy luật giá trị,… quyết
định.
- Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư
có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
I.2.2.3. Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của
thị trường thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa trái phiếu trên thị trường thứ
cấp. Không có thị trường sơ cấp thì không thể có sự xuất hiện của thị trường
thứ cấp. Thị trường thứ cấp là một lọai thị trường đặc biệt, nó không thể ra đời
chừng nào vẫn chưa có một thị trường sơ cấp rộng rãi, vững chắc với nhiều loại
trái phiếu đa dạng, phong phú, hấp dẫn nhiều nhà đầu và công chúng đến bỏ vốn
ra để đầu tư trái phiếu.
Ngược lại, thị trường thứ cấp đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho
sự phát triển của thị trường sơ cấp, vì một khi trái phiếu đã được phát hành ra
trên thị trường, nếu không có một thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao
đổi tạo ra tính thanh khoản cho trái phiếu thì thật khó có thể thuyết phục nhà đầu
tư bỏ tiền ra mua trái phiếu.
Chính việc mua bán giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp làm cho
lưu động hóa vốn đầu tư, các nhà đầu tư có thể chuyển từ trái phiếu thành tiền
mặt.
Vốn khả dụng thanh khoản cao của trái phiếu mà tính chất năng động của
thị trường thứ cấp đã hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền ra mua trái phiếu. Điều này
chính là điều kiện cơ bản để các nhà phát hành trái phiếu có thể bán được trái
phiếu trên thị trường sơ cấp và huy động được nguồn vốn lớn theo nhu cầu.
I.3.Hạn mức tín nhiệm của trái phiếu.
I.3.1. Khái niệm
Hạn mức tín nhiệm là sự đánh sự đánh giá hiện thời về mức độ sẵn sàng và
khả năng trả gốc và lãi đối với chứng khoán nợ của một nhà phát hành trong suốt
thời gian tồn tại của chứng khoán đó.
Sự cần thiết: việc đánh giá hạn mức tín nhiệm nhằm mục đích chủ yếu bảo
vệ lợi ích cho người đầu tư.
I3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hạn mức tín nhiệm.
• Tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần.
• Những hoạt động sinh lời.
• Sự biến thiên ở mức tấp trong thu nhập quá khứ.
• Quy mô công ty.
• Việc ít sử dung nợ thứ cấp.
I.3.3 Căn cứ đánh giá hạn mức tín nhiệm.
• Đối với doanh nghiệp:
Yếu tố về kinh doanh.
Yếu tố về quản lí.
Yếu tố về tài chính: tính ổn định của doanh thu, lợi nhuận, kết cấu
vốn, tỷ lệ nợ, khả năng thanh toán hiện thời, khả năng sinh lời...
• Đối với quốc gia:
Yếu tố rủi ro về chính trị.
Yếu tố rủi ro về kinh tế.
I.3.4. Tác dụng của xếp hạng tín nhiệm.
- Đối với nhà đầu tư: Hạn mức tín nhiệm là một chỉ tiêu rõ ràng, đơn giản
và dễ hiểu để xem xét quyết định đầu tư. Đó là nhân tố quan trọng trong việc
đánh giá mối quan hệ rủi ro và lợi nhuận thu được, Là công cụ quản lý danh mục
đầu tư, là công cụ để đánh giá một số rủi ro liên quan
- Đối với nhà phát hành: Giúp người phát hành mở rộng thị trường trên hai
khía cạnh: có thể tham gia vào nhiều thi trường vốn khác nhau và mở rộng các
nhà đầu tư tiềm năng; Duy trì sự ổn định của thị trường, nâng cao tính minh bạch
và hiệu quả của thị trường nự, tăng tính thanh khoản của trái phiếu ; Giảm chi
phí vay thông qua việc tạo cơ hội cho những nhà phát hànhtham gia vào thi
trường vốn.
- Đối với các cơ quan quản lý TTCK: Hạn mức tín nhiệm cung cấp những
thông tin về nguyên tắc thị trường cho quá trình ra quyết định của Chính Phủ và
cung cấp các thông tin về Chính phủ cho cộng đồng quốc tế.
3.5. Bảng ký hiệu xếp hạng tín nhiệm.
S&P Moody's Diễn giải
Chứng khoán có chất lượng cao rủi ro thấp, khả năng trả
AAA Aaa nợ mạnh nhất.
Chứng khoán có chất lượng cao rủi ro thấp, khả năng trả
AA Aa nợ mạnh.
A A Chứng khoán trên mức trung bình.
Chứng khoán trung bình mức, mức độ an toàn và rủi ro
BBB Baa không cao, không thấp, không có dấu diệu nguy hiểm.
BB Ba Chứng khoán có biểu hiện tính đầu cơ.
B B Chứng khoán thiếu sự hấp dẫn trong đầu tư.
CCC Caa Kỹ năng trả nợ trả nợ thấp, dễ vỡ nợ.
CC Ca Mức độ đầu cơ cao, thường bị vỡ nợ.
C C Mức tín nhiệm thấp nhất vấn đề trả lãi gặp khó khăn
II. Thực trạng phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay
II.1. Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của TTCK, là một kênh huy động
vốn tiềm năng cho các dự án của chính phủ và cho các dự án tư nhân. Thị trường
Trái phiếu ở Việt Nam hiện nay bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ,
trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp (Bao gồm cả trái
phiếu ngân hàng thương mại), chứng chỉ tiền gửi và các khoản nợ có giá trị khác.
Đương nhiên các trái phiếu này chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường vốn.
Thị trường vốn Việt Nam vẫn được xem là nhỏ về quy mô, và còn chưa thực sự
chuẩn hóa. Đây là một thị trường đang phát triển thu hút sự quan tâm của các nhà
đầu tư và tổ chức tài chính nước ngoài. Quy mô của TTTP Việt Nam hiện chỉ ở
mức 17% GDP, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ là 80%, Thái Lan là 58%, Malaysia 82%,
Singapore 74% và Trung Quốc là 53%. Tính đến 30/6/2009, có khoảng 600 loại
trái phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán với tổng mệnh giá
155.367.623 tỷ đồng, chiếm khoảng 72% giá trị toàn thị trường. Trong 3 loại trái
phiếu hiện đã được phát hành và mua bán tại Việt Nam, bao gồm trái phiếu chính
phủ và tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh
nghiệp thì khối lượng trái phiếu chính phủ chiếm ưu thế trên thị trường với 81%
thị phần, trong khi đó trái phiếu địa phương là 10%, trái phiếu doanh nghiệp là
9%.
Trong 5 năm giai đoạn 2006-2010, GDP kỳ vọng tăng trưởng ở mức 8 -
8,5%, tổng vốn đầu tư cần thiết được ước tính là 2.675.000 tỉ đồng, tương
đương 39.9% GDP. Do đó, nhu cầu vốn qua phát hành trái phiếu được ước tính là
187.250 tỉ đồng. Trong đó trái phiếu chính phủ sẽ chiếm tỉ trọng lớn nhất cả về
khối lượng và giá trị. Năm 2008 thị trường trái phiếu đã hình thành thị trường
chuyên biệt tại HaSTC. Cụ thể từ 2/6/2008 phần lớn trái phiếu niêm yết tại
HoSE đã được chuyển niêm yết và giao dịch tại HaSTC. Các giao dịch phát hành
và niêm yết trái phiếu mới tập trung thực hiện trên HaSTC. Sau đây chúng ta sẽ
xem xét từng loại trái phiếu
II.1.1 Trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc
II.1.1.1 Đấu thầu và bảo lãnh phát hành
Hoạt động phát hành TPCP qua hệ thống KBNN đã được thực hiện từ
năm 1991. Hiện nay phát hành TPCP thông qua 2 phương thức: phương thức đấu
thầu qua TTCK và bảo lãnh phát hành. TPCP được Kho bạc Nhà nước và Ngân
hàng phát triển Việt Nam phát hành hàng năm với khối lượng chủ yếu thông qua
các kênh bảo lãnh phát hành và đấu thầu qua TTCK. TPCP niêm yết tại các
TTGDCK chiếm khoảng 82% thị trường trái phiếu Việt Nam.
Giá trị TPCP đấu thầu thành công qua các năm
(Nguồn SGDCK TPHCM và TTGDCK HN)
Giai đoạn 2000 - 2005 được xem là giai đoạn hình thành và khởi động
TTCK Việt Nam. Do thị trường mới đi vào hoạt động nên việc tham gia đấu thầu
còn mang tính thăm dò. Tổng giá trị gọi thầu thành công đang còn thấp. Năm 2006
cùng với sự bùng nổ của TTCK và thực hiện quyết định 2276/QĐ-BTC ngày
20/6/2006 của bộ tài chính về tập trung đấu thầu TPCP tại trung tâm giao dịch
Chứng khoán Hà Nội. Giá trị TPCP trúng thầu năm 2006 khoảng 7.885 tỷ gấp 3.3
lần so với năm 2005. Ðầu năm 2007, KBNN đã phát hành thành công TPCP theo
lô lớn đầu tiên có tổng khối lượng tính theo mệnh giá là 1.000 tỷ đồng, được
phát hành thành ba đợt vào các ngày 19/03/2007, 27/04/2007 và 17/05/2007, có
cùng ngày đến hạn thanh toán là 19/03/2012, lãi suất thanh toán hằng năm
(7,8%/năm). Tuy nhiên đến cuối năm 2007 thì khối lượng TPCP phát hành thành
công giảm một cách đáng kể. Việc đấu thầu không thành công đã làm cho các đợt
phát hành TPCP không phát hành được. Năm 2008 HaSTC đã tổ chức được 44
đợt đấu thầu trái phiếu, huy động được 7.008 tỷ đồng trên tổng số 31.700 tỷ
đồng gọi thầu như vậy tỷ lệ vốn huy động được chỉ bằng 22.1% kế hoạch và
bằng 36.9% tổng huy động vốn năm 2007.
Mới đây, ngày 11/8/2009, 3000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ do Ngân hàng
Chính sách xã hội phát hành, có 4 thành viên tham gia đấu thầu, tổng số tiền đăng
ký là 185 tỷ đồng, lãi suất đăng ký thấp nhất là 9,50%/năm; lãi suất đăng ký cao
nhất là 10,60%/năm, trong khi đó lãi suất trúng thầu chỉ là 9,10%/năm. Do vậy,
kết quả đã không có đơn vị nào trúng thầu. Trước đó, ngày 29/5/2009, trong một
phiên đấu thầu trái phiếu 500 tỷ đồng cũng không ai thành công do bên bán đặt lãi
suất trần cao nhất chỉ 8,5%, trong khi lãi suất kỳ vọng mà các bên mua yêu cầu
thấp nhất là 9,25%. Và đương nhiên, giao dịch đấu thầu đã không thể thành công.
Cùng với việc triển khai phương thức đấu thấu TPCP qua TTGDCK, BTC
đã thực hiện việc phát hành TPCP theo phương thức bảo lãnh phát hành kể từ
tháng 09/2000.
Tính đến 30/04/2008, TPCP do KBNN phát hành theo phương thức bảo
lãnh phát hành đạt giá trị khoảng 52.816 tỷ và TPCP do NHPT Việt Nam phát
hành qua bảo lãnh đạt giá trị khoảng 61.019 tỷ. Về thành viên tham gia, có 46
thành viên bảo lãnh phát hành TPCP, trong đó có 24 thành viên là NHTM. Với lợi
thế về đặc trưng của phương thức bảo lãnh phát hành, lãi suất trái phiếu được
hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa tổ chức phát hành và tổ chức bảo lãnh phát
hành, thành viên bảo lãnh chủ động trong việc quyết định đầu tư. Vì vậy kết quả
phát hành thường đạt 100% và thu hút các nhà đầu tư lớn tham gia bảo lãnh phát
hành.
II.1.1.2. Giao dịch Trái phiếu chính phủ
Dưới đây là số liệu thống kê về giá trị giao dịch trái phiếu qua các năm.
Có thể thấy trong giai đoạn đầu từ năm 2000-2002 hoạt động giao dịch
của trái phiếu nói chung và TPCP nói riêng diễn ra rất manh mún, thưa thớt. Từ
năm 2003 đến nay, giá trị giao dịch TPCP tăng mạnh. Do số lượng TPCP được
niêm yết tăng lên đáng kể. Mặt khác, do áp dụng các quy định như không giới
hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu của các tổ chức, cá nhân nhằm thúc đẩy
giao dịch trái phiếu.
Từ ngày 02/06/2008 toàn bộ TPCP niêm yết tại SGDCK.TpHCM chuyển
về giao dịch tại trung tâm GDCKHN.
Trong tháng 6/2009 tổng lượng trái phiếu VND chưa giao dịch tăng 6.1%
so với cùng kỳ năm ngoái, và tăng 2.4% so với quý trước, đạt mức 212.7 nghìn tỷ
VND. Trái phiếu chính phủ bằng đồng VND chiếm 96% tổng lượng trái phiếu
VND, tăng 5.3% so với 1 năm trước nhờ vào sức tăng mạnh của trái phiếu kho
bạc, trái phiếu Ngân Hàng phát triển Việt Nam, và trái phiếu doanh nghiệp nhà
nước. TPCP phát hành bằng đồng USD cũng tăng kể từ cuối tháng 12/2008. Từ
mức 1.4 tỷ USD, loại trái phiếu này đã tăng lên mức 1.6 tỷ USD vào cuối quý
I/2009 và tiếp tục tăng lên mức 1.7 tỷ USD vào cuối tháng 6/2009. Vào tháng 6,
tổng giá trị trái phiếu bằng đồng VNĐ và USD tại Việt Nam là 13.7 tỷ USD cao
hơn 13.3 tỷ đăng ký vào tháng ba.
II.1.2. Trái phiếu Chính quyền địa phương
Phát hành TPCQĐP nhằm mục đích huy động vốn đầu tư cho các công
trình xây dựng cơ sở hạ tầng của Trung ương cũng như địa phương. Trái phiếu
CQĐP được chính quyền địa phương phát hành dưới sự cho phép của chính phủ.
Hiện nay mới chỉ có Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát hành
TPCQĐP (trái phiếu đô thị) để huy động vốn. Các tỉnh thành được phép phát hành
đến 30% tổng nhu cầu chi tiêu và phải được chính phủ cho phép phát hành trái
phiếu. Số trái phiếu này phát hành thông qua các kênh đấu giá, bảo lãnh và đại lý
phát hành. Tuy nhiên, tính thanh khoản của loại trái phiếu này rất thấp.
Hình 2.2: Giá trị TPCQĐP phát hành từ 2003-2007
Nguồn: Tập hợp từ Sở GDCKTP.HCM và TT GDCKHN
II.1.3. Trái phiếu doanh nghiệp
Cho tới năm 2008 mới chỉ có 21 doanh nghiệp phát hành trái phiếu gồm có:
Petro VietNam, Tổng công ty cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration
(EVN), Lilama, Vietnam Steel Corperation, Vilexim,… Tất cả các công ty này đều
là những đơn vị đầu ngành hoặc các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần
hóa. Thực tế nhu cầu vốn của họ là nguồn vốn lớn, dài hạn và ổn định để đáp
ứng yêu cầu, mà những nguồn vốn này khó có thể vay được từ một ngân hàng.
Thực ra uy tín của các công ty này đủ để đề nghị với ngân hàng bất kỳ khoản vay
nào, tuy nhiên các ngân hàng cũng có những giới hạn trong việc cho vay như các
khoản vay tối đa phải dưới 15% tổng vốn chủ sở hữu. Do vậy thị trường trái
phiếu là một kênh cần thiết để huy động lượng vốn lớn, dài hạn.
Tình hình phát hành TPDN từ năm 2006- 30/06/2008
Giá trị phát Năm
Thời hạn Lãi suất
STT Tổ chức phát hành hành phát
(năm) (%/năm)
(tỷ đồng) hành
I Trái phiếu doanh nghiệp đang niêm yết tại TTGDCK
1 NH Đầu tư và Phát triển TPHCM 2.205 10-15 9,8-10,2 2006
2 NH Ngoại Thương VN 1.375 7 6 2005
3 Tập đoàn Điện Lực VN 6.000 5 9,6 2006
4 TCT Tài Chính Dầu khí VN 365 5 9,5 2006
II Trái phiếu doanh nghiệp khác
1 TCT Sông Đà 260 10 5 2006
2 NHTM Á châu -
- TP chuyển đổi 550 5 8 2006
- TP thông thường 2.200 5 8,6 2007
16-
3 Công ty Chứng khoán SG (SSI) 500 9,8-10,2 2006
24tháng
4 NHNN và PT VN 3.000 10-15 9,8-10,2 2006
5 NH PT Nhà ĐBS Cửu Long 150 2 9,2 2006
6 TCT Lắp Máy VN Lilama 500 5 9,6 2007
1.000 10 9,2 2007
500 5 8,8 2007
7 TCT Thép VN 400 5 9,5 2007
500 5 10 2007
8 NHTM Sài Gòn 1.400 13tháng 8,5 2007
9 NHTMCP Quân Đội 1.000 2 8 2007
1.500 3 8,3 2007
10 TCTCP Xây Dựng VN Vinaconex 1.000 2 3 2007
11 TCT Tàu Thủy VN Vinashin 3.000 10 9 2007
12 Công ty CN Tàu Thủy Nam Triệu 300 2 9,6 2007
13 Công ty CP Đường Cao Tốc 400 15 9 2007
14 TĐ Dệt May VN Vinatex 1.000 5 9 2007
15 Công ty Tín Nghĩa 1.000 5 9,2 2007
16 Công ty TM Sài Gòn Satra 1.000 5 9,2-9,6 2007
17 Cty Địa ốc SG Thương Tín Sacomreal 1.000 5 9,5-9,7 2007
18 Công ty CP Thực phẩm 1.000 5 9,6-10 2007
19 Cty CP ĐT Hạ Tầng Kỹ Thuật TPHCM 132 3 8 2007
20 Công ty CP Vincom 1.000 5 10,3 2007
2.000 5 16 2008
21 Công ty CPDL&TM Vinpearl 500 3 15 2008
500 5 16 2008
Nguồn: Tập hợp từ Sở GDCKTP.HCM, TT GDCKHN và Công ty chứng khoán Sài Gòn
Doanh số từ phát hành trái phiếu có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Từ 300 tỷ
VND do tổng công ty dầu khí phát hành năm 2003 đã lên đến hơn 6.600 tỷ VND
tháng 3 năm 2007, đặc biệt năm 2006 đạt hơn 8.800 tỷ VND, trong đó EVN phát
hành 6 đợt với tổng doanh số là 6.000 tỷ VND. Tổng doanh số phát hành trái
phiếu từ 2003 đến 2007 đạt khoảng 25.000 tỷ VND. Trong đó Vinashin và EVN
là hai doanh nghiệp phát hành nhiều nhất chiếm 41% và 36% tương ứng. Còn các
công ty khác dưới 10%.
Các trái phiếu được phát hành với kỳ hạn từ 2 năm đến 10 năm. Trái phiếu
Vinaconex và Lilama phát hành thường có kỳ hạn 5 năm. Vinaconex khuyến khích
các nhà đầu tư bằng cách phát hành trái phiếu kèm theo chứng quyền là quyền
mua cổ phiếu của Nhà máy xi măng Cẩm Phả với mức giá ưu đãi. Trái phiếu
EVN thường có kỳ hạn từ 5 đến 10 năm, đầu tư vào các công trình thủy điện, cải
tạo mạng lưới điện quốc gia.
Lãi suất TPDN, về cơ bản đều cao hơn lãi suất đấu thầu TPCP. Tất cả
các trái phiếu đều trả sau, với phương thức trả lãi hàng năm (coupon), lãi suất cố
định. Riêng TCT Sông Đà, TCT Điện Lực Việt Nam, Công ty Cổ phần Vincom
phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi, được điều chỉnh căn cứ vào lãi suất
TPCP hoặc lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
6 tháng đầu năm 2009 trái phiếu doanh nghiệp tăng 30.8% theo năm và
tăng 8.3% tính theo tháng, ở mức 8.3 nghìn tỷ VND. Tuy nhiên loại trái phiếu này
giảm 8.3% so với quý trước. Nhiều doanh nghiệp hiện đang có kế hoạch phát
hành trái phiếu trong thời gian còn lại của năm nay. Sacombank phát hành 1 nghìn
tỷ VND trái phiếu chuyển đổi vào năm 2009. Petro Vietnam đang có kế hoạch
phát hành 5 triệu đến 1 tỷ USD trái phiếu vào cuối năm 2009.
II.1.4. Trái phiếu chuyển đổi ở Việt Nam
Các doanh nghiệp phát hành trái phiếu chuyển đổi hầu như chủ yếu là các
doanh nghiệp hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính như: Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Á Châu (ACB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB),
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài gòn (SCB), Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam (Vietcombank), Ngân hàng cổ phần Gia Định, Công ty chứng khoán Sài Gòn
(SSI)…
Lấy ví dụ, phân tích trái phiếu trái phiếu chuyển đổi của ngân hàng Ngoại
thương để thấy được đặc thù của trái phiếu chuyển đổi ở VN:
+ Tháng 12/2005, sự kiện Vietcombank phát hành thành công 1.375 tỷ đồng
trái phiếu chuyển đổi với lãi suất bình quân 6%/năm (lãi suất đưa ra tối đa 8,5%/
năm cố định trong 7 năm), trong khi lãi suất tiết kiệm tại các ngân hàng thương
mại là 9%/năm. Ngay sau khi xuất hiện, giá của trái phiếu chuyển đổi