logo

Thị trường chứng khoán - cơ chế vận hành

Thị trường chứng khoán (TTCK) làm trung gian giữa công chúng (vòng 4) với công ty (vòng 1) . Hai vòng này lúc lắc trái chiều nhau ; vì công chúng có ít tiền, muốn kiếm lãi cao, lại còn muốn rút vốn ra bất cứ lúc nào ; trong khi ấy công ty muốn vốn vào nhiều mà ở lại lâu. ở bài đầu chúng ta đã nói đây là hai đòi hỏi cực đoan.
Thị trường chứng khoán - cơ chế vận hành Thị trường chứng khoán (TTCK) làm trung gian giữa công chúng (vòng 4)  với công ty (vòng 1) . Hai vòng này lúc lắc trái chiều nhau ; vì công chúng  có ít tiền, muốn kiếm lãi cao, lại còn muốn rút vốn ra bất cứ lúc nào ; trong  khi ấy công ty muốn vốn vào nhiều mà ở lại lâu. ở bài đầu chúng ta đã nói  đây là hai đòi hỏi cực đoan.  Vai trò của TTCK là hoá giải hai cái cực đoan ấy ; nghĩa là nó làm cho hai  vòng kia vẫn gắn với nhau dù lúc lắc trái chiều nhau. Xin quý vị tưởng  tượng ra một cái bạc đạn (vòng bi). Nó có hai vòng lớn nhỏ phải không ?  Nhưng các viên bi ở giữa được thay bằng một lớp keo dày, dẻo giống như  kẹo cao su (chewing gum) đã nhai lâu. Lớp keo đó là TTCK.  Chúng ta sẽ nói về chất keo kia, tức TTCK vận hành thế nào, trong phần  hai của loạt bài này. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, chất keo không  thể làm hai vòng kia dính mãi nếu bản thân hai cái vòng không có một cái  gì chung làm điểm nối kết. Điểm chung đó là tiền lời hay lãi mà người đầu  tư đòi hỏi thì công ty phải đáp ứng cho được qua việc kinh doanh của mình.  Tiền cũng giống như nước, nó chảy vào chỗ trũng. Công ty phải là chỗ  trũng thì nước mới chảy vào. Đó là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của  một TTCK.  Về mặt vĩ mô, TTCK không có vốn để cung cấp cho công ty. Nó chỉ hỗ trợ  công ty theo tinh thần "anh hãy tự giúp trước, rồi trời sẽ giúp sau". Sau khi  người đầu tiên (là công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán) đã trả hết tiền  mua chứng khoán mà công ty bán ra thì TTCK làm xong việc giao vốn dài  hạn cho công ty. Nó không làm gì khác cho công ty nữa. Công ty cũng  không phải trả lãi, trả vốn cho TTCK, như phải làm với ngân hàng. Việc  đăng ký và niêm yết chứng khoán công ty làm với cơ quan chính quyền  quản lý sự giao dịch chứng khoán và với Sở Giao dịch chứng khoán là nơi  quản lý cái chợ, chứ không phải với TTCK. Vì vậy, công ty phải tự làm ăn  mà trả lời, trả lãi cho những người đã hay sẽ mua chứng khoán của họ.  Trong số công việc của mình, TTCK phục vụ công ty khoảng 10 %, còn  phục vụ những người mua chứng khoán đến 90 %. Việc phục vụ sau gồm  hai công tác chính : (1) làm sao cho họ có thể kiếm lời từ việc mua bán  chứng khoán trên thị trường ; và (2) cho họ rút tiền ra lúc nào cũng được.  Cách duy nhất mà TTCK làm để thực hiện tốt hai công tác kia, là làm sao  cho có thật nhiều người tham gia vào nó, càng đông càng tốt. Đông người  mua ắt sẽ bán dễ, vậy là có sự mua bán để kiếm lời. Nhiều người mới sẵn  sàng vào thì người cũ bán chứng khoán cho họ, như vậy là rút ra lúc nào  cũng được. TTCK cũng không bảo đảm cho người đầu tư là cứ mua bán  chứng khoán sẽ có lời, hay cho vay ở TTCK là có lãi cao. Những thứ này  tuỳ thuộc vào các công ty đã bán chứng khoán và hoạt động của họ, và tuỳ  cách người đầu tư đã đặt mua bán như thế nào.  Cách làm của TTCK là sử dụng một số công nghệ để :  Giá mua bán sẽ là một giá công bằng (fair), một bên không thể bắt chẹt  bên kia vì nắm nhiều thông tin hơn ;  Có sẵn thanh khoản, tức là lúc nào cũng có tiền mặt để thanh toán hay là  người bán hay mua chứng khoán dù nhiều hay ít thì cũng không bị dìm giá  hay tăng giá vì không có sẵn tiền mặt ;  Chi phí cho việc mua bán thấp ;  Việc thanh toán tiền nong giữa một số rất đông người diễn ra nhanh chóng  và thuận tiện và  Mọi giao dịch diễn ra trong sự thanh liêm và trong sáng. Bốn yếu tố đầu có  tính thương mại hay vật chất, còn yếu tố cuối là tinh thần ; và tất cả đều  nhằm phục vụ người đầu tư.  Tư cách của người mua bán chứng khoán Khi phát hành chứng khoán, công ty sẽ ấn định một giá bán ban đầu được  ghi trên chứng khoán, gọi là mệnh giá. Mệnh giá sẽ lên hay xuống để  thành giá thực tế lúc mua hay bán gọi là thực giá. Thực giá thay đổi tuỳ  theo người muốn mua hay bán chứng khoán thấy công ty trả cổ tức hay  tiền lãi ra sao (năm trước trả bao nhiêu, năm nay có thể sẽ trả bao nhiêu)  và tuỳ vào sự đánh giá của họ về triển vọng kinh doanh của công ty (sản  phẩm sẽ bán chạy không). Hai yếu tố này tỷ lệ thuận với nhau nhưng lại  tạo ra hai loại người mua bán khác nhau. Người nào mua hay bán chứng  khoán mà dựa trên triển vọng kinh doanh tương lai của công ty thì người đó  mong kiếm lời từ chính việc mua bán ; và họ là người đầu cơ (speculator)  hay người kinh doanh chứng khoán. Người đầu cơ ở TTCK khác hẳn người  đầu cơ ở thị trường hàng hoá, họ cần thiết cho TTCK, chúng ta sẽ xem về  họ ở bài 18. Còn người nào chỉ mua chứng khoán để mong hưởng cổ tức  hay tiền lãi đều đặn, thì người đó là người đầu tư bảo thủ hay người nuôi  chứng khoán.  Dù là người đầu cơ hay người bảo thủ thì cả hai đều là người đầu tư. Nếu  người bảo thủ không bán chứng khoán đi thì họ ngồi ở vòng 1, còn người  đầu cơ thì luôn luôn ở vòng 4. Vị trí của họ có thể thay đổi từ vòng nọ sang  vòng kia, tuỳ theo cách họ ra lệnh cho công ty môi giới mua bán chứng  khoán của một công ty như thế nào.
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net