Tây Sơn Thất hổ tướng
Đây là cuốn nói về cuộc đời binh nghiệp của 7 vị tướng tài thời Tây Sơn... "Sau khi vua Quang Trung mất, Cảnh Thịnh lên ngôi, tuổi còn nhỏ, quyền bính đều ở trong tay Bùi Đắc Tuyên.
Bùi Đắc Tuyên người làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn, cậu ruột của Cảnh Thịnh. Dưới triều vua Quang Trung, Tuyên nhờ thế em gái là Hoàng hậu Bùi Thị Nhạn nên được làm quan trong triều. Vì ít học, nên chỉ làm Thị Lang Bộ Lễ, nhưng lại được ghép vào nơi cung cấm. Tuyên thường bày nhiều trò chơi để......
ủa bạn
Hữu Vinh
Tây Sơn Thất hổ tướng
1 - Võ Văn Dũng
Sau khi vua Quang Trung m ất, Cảnh Thịnh lên ngôi, tuổi còn nhỏ, quyền bính đều ở trong tay
Bùi Đắc Tuyên.
Bùi Đắc Tuyên người làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn, cậu ruột của Cảnh Thịnh. D ưới triều vua
Quang Trung, Tuyên nhờ thế em gái là Hoàng hậu Bùi Thị Nhạn nên được làm quan trong triều.
Vì ít học, nên chỉ làm Thị Lang Bộ Lễ, nhưng lại được ghép vào nơi cung cấm. Tuyên thường
bày nhiều trò chơi để mua lòng Thái Tử Nguyễn Quang Toản.
Vì vậy, nên sau khi lên ngôi báu, Quang To ản liền sử dụng Tuyên và đưa lên làm thái sư, bất
chấp cả quan chế đã đặt sẵn. Trong cung đã có Bùi Thái hậu, ngoài triều lại có lắm đại thần
nghiêng theo chiều gió như Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng, nên thế lực của Tuyên rất vững.
Tuyên mỗi ngày một thêm lộng hành. Các đại thần trung tín đều bất mãn. Một số quan văn kẻ thì
tìm cớ già yếu xin về vườn. Kẻ thì bị Tuyên tìm cớ giáng chức hay cách chức. Một số quan v õ
không về cánh với Tuyên, người thì bị thảm hại, kẻ thì bị đưa đi trấn thủ nơi xa xôi. Ngay những
người trước kia theo Tuyên như Ngô Văn Sở, Lê Văn Hưng cũng không chịu nổi hành vi gian ác
của Tuyên, nhiều lúc cũng có thái độ bất b ình. Tuyên muốn trừ khử khi có dịp. Nhân khi L ê Văn
Hưng thắng trận ở Phú Yên, giao thành cho Nguyễn Quang Huy giữ, đem quân về Phú Xuân,
Tuyên bắt tội là không thỉnh mệnh trước, có ý muốn làm phản, tâu xin vua chém đầu răn chúng.
Vua Cảnh Thịnh y lời, Ngô Văn Sở can nh ưng không được, Quan Phụ chánh Trần Văn Kỷ can
thiệp, Tuyên nổi giận, giáng chức, đày ra coi trạm Hoàng Giang.
Trần Văn Kỷ nguyên là một danh nhân đất Thuận Hóa, quy thuận nh à Tây Sơn khi Bắc Bình
ủa bạn
Vương ra Phú Xuân. Được vua Quang Trung trọng dụng, th ường đem theo bên trướng, làm đến
chức Trung Thư lệnh. Quang Toản lên ngôi, Kỷ được làm Phụ chánh.
Sau khi đày Trần Văn Kỷ, Tuyên muốn dứt luôn cái nguy là Võ Văn Dũng, nên sai Ngô Văn Sở
ra Bắc Hà thay chức Trấn thủ. Triệu hồi Võ Văn Dũng về Phú Xuân đợi lệnh. Dũng đem quân hộ
vệ về đến Hoàng Giang thì gặp Kỷ, Kỷ nói:
- Thái sư ngồi trùm cả quân thần, cho ai sống đ ược sống, bắt ai chết phải chết, nếu không sớm
trừ đi, e bất lợi cho xã tắc. Ông nên lo liệu trước đi kẻo nữa ăn năn không kịp.
Võ Văn Dũng vốn tin trọng Văn Kỷ, liền nghe theo. Về đến Phú Xuân, không v ào triều, lén cho
mời Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn đến bàn mưu giết Bùi Đắc Tuyên. Nhận thấy rõ
ràng lòng tàn nhẫn và tính phản phúc của Tuyên, Hưng và Huấn cùng lo ngại đến thân phận của
mình, bèn hưởng ứng ngay lời Dũng. Đ êm ấy kéo quân đến vây dinh Thái s ư. Chẳng ngờ đêm ấy
Tuyên có việc ngủ lại trong cung. Bọn Dũng vây luôn c ả cung và đòi Cảnh Thịnh giao Tuyên.
Không tránh được, Cảnh Thịnh đành bắt Tuyên nạp. Dũng hạ ngục Tuyên, rồi một mặt cho
Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn bắt con Tuyên là Bùi Đắc Trụ, một mặt giả chiếu ra Bắc H à
bắt Ngô Văn Sở giải về Phú Xuân. Dũng cho rằng ba người Tuyên, Trụ, Sở mưu phản, nên đóng
cũi nhốt, đem dìm xuống sông Hương .
Vua Cảnh Thịnh biết là oan nhưng không sao ngăn c ản được đành gạt nước mắt khóc thầm.
Trần Quang Diệu đang vây th ành Diên Khánh nghe tin lập tức vượt biển về Phú Xuân. Võ Văn
Dũng cùng Nội hầu Nguyễn Thế Tứ đem quân bản bộ ra đóng ở bờ phía bắc sông H ương, ỷ
mệnh vua, chống nhau với quân Trần Quang Diệu đóng ở An Cựu b ên bờ phía nam sông Hương.
Võ Đình Tú lấy tình quen thân cả đôi bên xin vua Cảnh Thịnh được phép đứng ra hòa giải, nhờ
vậy mà Võ Văn Dũng cùng Trần Quang Diệu nối lại tình xưa. Cả hai kéo binh vào thành bệ kiến
Cảnh Thịnh. Vua phong Võ Văn Dũng làm Đại Tư Đồ. Trần Quang Diệu làm Thái Phó.
Đầu tháng 5 năm Kỷ Mùi (1799), thành Quy Nhơn b ị vây. Trấn thủ Lê Văn Thanh chống không
nổi nên cầu cứu Phú Xuân. Võ Văn Dũng cùng Trần Quang Diệu kéo vào đến Quảng Nghĩa thì
bị binh Viết Phước chận lại tại Thạch Tân. Thừa lúc tối V õ Văn Dũng đem quân theo đường
Trung xá mưu đánh úp quân T ống Viết Phước. Chẳng ngờ khắp nơi đều có quân đóng giữ, canh
phòng cẩn mật, nên binh Võ Văn Dũng thua to. May nhờ Trần Quang Diệu cứu ứng kịp thời, V õ
Văn Dũng mới thoát nạn. Vì vậy Quy Nhơn thất thủ và thành được đổi tên là thành Bình Định.
Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu được lệnh lui về giữ Quảng Nam.
ủa bạn
Nhân việc mất Quy Nhơn, bọn Trần Viết Kiết, Hồ Công Diệu s àm tấu với Cảnh Thịnh là tại Trần
Quang Diệu không chịu cứu ứng, nên Quy Nhơn mới mất và xin sai người mang mật thư vào
Quảng Nam bảo Võ Văn Dũng bắt Diệu giết đi. Dũng đ ược thư tự nghĩ:
- Tội là tội của mình. Trần huynh đã có lòng tốt không cáo giác, sao m ình lại nỡ lòng hại ân nhân
thà đắc tội cùng vua còn hơn phạm tội vong ân bội nghĩa.
Bèn đưa thư cho Diệu xem. Diệu kéo quân về kinh trị tội bọn gian t à, rồi trở lại Quảng Nam.
Tháng giêng năm Canh Thìn (1800), Võ Văn Dũng hợp cùng Trần Quang Diệu vào được Quy
Nhơn. Võ Văn Dũng cầm thủy binh đứng giữ cửa biển Thị Nại để Trần Quang Diệu công th ành.
Võ Văn Dũng đem chiến thuyền Đinh Quốc v à hơn trăm chiến thuyền nhỏ ra đóng giăng ngang
cửa biển. Hai pháo đài Ghềng Ráng và Phương Mai bấy lâu bỏ hoang được Dũng cho sửa sang
lại và đặt súng đại bác để canh ph òng.
Năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Phúc Ánh kéo binh ra đánh mạnh, tấn công hai mặt thủy v à bộ.
Về mặt thủy, quân nhà Nguyễn tấn công hai mặt:
- Nguyễn Văn Lương và Tống Phúc Lương đem thuyền nhỏ vượt ra phía bắc Thị Nại vào cửa
Cách Thử, lẻn vào đầm Thị Nại, dùng hỏa công đốt thủy trại Tây S ơn.
- Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy ở ngoài cửa Thị Nại khi thấy lửa cháy th ì kéo chiến thuyền đánh
ập vào.
Ở Thị Nại, Võ Văn Dũng canh phòng nghiêm ngặt, súng đại bác sẵn sàng nhả đạn. Nhưng đang
đêm, thình lình thấy thủy trại cháy, vội cho quân đi chữa lửa. V õ Di Nguy trông thấy ánh lửa liền
xua quân tiến vào. Súng trên pháo đài b ắn xuống, đánh chìm hết đoàn thuyền tiên phong. Võ Di
Nguy bị trúng đạn chết. Lê Văn Duyệt đốc binh tiếp theo, liều chết v ượt khỏi tầm súng. Lê Văn
Duyệt dùng hỏa công, lửa cháy rần rần theo gió tạt v ào thuyền Tây Sơn. Gió thổi càng mạnh, lửa
cất càng cao. Ánh sáng rực cả mặt biển, ngất cả nghìn dặm mây. Và tiếng súng nổ, tiếng quân la
hét vang trời dậy đất, quân nhà Nguyễn bị chết vô số. Thuyền Tây S ơn bị đốt cháy không còn
một chiếc. Võ Văn Dũng đại bại, kéo tàn quân lên hợp cùng Trần Quang Diệu giữ những n ơi
hiểm yếu khác. Nguyễn Phúc Ánh thấy đánh không nổi quân Tây S ơn để cứu thành Quy Nhơn,
tuy đã chiếm được cửa Thị Nại, bèn kéo đại quân ra đánh Phú Xuân.
Ngày 27 tháng 5, Trần Quang Diệu hạ được thành Quy Nhơn và thành Phú Xuân trư ớc đó cũng
lọt vào tay Nguyễn Phúc Ánh (ngày 3 tháng 5 năm Tân Dậu).
Nghe tin quân Tây Sơn b ị thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh Nguyễn Phúc Ánh ho àn toàn làm chủ đất
ủa bạn
Thuận Hóa, Võ Văn Dũng cùng Trần Quang Diệu đem 3 ngàn quân cùng 80 thớt voi, theo đường
sạn đạo sang Lào để ra Nghệ An vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802).
Đường đi khó khăn, Lam Sơn chướng khí đầy dẫy, khiến cho đo àn quân càng ngày càng hao h ụt.
Lớp bị bệnh, lớp bị bọn thổ ty theo nh à Nguyễn tập kích, nên khi đến Nghệ An thì mười phần chỉ
còn ba bốn. Đoàn tượng binh chỉ còn mươi thớt. Quân tướng hầu hết đều bị sốt rét rừng. Tại
Hương Sơn, Võ Văn Dũng cùng Trần Quang Diệu và các tướng bị tướng nhà Nguyễn là Võ
Doãn Văn, Lê Đức Định bắt sống.
Ở Diễn Châu, Bùi Thị Xuân hay tin đem nữ binh đi giải cứu. Đến Giáp S ơn thì giải cứu được,
nhưng chạy đến sông Thành Chương thì hai vợ chồng Trần, Bùi bị bắt trở lại. Một mình Võ Văn
Dũng mở đường máu thoát chạy. Nhưng chạy đến Nông Cống, thuộc Thanh Hóa th ì Võ Văn
Dũng bị bọn Lê Văn Pháp, Phạm Ngọc Thụy kéo dân địa ph ương ra bao vây. Với một thanh
đoản đao, Võ Văn Dũng đã đánh thắng hai tướng Lê, Phạm xong quá yếu sức vì gian lao đói
khát, nên không chống lại đám đông, đành buông đao chịu trói.
Bộ ba Dũng, Diệu, Xuân bị đóng cũi giải về Nghệ An. Dọc đ ường, Võ Văn Dũng phá cũi, thoát
ra ngoài, ông giải cứu luôn cả hai vợ chồng Trần, B ùi song hai chân của Trần tướng quân bị sưng
phù, không thể chạy trốn được. Bùi nữ tướng đành ở lại chịu chết cùng chồng.
Một mình Võ Văn Dũng lặn lội suối đèo, ngày nghỉ đêm đi, sau nhiều tháng mới về đến qu ê
hương. Trong đêm tối, ông ghé thăm nhà tại Phú Phong, đốt hương lên bàn thờ tổ tiên, rồi âm
thầm ra đi. Ông lên sống tại các làng người dân tộc vùng cao trước kia đã từng một thời hợp tác
với nhà Tây Sơn, mong có ngày g ầy dựng lại cơ đồ.
Các vùng núi Tây Sơn thượng đều lưu vết chân ông. Các thôn Đồng Phó, H à Nhung thường là
nơi ông lưu trú lâu nhất. Tại An Khê ông chiêu mộ được một số người dân tộc thiểu số, lấy h òn
Hội Sơn ở Trinh Tường làm căn cứ quân sự. Do đó nhân dân địa ph ương cũng gọi hòn Hội Sơn
là hòn Ông Dũng và gọi tắt là Hòn Dũng.
Khi hợp tác cùng các sắc tộc vùng núi, Võ Văn Dũng ban đầu được sùng bái, sau lần lần vì thế
lực của ông không có mà thế quyền Gia Long càng ngày càng vững mạnh, nên các sắc tộc vùng
núi tỏ ý lơ là không muốn hợp tác nữa. Vì vậy, ông bỏ hẳn vùng Tây Sơn thượng trở về hoạt
động ở vùng cận quê hương. Các vùng ven sông Côn như Tiên Thu ận, Vĩnh Thạnh, Kiên Mỹ đều
nằm trong phạm vi hoạt động của ông .
Việc ông đứt đoạn với các sắc tộc v ùng Tây Sơn thượng được nhân dân địa phương đưa vào ca
ủa bạn
dao:
Củ lang Đồng Phó
Đậu phụng Hà Nhung
Chàng bòn thiếp mót bỏ chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi, chàng đi
Chim kêu dưới suối Từ Bi.
Nghĩa nhơn còn bỏ huống chi cái gùi.
Đó là câu ca dao đã dùng thể tỷ nói về việc chung lưng đấu cật, về việc bất hòa giữa Võ Công và
người dân tộc thiểu số.
Để chuẩn bị cho một cứ điểm ẩn náu cuối c ùng, Võ Công đã đi sâu vào vùng Lộc Đổng, Hầm
Hô, tìm những hang động rộng rãi, kín đáo để chuẩn bị cho việc ẩn náu lâu d ài. Trong khi hoạt
động ở vùng Tây Sơn thượng, Võ Công đã có một thời đến sống trong rừng mộ điểu, nh ưng sau
thấy Cô Hầu không thiết tha đến việc phục h ưng nhà Tây Sơn, nên ông đ ã đón hai con của vua
Thái Đức là Văn Đức, Văn Lương và cháu nội là Văn Đẩu về ở trong binh trướng. Sau khi người
dân tộc không còn hợp tác với ông và có âm mưu phản bội, ông đã đem ba chú cháu Văn Đức
lên hòn núi Xanh ẩn náu.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1882), tưởng thời gian đã xóa đi các liên hệ tranh chấp, ba chú cháu
Văn Đức về thăm quê hương ở Kiên Mỹ thì bị quan lại địa phương bắt giải về Phú Xuân, giết
chết.
Còn lại trơ trọi một mình, Võ Công sống một cuộc đời tiêu diêu tự tại, phiêu định nay đây mai
đó. Võ Công mất ngày nào, tại đâu, không ai biết rõ. Chỉ biết là Võ Công sống được 90 năm, nhờ
vào bài thơ Vịnh Võ Đô đốc của cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì, thì sau khi thoát nạn, Võ Công
còn sống được 40 năm nữa. Bài thơ ấy như sau:
VỊNH VÕ ĐÔ ĐỐC.
Tạo vật khốn hào kiệt.
Ý tưởng sử hữu vi.
ủa bạn
Công danh vị túc ngôn.
Hoặc tác xuất thế ty.
Võ công dũng quán quân.
Bách chiến khởi Tây thùy.
Thiên phương yểm trung nguyên.
Đãi phi nhất mộc chi.
Thoát thân tứ thập niên.
Thế nhân thức công thùy.
Đản kinh sơn thạch gian.
Hữu thử hùng báo ty.
Ngã diệc chí phương ngoại.
Bạch đầu vị phùng sư.
Niên niên hạnh phế phóng.
Thảng toại giữ thế từ.
Tùng công du Ngũ Nhạc.
Khể thủ thốn linh chi.
Kim cốt hoán lục tủy.
Khiêm nhiên tùng đào phi.
Nghĩa là:
Tạo hóa làm khốn đốn kẻ hào kiệt.
Ý muốn cho họ làm việc gì.
Công danh không đủ nói.
Hoặc giả bày ra cơ hội để họ thoát đời.
Tài đánh dẹp của ông thật quán quân.
Từ biên giới phía Tây nổi lên, trăm trận trăm thắng.
Nhưng trời muốn dứt nửa chừng.
Thì một cây không chống nổi.
Thoát mình khỏi nạn ngót bốn mươi năm.
Người đời ai biết ông?.
ủa bạn
Sống lâu ngày trong nơi núi chồng đá chất.
Ông có tư thế mạnh như gấu như hùm.
Tôi cũng có ý muốn xuất thế.
Nhưng đã bạc đầu mà chưa gặp được thầy.
Làm quan nay được đuổi về, năm năm rảnh rang.
Muốn thoát khỏi cuộc đời.
Theo ông đi dạo chơi khắp năm ngọn núi tiên.
Cúi đầu ăn cỏ linh chi.
Xương vàng đổi tủy xanh.
Nhẹ nhàng bay lên nhánh tùng.
2 - Võ Đình Tú
Võ Đình Tú, người thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn. Con nh à giàu, tính hào phóng, lòng d ạ
chân thật, can đảm hơn người. Từ thuở nhỏ, gia đình đã rước thầy về nhà học văn lẫn võ.
Năm 14 tuổi, trong thôn bỗng nhiên xuất hiện một nhà sư mặt mày xấu xí, ăn bận rách rưới,
thường đến ngồi nơi nhà ngõ họ Võ. Trẻ con trong làng hễ trông thấy nhà sư thì kéo nhau đến
chọc ghẹo. Mặc cho lũ trẻ h ò reo, làm nhiều điều phiền toái, nhà sư vẫn ngồi xếp bằng tĩnh tọa,
mắt nhắm nghiền. Chọc chán m à không thấy phản ứng, chúng bèn kéo nhau bỏ đi.
Riêng Võ Đình Tú thì lại có thái độ rất kính trọng v à thương mến nhà sư. Khi nhà sư đến thì Tú
hoặc bưng cơm nước hoặc bánh trái đến cúng d ường. Nhà sư hoan hỉ mà nhận. Tuy nhiên, hai
người không hề nói với nhau một lời.
Một hôm, trời nổi mưa to gió lớn, mọi người không ai dám ra đường. Mưa tầm tã suốt ngày.
ủa bạn
Đêm đến, mưa tạnh gió ngừng, người trong nhà không thấy Tú đâu cả. Mà ngoài ngõ nhà sư
cũng biệt tăm.
Cho người đi khắp nơi, hết ngày này đến ngày khác vẫn không tìm thấy tông tích. Người nhà
quyết đoán là Tú đã bị nhà sư bắt cóc. Đành thắp nhang cầu trời phật gia hộ cho Tú m à thôi.
Mười năm sau. Tú trở về, thành một thanh niên vạm vỡ, sức mạnh như hùm, nhưng vẫn giữ được
tính tình chân hậu, chất phát. Mới trông qua không ai biết rằng đó l à một võ lâm cao thủ.
Tú về nhà đóng cửa đọc sách, không giao du với ai, trừ V õ Văn Dũng. Hai người là bạn tâm đắc.
Gặp nhau ngoài chuyện bàn luận võ nghệ còn thường hay đàm luận thời thế. Nhà giàu, võ nghệ
cao cường, song Tú vẫn không thích lập gia đ ình. Nhiều lúc đóng cửa đi giao du h àng tháng mới
về.
Về võ nghệ, Tú thông thạo đủ mọi loại: côn, kiếm, th ương, quyền v.v… Về quyền thì thiên về
ngạnh quyền, môn này rất thích hợp với thân vóc v à sức mạnh của Tú. Ngoài môn cưỡi ngựa bắn
cung, Tú nổi danh về môn sử dụng thiết côn. Khi múa côn giữa trời m ưa, người Tú không hề
dính một hạt nước. Một mình Tú có khả năng đánh cả hàng ngàn người. Bà Bùi Thị Xuân có
tặng Võ Đình Tú một lá cờ đào thêu bốn chữ vàng "Thiết côn tướng quân".
Khi Võ Văn Dũng về với Tây Sơn, Dũng giới thiệu Tú cùng Tây Sơn Vương. Vương thân hành
cưỡi ngựa đến nhà thăm viếng và mời về hợp tác. Trong doanh tr ướng Tây Sơn, Tú rất tâm đắc
với Nguyễn Huệ, được Huệ thương yêu như ruột thịt. Ngày ngày cùng nhau đàm đạo võ nghệ,
binh pháp. Khi nhà Tây Sơn kh ởi nghĩa,Võ Đình Tú được phong chức Đại Tổng lý c ùng với Bùi
Thị Xuân quản lý vùng Tây Sơn và phòng thủ doanh trại.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng đế, phong Võ Đình Tú chức thái úy.
Vua Quang Trung khi ra Thu ận Hóa thì đem Tú theo. Khi ấy Bùi Đắc Tuyên mới làm Thị Lang
Bộ Lễ, nhưng vì là em ruột của Bùi hoàng hậu nên được ra vào cung cấm tự do. Tuyên thường
bày nhiều trò chơi để mua lòng Thái tử Nguyễn Văn Toản. Vốn biết V õ Đình Tú có tài nhảy cao,
Tuyên xúi Quang Toản yêu cầu Tú biểu diễn cho xem.
Võ Đình Tú là một vị khai quốc công thần theo nh à Tây Sơn từ thuở còn áo vải, chớ đâu phải
hàng tiểu tốt mà đi làm trò mua vui cho trẻ con. Nhưng Thái tử Toản sẽ là vị vua tương lai của
mình, nên Võ công đâu giám không tuân lệnh.
Công rước thái tử ra đứng giữa sân, trong t òa dinh thự hình chữ môn, mặt hướng về dãy nhà phía
tả, Công dậm chân nhảy vút qua phía tả trong chớp m ắt. Liền đó, Thái tử nghe tiếng động sau
ủa bạn
lưng, quay lại thì đã thấy công đứng đó rồi. Công lại dậm chân nhảy vút qua ngôi nh à phía hữu
và lại nhảy trở về trong chớp mắt. Diễn đi diễn lại nhiều lần m à sắc mặt vẫn không thay đổi, h ơi
thở vẫn điều hòa. Thái tử Toản rất thích thú.
Một hôm, Võ Đình Tú cùng Đặng Xuân Phong vào cung bệ kiến vua Quang Trung. Biết rằng đó
là hai tướng nổi danh tuyệt kỹ về đánh côn, B ùi Đắc Tuyên liền tìm cách mua vui cho thái t ử.
Tuyên lấy tư cách người đồng châu, mời Võ, Đặng đến nhà riêng uống rượu. Thái tử cũng được
rước đến. Tiệc rượu được khoản đãi vào buổi chiều. Tiệc xong, Thái tử đ òi xem hai vị đại thần
đấu côn.
Đuốc được thắp sáng rực cả sân. Đặng sử dụng côn đồng, V õ sử dụng côn sắt. Đường côn qua lại
nhanh như chớp, mạnh như gió bão, đẹp như "rồng bay phượng múa". Gia tướng đến xem chật
cả trong lẫn ngoài. Tiếng hoan hô hòa với tiếng vỗ tay vang dậy cả một góc th ành .
Sau cuộc đấu côn này, dư luận xôn xao. Lớp thì khen hai vị công thần tài nghệ tuyệt luân, xứng
danh với "Tây côn lưỡng thần công". Lớp thì chê bai hai vị đại thần không biết tự trọng. Lời thị
phi bay đến tai vua Quang Trung. Nh à vua liền quở trách Thái tử và hai vị đại thần Võ, Đặng, rồi
cấm Bùi Đắc Tuyên không được bày các trò vui làm mất thể thống các quan đại thần như thế
nữa.
Vua Quang Trung mất, Cảnh Thịnh nối ngôi. B ùi Đắc Tuyên được sủng ái lên làm Thái sư, mỗi
ngày một thêm lộng quyền. Quan trong triều ng ười nào ngả theo Tuyên thì được ưu đãi, người ra
mặt chống thì bị hại, người nào thờ ơ thì bị đẩy đi xa. Tình hình trong triều lộn xộn, bè phái
chống đối lẫn nhau. Võ Văn Dũng đang trấn thủ Bắc Hà bị gọi về và nhân đó diệt luôn Bùi Đắc
Tuyên và đồng bọn. Trần Quang Diệu lại kéo binh về. Hai b ên sắp đánh nhau thì Võ Đình Tú lấy
tình quen thân cả đôi bên, xin phép vua Cảnh Thịnh đứng ra hòa giải.
Trước tiên, Tú đến gặp Dũng, phân tích sự lợi hại của hai đại thần chống cự lẫn nhau:
- Sở dĩ Diệu phải bỏ Quy Nh ơn kéo thủy binh về là chỉ lo cho kinh thành có biến loạn. Nay Diệu
về rồi thì xin cho đến gặp để hiểu rõ nguyên nhân.
Tiếp theo, Tú bơi thuyền qua sông Hương, đến An cựu gặp Diệu. Tú phân tích sự chuy ên quyền
của Bùi Đắc Tuyên sẽ làm hư sự nghiệp của nhà Tây Sơn, nên Dũng phải ra tay hủy diệt. Bây
giờ chỉ còn một việc hàn gắn lại tình đoàn kết của các đại thần, để cùng chung lo để việc đánh
thắng quân Nguyễn Phúc Ánh.
Nhờ vậy mà Dũng và Diệu kết nối lại tình xưa, cùng đem nhau vào bệ kiến vua Cảnh Thịnh. Cả
ủa bạn
ba điều được Cảnh Thịnh phong chức v à lo việc triều đình. Nhưng Cảnh Thịnh lại ưa nghe lời
dèm pha, bèn phong cho Võ Đình Tú chức Binh bộ Tham tri vào coi quân ở Phú Yên và Quy
Nhơn, để phân tán lực lượng có thể chống đối mình là bộ ba: Diệu, Dũng, Tú.
Tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh đem binh vào cửa thị Nại. Võ Tánh và Nguyễn
Huỳnh Đức đem quân lên đóng ở Hàm Long, thuộc huyện Tuy Phước.
Núi Hàm Long, còn gọi là núi Cần Úc, là một độc sơn, không cao lớn, nằm trong phạm vi thôn
Thuận Nghi, hình giống như đầu rồng, miệng há rộng. Con sông H à Thanh chạy từ Nam ra Bắc,
qua khỏi núi thì quành xuống đông, chảy ra đầm Thị Nại, tạo th ành cánh cung ôm lấy chân núi.
Võ Đình Tú đang đi kinh lý ở Phú Yên, được tin quân Nguyễn Phúc Ánh đổ bộ Quy Nh ơn, vội
kéo quân về, đi thẳng lên Cần Úc đánh quân Võ Tánh. Hai bên kịch chiến suốt hai ngày đêm. Võ
Tánh trá bại, Nguyễn Huỳnh Đức phục binh tr ên núi. Võ Đình Tú giục quân đuổi theo. Tên trên
núi bắn xuống như mưa, chen vào có nhiều súng nổ, quân Tây Sơn trúng tên, lớp chết, lớp bị
thương. Võ Đình Tú tả đột hữu xông, cây thiết côn tỏa th ành một đạo thanh quang gạt phăng
hàng vạn mũi tên bắn vun vút vào người, vào ngựa. Nhưng gạt được tên mà không gạt được đạn
đồng. Võ trúng đạn, máu chảy dầm mình. Đuối sức nằm gục trên lưng ngựa. Ngựa hí một tiếng
dài, nhảy khỏi chiến trường, chạy một mạch về qu ê hương Tú ở Phú Phong. Đến nhà thì ngựa
ngã lăn ra chết, Võ Đình Tú cũng đã lạnh hết chân tay.
Đó là vào cuối tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799).
3 -Trần Quang Diệu
Một hôm Trần ở Hoài Ân vào Kiên Mỹ để thăm Nguyễn Nhạc. V ượt qua Kim Sơn theo
đường núi, Trần đến vùng Thượng Ninh thì gặp một con cọp tàu cau to lớn đón đường. Vì không
ủa bạn
mang đao theo, nên Trần phải đánh tay không với cọp từ sáng cho đến tr ưa. Trần dần dần đuối
sức, mình đầy vết thương, bê bết máu me. Đang lúc lâm nguy thì gặp được Bùi Thị Xuân cùng
đệ tử đi săn. Thấy cảnh người và hổ đánh nhau, người sắp bị cọp vồ, nên Bùi thị hét lên một
tiếng, rút song kiếm xông v ào đánh nhau với cọp cuối cùng, cả hai liên thủ hạ được cọp.
Thoát chết, Trần yêu cầu được đưa về Kiên Mỹ, đến nhà Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc v à Bùi Thị
Xuân vốn đã nghe danh nhau, song chưa có dịp làm quen. Nhờ cọp theo gió, gió đưa duyên mà
nên nghĩa "vườn đào": Nguyễn, Trần, Bùi.
Rồi để cho nghĩa thêm nặng, tình thêm thâm, Nguyễn Nhạc đứng làm mai và làm luôn chủ hôn
để Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân nên vợ nên chồng.
Từ đó, Trần Quang Diệu ở luôn tại Ki ên Mỹ, cùng Nguyễn Nhạc xây dựng cơ đồ.
Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc được tôn làm Tây Sơn vương. Trần Quang Diệu cùng
Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng phụ trách quân sự: mộ quân và huấn luyện.
Một hôm, nhân về Hoài Ân thăm nhà, gặp và kết bạn với một tráng sĩ sau n ày là một tướng giỏi
của nhà Tây Sơn. Đó là Võ Văn Nhậm.
Võ Văn Nhậm, gốc Quảng Nam, sức mạnh h ơn người, võ nghệ giỏi, tánh phóng khoáng không
chịu ràng buộc. Nhậm vốn là kỳ tướng của quan Trấn thủ Quảng Nam. V ì không tuân theo luật
pháp nên bị tội, bỏ trốn vào Quy Nhơn. Khi đến Phù Ly, Nhậm nghe người đi đường cho biết có
tên cường hào cưỡng ép một thôn nữ về làm tì thiếp. Nhậm nổi giận, rút gươm chém chết tên thổ
hào rồi định đến cửa quan nhận tội.
Bỗng một tráng sĩ vỗ vai:
- Đệ xem huynh, chí khí tài lực đủ định loạn thiên hạ dễ dàng. Giết một con sâu dân, thì có chi
gọi là tội mà toan bỏ cái tài hữu dụng? Sao không đến Tây S ơn vương để chung lo việc lớn. Đệ
là Trần Quang Diệu, xin tiến cử huynh l ên nhà vua.
Võ Văn Nhậm hớn hở theo Trần Quang Diệu l ên Tây Sơn. Tây Sơn vương tr ọng dụng và sau
này gả con gái là Thọ Hương cho Nhậm.
Ngày rằm tháng tám năm Quí Tị (1773), Tây S ơn vương đi xuất binh đánh Quy Nhơn. Trần
Quang Diệu được phong chức Đô Đốc cùng phó Đô Đốc Võ Văn Dũng, Đô Đốc Lê Văn Hưng
thống lãnh một đạo binh xuống núi có nhiệm vụ đánh chiếm miền Bắc Quy Nh ơn.
Trần Quang Diệu phân binh l àm ba đội:
Một đội do Lê Văn Hưng chỉ huy, ở hậu phương làm lực lượng trừ bị.
ủa bạn
Một đội do Võ Văn Dũng cùng Cao Tắt Tựu đi đánh Bồng Sơn.
Một đội do Trần Quang Diệu chỉ huy, c ùng La Xuân Kiều đi đánh Phù Ly.
Hai huyện lỵ Bồng Sơn và Phù Ly, khi nghĩa quân kéo đến chưa đánh đã tan. Quân cũng như dân
hai huyện đều hân hoan đón tiếp nghĩa quân.
Để Võ Văn Dũng ở lại cùng hai học sĩ Cao, La trấn giữ hai huyện lỵ, Trần Quang Diệu kéo đại
binh vào hợp với Tây Sơn vương đánh thành Quy Nhơn. Nguy ễn Nhạc tìm kế chiếm được thành.
Trần Quang Diệu vào giữ thành để binh Nguyễn Nhạc đi tảo thanh các v ùng ngoại thành.
Tháng 11 năm Quí Tị (1773), quân chúa Nguyễn do Ph ò mã Nhất chỉ huy đánh vào Quy Nhơn.
Trần Quang Diệu phụ trách ph òng vệ thành Quy Nhơn, để Nguyễn Nhạc xuất chinh. Có Tập
Đình và Lý Tài phù trợ, Nguyễn Nhạc đã đánh tan quân chúa Nguyễn.
Cuối năm ấy, Tư Linh và Nhưng Huy tạo phản, Trần Quang Diệu đem quân đánh dẹp, bắt đ ược
cả hai đem về Quy Nhơn.
Trần Quang Diệu là người có kiến thức rộng, tầm nh ìn xa. Năm Giáp Ngọ (1774), Nhạc sai Lý
Tài vào trấn thủ Bình Thuận, Trần Quang Diệu can:
- Lý Tài là người tàu, vốn là giặc bể, bụng dạ khó lường, không nên cho đi xa cầm binh. Cọp
thêm vi và đi xa thì khó bắt lại.
Nguyễn Nhạc không nghe. Sau quả nhi ên Lý Tài bỏ Bình Thuận vào Nam đầu hàng chúa
Nguyễn, gây rối một thời rồi mới bị Nguyễn Huệ đánh cho tan nát. Khi Nguyễn Nhạc x ưng đế,
Trần Quang Diệu được phong chức thiếu phó.
Năm 1784, Nguyễn Phúc Ánh cầu viện quân Xi êm sang đánh Gia Định. Trần Quang Diệu cùng
vợ là Bùi Thị Xuân theo Nguyễn Huệ v ào Nam tảo thanh quân Xiêm. Tại trận Rạch Gầm, Xoài
Mút, Trần Quang Diệu thống lãnh bộ binh cùng vợ đánh tan bộ binh Xiêm và chiến tướng Lục
Cổn.
Sau khi trở về Quy Nhơn, Trần Quang Diệu theo vua Quang Trung ra Thuận Hóa v à trấn thủ
thành Phú Xuân, khi vua Quang Trung ra B ắc Hà tiêu diệt quân Mãn Thanh.
Lúc thắng trận trở về, vua Quang Trung đ ã giao phó cho Trần Quang Diệu ứng phó với các n ước
láng giềng: Xiêm La, Ai Lao và Miến Điện.
Nguyên khi vua Lê Chiêu Th ống chạy sang Tàu, Lê Duy Chỉ ở lại Tuyên Quang, nương nhờ thổ
tù Nùng Phúc Tân và Huỳnh Văn Đồng. Duy Chỉ li ên kết với các thổ dân ở Vạn T ượng, Trấn
Ninh, Trịnh Cao, Qui Hợp, Xiêm La chuẩn bị đánh lấy thành Nghệ An.
ủa bạn
Trần Quang Diệu được cử làm Đại tổng trấn cùng Đại Tư lệ Lê Trung đem binh tảo trừ.
Tháng 6 năm Canh Tuất (1790), Quang Diệu lấy đ ược Trấn Ninh, bắt tù trưởng Cheo Nan và
Cheo Kiêu.
Tháng 8 bình được Trịnh Cao và Quy Hợp.
Tháng 10 tấn công Vạn Tượng, buộc thủ lãnh bỏ thành chạy trốn, thu được vô số chiêng, trống
và vài chục thớt voi.
Thừa thắng, Quang Diệu đánh thẳng đến biên giới Xiêm La, chém được Tả súy Phan Dung, Hữu
súy Phan Siêu. Binh Xiêm thua ch ạy tán loạn.
Trần Quang Diệu và Lê Trung dẹp yên biên giới, kéo binh về Tuyên Quang đánh Nùng Phúc Tân
và Huỳnh Văn Đồng. Nùng, Huỳnh chống không nổi, bị chém tại trận tiền. Lê Duy Chỉ trốn
không thoát cũng bị giết luôn.
Mùa xuân năm Tân Hợi (1791), vua Ai Lao là Chiêu Án không chịu triều cống, Trần Quang
Diệu lại được cử đem binh sang vấn tội. Trận ra quân n ày có nữ tướng Bùi Thị Xuân tháp tùng.
Quân Ai Lao chống cự không lại, sợ hãi xin hàng. Ở lại bình định một thời gian, hai vợ chồng
kéo binh về nước, chuẩn bị sang đánh Miến Điện. Vua Miến Điện hay tin, liền sai sứ sang Việt
Nam xin thông hiếu, từ ấy bờ cõi phía Tây cũng như phía Bắc được yên ổn.
Trong những ngày ở Thuận Hóa, hai vợ chồng Trần Quang Diệu v à Bùi Thị Xuân được vua
Quang Trung tin dùng.
Trong một kỳ thi võ, mở tại kinh đô Phú Xuân, có một v õ sinh tên Lê Sĩ Hoàng rất xuất sắc.
Lê Sĩ Hoàng, người Quảng Nam, võ nghệ siêu quần, sức mạnh vô địch. Lúc nhỏ, nhà nghèo đi
chăn trâu cho một nhà giàu trong thôn, nhà gần núi, trâu bị cọp bắt, Sĩ Ho àng sợ chủ bắt đền, bỏ
trốn vào núi, gặp được dị nhân truyền thụ võ nghệ. Lê có tài sử dụng đại đao.
Lúc thi song, thấy Hoàng có tài và nhất là sử dụng đại đao điêu luyện, vua Quang Trung bèn sai
Trần Quang Diệu ra tỉ thí. Quang Diệu cũng l à một cao thủ về đại đao. Thanh Huỳnh Long đao
được khiêng ra và Lê Sĩ Hoàng cũng sử dụng thanh đại đao của m ình.
Được dịp trổ tài, anh hùng hội ngộ, hai tay đại đao trổ hết tài ba võ học của mình. Bóng đao
loang loáng khí lạnh bao trùm, cuộc tỉ thí vô cùng dũng mãnh hào hứng. Võ học cũng như sức
mạnh hai anh hùng tương đương nhau, nên cu ộc tỷ đao kéo dài và bất phân thắng phụ. Vốn cũng
giỏi sử dụng đại đao, vua Quang Tung cao hứng, sai quân hầu mang thanh Ô Long đao ra, đ òi tỉ
thí với Lê Sĩ Hoàng. Sĩ Hoàng cung kính thưa:
ủa bạn
- Với Trần tướng quân, hạ thần còn không địch nổi, huống chi với bệ hạ.
Vua Quang Trung đắc ý vỗ vai Hoàng, nói:
- Đây là Hứa Chữ của ta.
Rồi cởi chiếc cẩm bào đang mặc, ban cho Lê Sĩ Hoàng.
Trần Quang Diệu cùng Lê Sĩ Hoàng được đời tôn xưng là Tây Sơn Song Đao.
Sau khi chiến thắng Ai Lao trở về, Trần Quang Diệu đ ược bổ làm trấn thủ Nghệ An.
Mùa xuân năm Nhâm T ý (1792), vua Quang Trung ngã b ệnh, bèn triệu Trần Quang Diệu về
thương nghị việc dời đô về Nghệ An v à chuẩn bị đem quân vào Nam đánh Nguyễn Phúc Ánh,
nhưng tháng 7 thì vua Quang Trung băng hà. Cảnh Thịnh lên ngôi, gặp thời cơ chiếm thành Quy
Nhơn, khiến vua Thái Đức uất mà chết. Trong lúc đó quân nhà Nguyễn chiếm được Diên Khánh
và Phú Yên.
Năm Giáp Dần (1794), Trần Quang Diệu đ ược lệnh đem binh vào đánh Diên Khánh, Lê Văn
Hưng đánh Phú Yên.
Nghe danh Trần Quang Diệu, trấn thủ Di ên Khánh là Nguyễn Văn Thành không dám ra ngênh
chiến, đóng chặt cửa thành cố thủ và cho người cấp báo với Gia Định. Th ành Diên Khánh được
xây dựng kiên cố, Trần Quang Diệu công phá không đ ược, bèn bao vây, đợi trong thành hết
lương. Gia Định được tin. Nguyễn Phúc Ánh kéo đại binh ra tiếp cứu. Trần Quang Diệu lui quân.
Tháng giêng năm Ất Mão (1795), Trần Quang Diệu lại đem thủy bộ binh v ào đánh Diên Khánh.
Lúc bấy giờ Võ Tánh đã thay thế Nguyễn Văn Thành, nên đem quân ra giao chi ến vài bận, liệu
đánh không lại nên đóng chặt của thành cố thủ, đợi Gia Định cứu viện. Tháng 2, Nguyễn Phúc
Ánh đem thủy binh ra cứu.
Quân Nguyễn Phúc Ánh bị Trần Quang Diệu chận tại Tr ường Cá (Phương Sài), nên phải đóng
ngoài biển Nha Trang và các nơi hiểm yếu trên đất. Quân không tiến lên Diên Khánh được.
Thành Diên Khánh bị Quang Diệu vây chặt. Đoàn quân nào kéo ra cũng bị Tây Sơn tiêu diệt
hoặc đánh lui. Quân hai mặt không thể li ên lạc được với nhau, ưu thế nằm hẳn trong tay Trần
Quang Diệu.
Chợt Trần Quang Diệu tin được Phú Xuân có biến. Bùi Đắc Tuyên lộng quyền, Võ Văn Dũng
đem binh về tiêu diệt, nội tình Phú Xuân rối ren.
Trần Quang Diệu nghe tin thất kinh, nói c ùng các tướng:
- Chúa thượng là người thiếu cương quyết, để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong không y ên
ủa bạn
thì đánh ngoài thế nào được!
Bèn ra lệnh rút quân về. Đi đường núi sẽ lâu, lại không tiện, Trần Quang Diệu phải mở cửa
đường biển, theo gió nam m à đi cho mau, Nguyễn Phúc Ánh không dám cản đ ường.
Đến Phú Xuân, Trần Quang Diệu đóng tại An Cựu, định đánh nhau với V õ Văn Dũng, song nhờ
có Võ Đình Tú hòa giải, nên cùng Dũng vào bệ kiến Cảnh Thịnh. Trần Quang Diệu đ ược phong
chức Thái Phó, là một trong Tứ trụ Đại thần (V õ Văn Dũng, Nguyễn Văn Danh, Nguyễn Văn
Huấn), nhưng rồi có người dèm cùng Cảnh Thịnh rằng Diệu nắm quyền quan trọng quá, e có ý
khác, Cảnh Thịnh thu hết binh quyền, chỉ để Diệu giữ hư vị trong triều mà thôi. Diệu sinh nghi
kỵ thường cáo bệnh không đi chầu, ng ày đêm cắt kẻ thủ hạ gần 200 người mang vũ khí bên mình
để bảo vệ.
Tháng tư năm Kỷ Tị (1799), Nguyễn Phúc Ánh lại kéo quân ra đánh Quy Nh ơn, tướng Lê Văn
Thanh cố thủ chờ cứu viện.
Trần Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng từ Phú Xuân kéo binh v ào. Đến Quảng Nghĩa thì bị Tống
Viết Phước chận đánh. Dũng thua to, nhờ có Quang Diệu cứu ứng. Th ành Quy Nhơn chờ viện
binh không được, nên Lê Văn Thanh mở cửa thành đầu hàng. Nguyễn Phúc Ánh đem chém tất
cả hàng tướng và đổi tên thành Quy Nhơn ra thành B ình Định. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đồng
trấn thủ. Trần Quang Diệu v à Võ Văn Dũng lui về giữ Quảng Nam.
Nhân vụ dèm pha và thư của Cảnh Thịnh gởi vào cho Võ Văn Dũng, bảo giết Diệu. Dũng đưa
thư cho Diệu xem, xem xong Diệu nổi giận:
- Chúng ta đã đem hết lòng hết sức ra phò vua. Vua đã không nghĩ đến công lao thì chớ, còn đem
lời siểm nịnh, hết phen n ày đến phen khác, sẵn tay giết chết chúng ta? T ình thế không thể kéo dài
mãi mãi. Tôn huynh hãy ở lại đây ngừa giặc, tôi về kinh.
Trần Quang Diệu về đóng binh ở phía Nam sông H ương. Cảnh Thịnh cho ra vời. Diệu không
phụng mệnh. Nhà vua sợ hãi, phải nhờ đến nữ tướng Bùi Thị Xuân. Bùi nữ tướng đến gặp chồng.
Vợ chồng bàn với nhau:
- Mối họa trong triều chỉ có bọn gian thần gây n ên. Tận diệt bọn ấy thì mối giềng lập lại không
đến nỗi khó.
Trần Quang Diệu xin vua bắt bọn gian thần trị tội.
Trần Văn Kỷ đổ tội cho Trần Viết Kiết v à Hồ Công Diệu, rồi trốn mất. Nh à vua sai bắt Diệu và
Kiết đem nạp cho Quang Diệu, Quang Diệu mới chịu v ào triều làm lễ cẩn, rồi lãnh đại binh vào
ủa bạn
Nam.
Tháng giêng năm canh Thân (1800), Tr ần Quang Diệu vào Quảng Nam, hợp vào Võ Văn Dũng
cùng vào Quy Nhơn, nhưng đ ến Bình Đê, cũng bị quân Tống Viết Ph ước cản lại. Quang Diệu
bèn sai người ra Trà Khúc lấy binh của Nguyễn Văn Giáp v à hợp sức với Trấn thủ Quảng Nghĩa
là Nguyễn Văn Lộc, tìm cách phá đường vào Quy Nhơn.
Nguyễn Văn Lộc biết rõ địa thế nơi ranh giới Quảng Nghĩa, Bình Định, bèn đề nghị chia quân ra
làm ba đạo:
- Một đạo đi ngả đèo Bến Đá.
- Một đạo theo đường hẻm phía Tây núi Sa Lung.
- Một đạo theo nẻo tắt xuyên qua núi Cung Quăng.
Ba đạo đồng lần lượt nổi trống, đánh chiêng và la ó, làm cho địch kiếp sợ, hoang mang, không
biết phải chống đỡ ngả nào, rồi ba mặt giáp công chắc chắn địch phải thua.
Trần Quang Diệu y kế, nên qua khỏi đèo Bến Đá thẳng đến thành Quy Nhơn.
Võ Tánh đem quân ra đánh. Đã từng bại tướng nơi Diên Khánh, nên vừa xáp trận, Quang Diệu
đã rượt Võ Tánh chạy dài, vào thành đóng cửa cố thủ. Trần Quang Diệu một mặt cho bao vây
công kích, một mặt phân công cho Võ Văn Dũng cầm thủy binh giữ cửa biển Thị Nại.
Quân nhà Nguyễn đã có tên, lại có đạn ở trên thành bắn xuống, quân Tây Sơn không thể đến gần
chân thành. Trần Quang Diệu cho đắp trường lũy xung quanh thành, vây khốn. Nguyễn Phúc
Ánh kéo đại binh ra cứu viện. Song bị quân Tây S ơn ngăn cản, nên phải dừng quân và phải lui về
Gia Định. Rồi ba tháng sau lại kéo quân ra đánh lại. Tuy lần n ày thủy quân chiếm được cửa biển
Thị Nại, song cũng không thể tiến quân giải cứu th ành Bình Định, bèn kéo đại binh ra đánh Phú
Xuân.
Trần Quang Diệu sau khi đánh bật Nguyễn Văn Th ành và Huỳnh Đức ra khỏi Quy Nhơn, bèn
ráo riết công thành.
Quân mệt mỏi, tên đạn cạn, lương thực thiếu, Võ Tánh liệu không tử thủ được nữa, bèn viết thư
ra cho Trần Quang Diệu, yêu cầu lúc vào thành đừng sát hại quân dân vô tội. Rồi tự vận c ùng với
Ngô Tùng Châu.
Trần Quang Diệu vào thành, ban lời khuyến dụ, rồi cho thu h ài cốt hai vị trung thần của nh à
Nguyễn chôn cất theo lễ.
Mặt Bắc, Nguyễn Phúc Ánh chiếm đ ược Phú Xuân, sai Lê Văn Diệt, Lê Chất vào cứu Quy
ủa bạn
Nhơn, bị Nguyễn Văn Lộc đánh bại, phải dừng quân ở Thạch Tân v à cửa biển Thị Nại. Thành
Quy Nhơn vẫn yên ổn. Thế quân hai bên ghìm nhau.
Chợt Trần Quang Diệu được tin quân Tây Sơn bị thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh, Nguyễn Phúc Ánh
làm chủ hoàn toàn đất Thuận Hóa thì thất kinh, bàn cùng các tướng:
- Binh mã đã bị hao ở Trấn Ninh và Nhật Lệ quá nhiều, lực lượng ở Bắc thành không còn mấy.
Nếu Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đến đánh thì Bắc thành không thể trì thủ được lâu. Ta phải đem
quân về cứu, kẻo Bắc thành thất thủ nữa thì Quy Nhơn có giữ vững cũng không ích gì. Vậy nên
bỏ thành Quy Nhơn. Võ tướng quân cùng tôi kéo đại binh ra Bắc, Nguyễn Quang đem quân đóng
ở Dương An. Nguyễn Văn tướng quân về đóng ở Kỳ S ơn, để chia bớt lực lượng của quân
Nguyễn. Không nên đóng quân trong thành mà b ị địch bao vây.
Sắp đặt xong, Trần Quang Diệu v à Võ Văn Dũng cùng các bộ tướng đem 3.000 quân và 80 thớt
voi theo đường thượng đạo sang Lào để ra Nghệ An vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất
(1802). Đường đi khó khăn, lội suối v ượt đèo, phần lam sơn chướng khí, phần rắn độc thú dữ,
phần bị bọn thổ ty theo nhà Nguyễn như Hà Công Thái, Nguyễn Đình Ba… đột kích. Đoàn tùy
tùng Trần tướng quân hao hụt dần dần. Khi đến Nghệ An th ì mười phần chỉ còn ba bốn. Đoàn
tượng binh chỉ còn mươi thớt. Tướng sĩ hầu hết bị sốt rét rừng. Trần Quang Diệu bị ph ù thũng
hai chân sưng vù, đi đứng khó khăn.
Quân họ Trần kéo xuống Hương Sơn. Tướng nhà Nguyễn là Võ Doãn Văn, Lê Đức Định dẫn
mang binh đến tập kích. Trở tay không kịp, quân sĩ bị giết sạch. Trần Quang Diệu c ùng Võ Văn
Dũng và các bộ tướng đều bị bắt.
Ở Diễn Châu, Bùi nữ tướng nghe tin liền đem nữ binh đi giải cứu.
Đến Giáp Sơn thì giải cứu được, song đến Thanh Chương thì hai vợ chồng Trần tướng công bị
bắt giải về Nghệ An.
Tháng 7 năm Nhâm Tu ất (1802) Trần Quang Diệu chịu thọ h ình lột da. Trần tướng quân trước
sau vẫn giữ vững bản sắc anh h ùng, đi đứng hiên ngang, thái độ khẳng khái. Cực hình lột gia là
một cách hành hạ tội nhân vô cùng đau đớn, khổ sở trong cái chết đến từ từ. Không một tiếng
kêu rên, một lời than thở, tướng công Trần Quang Diệu can đảm nhận chịu cực h ình cho đến hơi
thở cuối cùng.
ủa bạn
4- Nguyễn Văn Tuyết
Nguyễn Văn Tuyết người xã Nhơn Ân, huyện An Nhơn.
Lúc nhỏ có sức mạnh, ưa thích đánh nhau với lũ trẻ trong thôn, bao giờ cũng thắng. Lớn l ên tập
tụ các tay anh chị ở chợ G ò Chàm, chuyên khuấy phá xóm làng, được bầu làm đại ca. Các phiên
chợ tại chợ Gò Chàm thường rất đông người mua bán. Băng nhóm của Tuyết hoạt động rất qui
củ. Những kẻ lạ mặt đến buôn bán phải ra mắt Tuyết rồi mới đ ược cất lều buôn bán. Những kẻ
làm nghề mãi võ, bán thuốc đều làm đúng theo lệ.
Một hôm, một ông già râu tóc bạc phơ trắng như bông vải cùng hai cô gái mặt mày đẹp đẽ, đến
chợ mãi võ. Ông già không theo l ệ cũ, vừa đến liền khua chi êng khai diễn. Cô gái nhỏ múa kiếm
vun vút, khí lạnh rợn người. Người đến xem đông như kiến và tiếng vỗ tay hoan hô dậy trời.
Nguyễn Văn Tuyết nghe tin, đùng đùng nổi giận, liền kéo mươi tên thủ hạ, đến vấn tội ông gi à.
Ông già, hỏi không thèm nói, đánh không thèm đ ỡ, đứng trơ trơ như một tượng đá trời trồng.
Tuyết thất kinh bỏ về nhà, tìm cách rửa hận. Ông già và hai cô gái trú tạm tại miếu thổ địa ở sau
chợ, Tuyết đợi đến đêm khuya, giắt kiếm vào lưng, nhảy tường vào miếu. Bốn bề im phăng phắc.
Hai cô gái ngủ say. Ông già ngủ ngáy như sấm. Tuyết khẽ lén đến gần, rút kiếm đâm v ào cổ ông
già. Kiếm gãy kêu đánh rắc. Tuyết hoảng sợ chạy trốn. Ông gi à níu lại. Tuyết run sợ, quỳ xuống
chịu tội. Ông già ngồi dậy nói:
- Nhà ngươi tư chất thông minh, lại có sức mạnh xuất chúng. Sao không lo r èn võ luyện văn, để
chờ cơ hội ra giúp nước, mà lại đắm mình trong vũng bùn nhơ?
Tuyết lạy, thề quyết tâm hối cải v à van xin được theo làm môn đồ.
Ông già tên Trần Kim Hùng là một võ sư thôn Trường Định, huyện Tuy Viễn. V õ nghệ tuyệt
ủa bạn
luân, song vì con trai mất sớm, nên dẫn hai cháu nội đi giang hồ hầu t ìm nhân tài truyền thụ võ
công.
Gặp được Nguyễn Văn Tuyết, Trần l ão sư rất vừa lòng. Tuyết theo Trần lão ra đi. Trên đường
ngao du sơn thủy, Tuyết được thầy ngày đêm rèn luyện thập bát ban võ nghệ cùng truyền các
kinh nghiệm của giới giang hồ.
Một hôm, trên một đỉnh dốc cao, hai thầy tr ò gặp một tảng đá chận đường, một bên là vực thẳm
một bên là sườn núi, nên muốn đi qua phải đẩy được tảng đá xuống vực. Để thử sức v à mưu trí
của trò, Trần lão liền bảo Tuyết dẹp tảng đá. Tuyết vâng lời, hai tay ôm tảng đá, vận sức xô
xuống vực. Quả là một thanh niên có sức mạnh như Hạng Võ, Tuyết đẩy được tảng đá nghiêng
dần dần về phía vực. Bỗng nhi ên đánh rầm một tiếng, đất nơi bờ vực rời ra và sụt xuống, lôi
nhanh tảng đá lăn theo. Tuyết đang vận sức xô tới, n ên lỡ đà, loạng choạng sắp nhào theo. Nhanh
như chớp, Trần lão đã nhảy đến bên cạnh Tuyết. Tay tóm lấy cổ áo, c hân đạp mạnh vào tảng đá
đang rơi làm điểm tựa, nhảy ngược lôi theo Tuyết về phía sau.
Sau một lúc định thần, Tuyết đ ược thầy chỉ dạy:
- Khi tảng đà lung lay sắp đổ, lực đẩy của con vẫn c òn và tiếp tục xô ra. Lúc thình lình đất rơi,
con sẽ bị hụt hẫng và dường như con trở lại bị tảng đá lôi theo. Cho n ên khi ấy con phải nhanh
chóng thu hồi nội lực, dùng tảng đá làm điểm tựa để nhảy vọt về sau. Cần phải đạp l ên tảng đá
một cách hết sức nhẹ nhàng, nếu đạp mạnh, con sẽ rơi theo hòn đá. Thế đạp này giống như con
chuồn chuồn khẽ động vào mặt nước lúc đang bay để cất cánh vút bổng l ên.
Nguyễn Văn Tuyết nhờ theo thầy sống nhiều ở các khu vực núi rừng n ên kinh nghiệm và chiến
đấu trong rừng núi học đ ược rất nhiều.
Sau 5 năm theo thầy, Tuyết được ân sư cho về nguyên quán để lập nghiệp. Bọn đồ đảng cũ tụ hội
đón mừng. Tuyết sau đêm tiệc vui hội ngộ đã khuyên anh em đồng đảng giải tán, tìm công ăn
việc làm lương thiện. Một số sau này theo Tuyết quy phục nhà Tây Sơn.
Một hôm, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát nam tuần đến Quy Nhơn. Nghe đồn chúa Nguyễn có
con tuấn mã tên Xích Kỳ, Tuyết đợi đêm khuya lén vào hành cung b ắt ngựa rồi lên yên chạy
thẳng lên vùng An Khê. Trời vừa hửng sáng thì ngựa đã qua khỏi đèo Vĩnh Viễn. Con Xích Kỳ
là cống vật của Cao Miên, chúa rất yêu quý. Ngựa bị mất trộm, Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuy ên bị
tội chết. Nhờ Trương Phúc Loan ra sức cầu xin mới được miễn. Tuyên cho người đi tìm khắp
Quy Nhơn, Phú Yên, Qu ảng Nghĩa, nhưng không tìm ra bóng dáng. Khi xa giá chúa Nguy ễn trở
ủa bạn
về Phú Xuân thì trong Dinh tuần phủ Quy Nhơn bỗng thấy hiện trên vách mấy chữ lớn: "Kẻ trộm
ngựa Chúa là Nguyễn Văn Tuyết ở Tuy Viễn". Tuy ên xem thấy, hết hồn. Dặn tả hữu đừng tiết lộ,
việc được im.
Tuyết sau khi theo thầy học th ành tài, trở về Tuy Viễn, những mong cứu đồng b ào ra khỏi ách
chuyên chế của chúa Nguyễn, song không biết l àm cách nào, đành ôm ấp mộng mà chờ người
đồng khí đồng phương. Kịp khi nghe tin Tây Sơn vương chiêu mộ hào kiệt, Tuyết liền đem bộ hạ
lên sơn trại đầu quân và rất được hoan nghênh.
Tại đây, Tuyết gặp lại Trần Thị Lan, cô cháu gái của s ư phụ đang sống cùng với chị dưới trướng
Bùi Thị Xuân. Họ cùng nhau kết duyên trăm năm.
Khi Nguyễn Nhạc xưng vương, Nguyễn Văn Tuyết được phong tả Đô đốc, cùng với Hữu Đô đốc
Nguyễn Văn Lộc tháp tùng Nguyễn Nhạc tấn công huyện Tuy Viễn. Chiếm được huyện lỵ,
Nguyễn Văn Tuyết ở lại trấn giữ.
Khi Nguyễn Huệ ra Thuận Hóa rồi Thăng Long th ì Nguyễn Văn Tuyết cũng đi theo v à lập được
nhiều công trạng. Sau khi bình định Thăng Long, Đô đốc Tuyết ở lại Bắc th ành cùng với Ngô
Văn Sở, Phan Văn Lân.
Tháng 10 năm Mậu Thân (1788), ba đạo quân M ãn Thanh tiến vào Thăng Long, Tây Sơn t ạm
thời lui quân. Nguyễn Văn Tuyết c ưỡiXích Kỳ về Phú Xuân báo cáo t ình hình.
Ngày 25 tháng 11, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế. Nguyễn Văn Tuyết lãnh chức Đại Đô đốc
cùng với Đại Đô đốc Nguyễn Văn Lộc thống l ãnh đạo tả quân kiêm cả bộ binh lẫn thủy quân.
Tuyết giữ nhiệm vụ kinh lược Hải Dương, ứng tiếp mặt Đông.
Ngày mồng bốn tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), đồng một loạt với các cánh quân khác, Đại Đô
đốc Nguyễn Văn Tuyết đã tấn công đạo quân Thanh đóng ở Hải D ương. Trại giặc vỡ tan, quân
lớp bị tiêu diệt, lớp bị đạp lên nhau mà chạy. Chạy một mạch thẳng về T àu. Diệt xong giặc ngoại
xâm, Đại Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết về Phú Xuân. Vua Quang Trung mất, ông c ùng bà Bùi Thị
Xuân phò vua Cảnh Thịnh lo việc trấn giữ kinh th ành. Sau hai vợ chồng được cử ra gìn giữ Bắc
thành.
Tháng 6 năm Nhâm Tu ất (1802), Nguyễn Phúc Ánh rầm rộ kéo đến Thăng Long. Liệu chống
không nổi, Đại Đô đốc Tuyết cùng phu nhân đưa vua Bửu Hưng cùng cung quyến sang sông Nhị
Hà, chạy lên vùng núi phía Bắc, có Đô đốc Nguyễn Văn Tứ v à Tư mã Nguyễn Văn Dung theo
hộ giá. Đoàn ngự giá đến Xương Giang, bị quân Nguyễn bao vây. Hai ông b à Đại Đô đốc Tuyết