Thân phận lan rừng
Tuy chẳng phải là người chinh phụ, nhưng thân phận chúng em còn nhiều gian nguy, khổ ải hơn người đàn bà có chồng ra chốn biên cương. Nỗi buồn cô quạnh, phòng không chiếc bóng của người cô phụ tuy là một nỗi đau thương thấm thía của một số phụ nữ trong cơn ly loạn, nhưng nỗi lo buồn này không thể nào so sánh với số phận hẩm hiu dường như đi vào tuyệt lộ của bọn Lan Rừng chúng em được.......
THÂN PHẬN LAN RỪNG
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây sự cho nên nỗi này
Tuy chẳng phải là người chinh phụ, nhưng thân phận chúng em còn nhiều gian nguy,
khổ ải hơn người đàn bà có chồng ra chốn biên cương. Nỗi buồn cô quạnh, phòng
không chiếc bóng của người cô phụ tuy là một nỗi đau thương thấm thía của một số
phụ nữ trong cơn ly loạn, nhưng nỗi lo buồn này không thể nào so sánh với số phận
hẩm hiu dường như đi vào tuyệt lộ của bọn Lan Rừng chúng em được.
Thực vậy chúng em đang sống yên hàn cùng núi cao, rừng thẳm. Chúng em không
tranh luận cãi vả, lại chẳng gây sự với ai và cũng chẳng biết gì cao xa hơn là
đem những bông hoa tươi thắm làm đẹp cho núi rừng, thả làn hương thơm ngát
theo làn gió thoảng. Kìa chị Vạn điểm hài da trắng như ngà sánh vai cùng chị Cẩm Vân
bên giòng suối trong xanh. Đây cô em Thanh Ngọc lẳng lơ khoe sắc nhìn chị Giáng
hương đỏng đảnh, đong đưa trên cành cao vút hay mỉm cười cùng chị Mao hài bên
sườn núi dốc. Chúng em cứ như vậy uống sương mai, tắm gió chiều, vui chơi trong
nắng sớm cùng đàn chim, lũ bướm...
Bỗng nhiên những người súng ống đầy mình ở đâu kéo đến. Ban ngày họ ẩn náu
dưới tàng cây bóng lá, ban đêm lặng lẽ ra đi. Thế rồi bom đạn đổ xuống ầm ầm,
trời long đất lở, chiến xa, đại pháo kéo đến, khói lửa ngập trời. Làng xóm, nhà
cửa chúng em tan hoang, gia đình, họ hàng phần cháy tan mất xác, phần còn lại cũng
chết dần chết mòn vì thương tích, vì bị vất ra khỏi môi trường sinh sống.
Nhưng rồi chinh chiến cũng tàn, hòa bình trở lại. Chúng em vui mừng được sống lại
trong không khí thanh bình khi trước. Nhưng cũng chẳng bao lâu, đoàn người trở lại,
tuy không còn súng ống như trước, nhưng với những chiếc cưa máy, xe cần trục, máy
phát điện và xe vận tải. Cũng đoàn người này, trước kia ẩn trú ở dưới tàn lá những
khóm cây cao ráo rậm rạp, ngày nay họ chọn những cây nào cao lớn, thân to hạ xuống
trước. Cây lớn ngã xuống đè bẹp những cây nhỏ, cành lá gẫy đổ nát tan. Họ cắt hết
cây này rồi đến cây khác. Tiếng máy cưa, tiếng xe chạy, tiếng cây đổ tuy không kinh
hoàng như bom đạn nhưng cũng rung chuyển cả khu rừng. Họ hàng nhà Lan chúng em
đành nằm im chịu trận. Số phận chúng em đã bám chặt lấy thân cây mặc cho gió táp
mưa sa, cũng như số phận của người dân đen dính liền theo mệnh nước nổi trôi, mặc
cho những kẻ quyền thế lèo lái, chẳng biết làm gì hơn được. Cây bị cưa đứt gốc, cành
bị chặt ra làm nhiều đoạn, thân phận chúng em trong nhờ đục chịu, biết kêu cứu vào
đâu. Chị em nào có chút nhan sắc được bóc ra khỏi cành hoặc bị cưa thành từng đoạn
nhỏ, còn chị nào đã hoa tàn nhị héo bị vứt bỏ, nằm tênh hênh giữa ánh nắng mặt trời
gay gắt. Khi cây lớn không còn, đoàn người lại kéo nhau đi tìm nơi nơi khác, thôn xóm
chúng em chỉ còn là một bãi chiến trường đầy vết bánh xe và những cành cây gẫy nát.
Đám lan rừng chúng em còn sống sót tưởng từ nay sẽ sống yên lành trong khu rừng núi
hoang vu chỉ còn những đám cây lưa thưa và mảnh đất cằn cỗi.
Thế rồi lại có một đoàn người lam lũ kéo đến. Đoàn người sau này ít hơn nhưng
có đủ già trẻ lớn bé. Họ lựa chọn một khu đất phẳng phiu bên giòng suối cất nhà
và đợi những ngày nắng ráo đốt cỏ chặt cây. Họ nhà Lan chúng em người nào
còn sống sót trong những cơn tao loạn hãi hùng nay lại bị cháy đen hay ngộp thở. Đám
người này chỉ là những người dân hiền hòa, họ tới đây để tìm nguồn sống. Mặt đất
đen sì chẳng bao lâu đã trở thành những luống cải xanh tươi, giàn mướp trổ hoa vàng
lôi cuốn những đàn bướm đủ mầu, đàn chim đủ sắc. Sóng gió cũng như chinh chiến rồi
cũng đã qua đi, đời sống thanh bình trở về, chúng em lại sống cùng nắng sớm, sương
chiều, lại cùng nhau đua hương đua sắc tô điểm cho đời, làm đẹp cho quê hương dân
tộc. Chúng em tưởng đã được yên thân, nào ai ngờ tai ương lại tiếp tục.
Một hôm vài người thành thị tới nơi thăm cảnh núi rừng, nương khoai, rẫy sắn.
Thấy chúng em xinh đẹp họ muốn chiếm hữu. Họ thuê người bóc chúng em ra
khỏi cành cây, hốc đá. Tuy rằng họ nâng niu chiều chuộng, nhưng chúng em đâu
có thể chịu được cái không khí ồn ào ngột ngạt, ô nhiễm vì khói xe khói bếp và hơi
người ở chốn thị thành. Bọn phàm phu tục tử này mang chúng em về nhà để cho chết
khô và chết nóng. Rồi thì một đám gian thương ào ào kéo đến, họ hàng, làng xóm
chúng em bị vơ vét không còn một cây nhỏ. Họ bó chúng em thành từng bó nhỏ, bó lớn
rồi mang ra đầu đường, xó chợ hay xuất cảng ra nước ngoài bán chúng em như một bó
cành khô, củi mục.
Thân phận chúng em lúc này như một gái lầu xanh đã quá lứa còn biết trông chờ vào
đâu được. Ai là người biết thương xót và và ra tay cứu vớt chúng em đây?
Theo tin tức của chính phủ Việt Nam cũng như các tổ chức quốc tế và tư nhân phổ
biến đầy rẫy trên Internet, vào năm 1943 rừng Việt Nam có 14.3 triệu mẫu chiếm 44%
trên 32.5 triệu mẫu, tổng số đất đai của toàn quốc. Trong cuộc chiến tranh chủ nghĩa,
huynh đệ tương tàn, 4.9 triệu mẫu đã bị bom đạn tàn phá. Đến 1995 chỉ còn 9.3 tức là
28% và mỗi năm diện tích rừng lại thu hẹp khoảng 200.000 mẫu mỗi năm. Theo Trung
tâm duy trì bảo tồn thế giới, World Conservation Monitoring Centre (WCMC) vào năm
1996 diện tích rừng Việt Nam chỉ còn có 16% tức là 5.3 triệu mẫu.
Sở dĩ diện tích rừng xuống cấp trầm trọng như vậy là vì:
• Dân số gia tăng từ 25 triệu lên tới gần 90 triệu, cho nên cần phải khẩn hoang canh
tác.
• Xuất cảng gỗ quá mức. Năm 1992 xuất cảng sang Nhật 13.5 triệu thước khối và 2.3
triệu thước khối sang Pháp. Nên nhớ một cây thật lớn chỉ được dăm ba thước khối gỗ.
Nội trong 6 tháng đầu của năm 1993, Đà Nẵng và Qui Nhơn đã có 50.710 thước khối
gỗ bất hợp pháp đã bị bắt giữ. Số gỗ xuất cảng đã cao hơn số 618.000 thước khối quy
định cho toàn năm 1993 bao gồm cho việc tiêu dùng nội địa và xuất cảng. Việc đốn gỗ
bừa bãi đã quá tai tiếng đến nỗi chính phủ phải đóng cửa 3 nhà máy cưa do quân đội
làm chủ. Hiệp hội sản xuất đồ gỗ và lâm sản cho biết năm 2000 đã xuất cảng 219
triệu mỹ kim nhưng trong năm 2007 đã thu về khoảng 2 tỷ. Như vậy số gỗ dùng cho
việc sản xuất đòi hỏi rất nhiều.
• Nạn canh tác bừa bãi bất hợp pháp.
• Nạn cháy rừng mà không sao kiểm soát được.
Rừng bị phá, cây bị đốn ngã, lan rừng Việt Nam không còn nơi trú ngụ. Đã thế
nạn khai thác lan rừng gần như công khai và vô luật lệ mạnh ai nấy vơ vét.
Xuyên qua các báo cáo của các chuyên gia ngoại quốc và trong nước trong những
năm vừa qua lan rừng Việt Nam đã bị thẳng tay bóc nhẵn.
Nhà cầm quyền tại Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng rằng luôn luôn tôn trọng Công
ước quốc tế bảo vệ những giống hiếm quý CITIES (Convention International on Trade
in Endangered Species) không cho phép xuất cảng lan rừng bất cứ dưới hình thức nào.
Nhưng tuyên bố là một chuyện, thực thi lại là chuyện khác. Bởi vì lan rừng Việt nam là
một mối hàng đắt giá trên thị trường quốc tế. Không được xuất cảng chính thức,
người ta xuất cảng dưới dạng thuốc nam, thuốc bắc. Nhân viên Hải quan không rành
về thảo mộc, cộng thêm với nạn tham ô, biên giới Việt-Trung, Lào-Việt lại khá dài và
hiểm trở, nhân viên kiểm soát quá ít cho nên lan rừng Việt Nam là một thị trường béo
bở cho những con buôn quốc tế. Người ta cũng ước lượng rằng 70% lan rừng Việt
Nam được nhập lậu qua Trung hoa rồi từ đó đi các nơi khác. Cách đây mấy năm, hai
nhà nhập cảng hoa lan tại Nhật bản và Đài Loan đã bị phạt vạ một số tiền hàng chục
ngàn Mỹ kim vì đã vi phạm luật quốc tế nhập cảng trái phép những gíống nữ hài đã bị
cấm đoán bởi hiệp ước kể trên.
Theo các giáo sư Leonid V. Averyanov, Karel Petrzelka, Phan Kế Lộc, Nguyễn
tiến Hiệp, những năm vừa qua việc vơ vét lan rừng để xuất cảng đã lên đến mức
đáng lo ngại, trong khi đó luật pháp tại các nước láng giềng lại nghiêm ngặt bảo
vệ những cây của họ.
Các công ty ngoại quốc công khai phối hợp với các công ty trong nước đã thiết lập
những đường giây thu mua lan rừng với giá rẻ mạt. Người ta ước lượng từ năm 1988
đến năm 2000 số nữ hài, Paphiopedilum tại Việt Nam đã xuất cảng trái phép ra ngoại
quốc không dưới 3 triệu Mỹ Kim. Số tiền này đã nhân lên gấp hai, ba trăm lần trên thị
trường chợ đen. Theo báo cáo chinh thức do CITIES công bố vào năm 1994, những năm
vừa qua Việt Nam xuất cảng cả trăm tấn hoa lan đủ loại nhất là giống Dendrobium
nobile mà người Trung hoa thường dùng làm thuốc bắc. Theo Luật sư Karel Petrzelka
người Á-châu coi cây "Ludicia discolor" và cây "Anoetuchilus" là thần-dược chữa bệnh
cho nên đã xuất cảng từ Việt-Nam qua Đài-loan như rau sống. Tuy nhiên số lượng mà
CITIES công bố và những tư liệu chỉ là một phần nhỏ so với con số thực thụ bán ra.
Đã đành là dân chúng nghèo khổ, không thể nhìn lan mà nhịn đói. Nhưng khai thác lan
và buôn bán lan rừng như một mớ rau, bó củi thực là phí phạm với giá trị thực tiễn và
tài nguyên của xứ sở. Nếu biết khai thác đúng mức, trên thị trường quốc tế một khóm
lan có giá trị hơn một tháng lương của người lao động. Hơn nữa tình trạng để cho bọn
gian thương và người dân cứ mặc nhiên vơ vét như những năm vừa qua, lan rừng Việt
Nam chẳng bao lâu sẽ tuyệt chủng. Nhìn vào Thái Lan một nước láng giềng họ biết
bảo vệ lan rừng của họ rất nghiêm ngặt, họ có nhưng trại trồng lan rừng rộng lớn.
Khu tam giác vàng xưa kia nơi trồng toàn thuốc phiện, nay được giao cho quân đội để
sản xuất hoa lan. Khu vực Chieng Mai, Chieng Rai, Doi Tung là nơi trở thành những
nơi nuôi trồng hoa lan và hấp dẫn biết bao du khách viếng thăm. Chỉ riêng 6 tháng đầu
của năm 2006 Thái Lan đã thu về trện 30 triệu cho việc xuất cảng hoa lan.
Những công viên quốc gia Cát Tiên, Cúc Phương, Cát Bà, Phú Quốc v.v… không
hiểu có bao nhiêu chủng loai hoa lan? Khí hậu và thủy thổ nơi này có thích hợp
với các giống lan khác hay không? Trong cuộc viếng thăm xứ Úc năm 2005,
người viết bài này đã chứng kíến hàng ngàn khóm lan Dendrobium speciosum var hillii
mang từ các nơi về bỏ lay bỏ lóc trên các khóm cây, hốc đá và chết dần chất mòn trong
công viên quốc gia O’ Reilly’s. Các vườn lan trên Dalat chỉ là những tổ chức hay công
ty chưa đủ quy mô rộng lớn. Những vườn lan tư nhân ở Saigon hay Hà nội quảng cáo
có bán những loài phong lan hiếm quý, nhưng khi tới nơi toàn là hoa lan ngoại nhập và
vài chục cây vừa mới bóc ở rừng về. Chủ nhân vườn lan, phần lớn chỉ biết sơ qua về
cách nuôi trồng còn nói đến tên cây lan mỗi người một phách. Người bán còn mù mờ
như vậy, người mua như lạc vào khu rừng rậm.
Trong các bản tường trình cho thế giới biết đến hoa lan của Việt Nam thiếu gì những
vị Tiến Sĩ, Giáo sư và những nhà khoa bảng trí thức người Việt. Những vị này hiện ở
đâu? đang làm gì? Quý vị có được phục vụ đúng ngành nghề, quý vị có được đãi ngộ
xứng đáng hay không? Hay là quý vị cũng chỉ như những người dân khác còn phải nai
lưng kiếm sống? Đáng lẽ những vị này phải được ưu đãi, trọng dụng trong công việc
tìm tòi những cây lan lạ còn ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm hay nghiên cứu về cách
nhân giống, nuôi trồng cây lan quý hóa của xứ sở.
Xin quý vị hãy gia công nghiên cứu về những cây lan đặc hữu, đừng bỏ công nhân
giống những cây lan ngoại nhập, chúng ta đi sau họ cả chục năm rồi đó. Hiện giờ
một vài cây lan đặc hữu của chúng ta đã nhan nhản trên thị trường quốc tế. Thí
dụ cây lan Paphiopedilum delenatii chẳng hạn, trước kia gần 100$ USD mà nay chỉ còn
15-20$ USD, cây Dendrobium amabile xưa kia đắt như vàng nay được công ty ở Đài
Loan nhân giống bán ra hàng loạt giá chỉ còn 30-40$ USD.
Nhân chuyện này xin kể hầu quý vị một chuyện khác. Năm 1998, giới yêu chuông hoa
lan trên thế giới sôn sao về một cây lan Nữ hài Việt Nam (Paphiopedilum vietnamense),
chưa từng được ai biết tới vừa tìm thấy ở Thái Nguyên. Mấy tháng sau, bọn con buôn
thuê người dò tìm đến địa điểm vơ vét không còn một cây nhỏ.
Năm 1999 Sở Quan thuế Hoa Kỳ tịch thu được một số cây mang lậu vào thi trường chợ
đen. Theo Công ước Quốc tế Bảo vệ các Giống Hiếm quý CITIES, những cây này sẽ
được giao hoàn cho quốc gia sở hữu hoặc giao cho một Trung tâm Cứu Giữ (Plant
Rescue Center) do CITIES chỉ định. Do đó vườn Bách thảo Hoa Kỳ (US Botanic
Garden) tại Washington DC được giao cho trọng trách này. Ngoài trách nhiệm gìn giữ,
cơ quan này muốn nhân thêm giống hầu làm giảm nhu cầu đòi hỏi cho nên đã phối hợp
với Sở Bảo vệ những giống cá thú hiếm quý (US Fish and Wildlife Service) giao những
cây này cho một nhà trồng lan thương mại. Những cây con cấy bằng hạt giống, theo
đúng với quy ước CITIES sẽ được cung cấp cho các Vườn Bách Thảo và công chúng.
Hy vọng rằng sự nhân giống hợp pháp này sẽ làm cho việc buôn lậu bị xuống giá và
lan rừng sẽ được bảo vệ hữu hiệu hơn.
Thế mà trên Internet, một văn phòng Luật sư ở Việt Nam có đăng nguyên văn bài của
họ đòi chính phủ Việt Nam ủy nhiệm cho họ kiện Vườn Bách Thảo hay nói cách khác
là kiện chính phủ Hoa Kỳ đã không giao hoàn những cây này. Cũng may là chính phủ
Việt Nam đã làm ngơ trước những đề nghị vớ vẩn và nực cười này.
Thử hỏi cả một khu rừng còn không giữ được, mà nay chỉ vài ba cây lan nhỏ mà đòi
kiện với tụng! Tiền chi phí cho nhóm luật sư này thừa sức trang bị một phòng thí
nghiệm và hậu đãi các khoa học gia để sản xuất hàng vạn cây lan khác.
Placentia 5-07
..:: http://Agriviet.Com - Xem1797::..