TÂM THỨC CỒNG CHIÊNG
Vùng văn hóa Tây Nguyên đã để lại những ấn tượng đặc biệt hấp dẫn trong dòng chảy văn hóa Việt Nam và thế giới. Nói đến Tây Nguyên là nhắc đến những biểu tượng văn hóa được hóa thân trong các loại hình nghệ thuật của hơn 30 dân tộc thiểu số, đặc biệt là những cư dân bản địa như người ê-đê, Ba-na, Brâu, Gia-rai, Sê-đăng, Triêng.
TÂM THỨC CỒNG CHIÊNG
1. Vùng văn hóa Tây Nguyên đã để lại những ấn tượng đặc biệt hấp dẫn trong dòng chảy văn
hóa Việt Nam và thế giới. Nói đến Tây Nguyên là nhắc đến những biểu tượng văn hóa được hóa
thân trong các loại hình nghệ thuật của hơn 30 dân tộc thiểu số, đặc biệt là những cư dân bản
địa như người ê-đê, Ba-na, Brâu, Gia-rai, Sê-đăng, Triêng.
Nói đến Tây Nguyên cũng có nghĩa là lo lắng đến những di sản văn hóa nghệ thuật có tính chất
nguyên hợp đang có nguy cơ biến mất hoặc bị lai tạp cùng với tâm thức của chủ nhân của nó.
Hãy lùi lại thời gian để tìm kiếm một đêm khan đích thực với dầy đủ sự giao cảm và siêu thoát
giữa người, tộc người với thần linh. Hãy tìm kiếm một không gian nguyên sơ để đối thoại, độc
thoại với những tượng mồ, nhà mồ thì may chăng "cảm thông" với những người chết, những thế
hệ đã "chết"! Hãy đóng lại một chiếc khố và nhảy múa, hò hét để tìm lại diện mạo của mình
trong buổi hồng hoang ! Rồi, trong sâu thẳm, hãy lắng nghe tiếng cồng chiêng theo đuổi suốt
một đời người, kể lừ khi "gọi tên giọt sương", rồi sinh ra cho đến khi chết đi... Tiếng chiêng dài
hơn đời người, tiếng chiêng nối liền, kết dính những thế hệ.Có lẽ vì vậy mà Lévi Strauss - nhà
xã hội học, văn hóa học, người suốt đời đấu tranh cho sự đa dạng của các nền văn hóa đã
khẳng định : "Tính đa dạng của các nền văn hóa con người, có thật trong hiện tại và cũng có
thật trong quá khứ, là lớn hơn và phong phú hơn nhiều so với những gì mà chúng ta đã biết tới"
(1) . Bài viết này cũng cố gắng nói về cái "lớn hơn" và "phong phú hơn nhiều" ấy trong âm nhạc
cồng chiêng Tây Nguyên. Thế nhưng, cái "lớn lao" và "phong phú" ấy thật khó lý giải bằng biện
pháp định lượng chia cắt, đo đạc mà lại ẩn tàng trong sự cảm nhận tâm linh, trong sự giao cảm
của những "thời điểm mạnh". Cái đó ẩn hiện trong tâm thức cồng chiêng !2. Nói như vậy không
có nghĩa là chúng ta không có cách để "vật chất hóa" loại hình nghệ thuật "phi vật thể" này. ở
vùng văn hóa đặc chất Tây Nguyên, có bao nhiêu dân tộc (tộc người) thì có bấy nhiêu cách ứng
xử cồng chiêng. Sự phong phú, đa dạng, giàu bản sắc trong văn hóa cồng chiêng không hẳn nói
đến tính thế tục của nó mà cái chính là chiếc cầu nối giữa hai thế giới : hữu hình và vô hình.
Phải chăng cồng chiêng nói đến sức mạnh, nội lực tinh thần của từng dân tộc. Người ê-đê tự
hào về tiếng chiêng của chàng Đăm San vì khi được đánh lên, tiếng chiêng của chàng làm cho
"ma , "quỷ quên làm hại người"chuột sóc quên đào lỗ, rắn nằm quay đơ", "voi và tê giác phải
lắng nghe và quên cho con bú" . Đối với người Brâu thì chiêng Tha không phải là nhạc khí mà là
thần linh, họ không gọi là đánh chiêng mà là "mời Tha nói", "vì là vật quí và thiêng liêng nên thủ
tục mời chiêng Tha nói rất khắt khe và cho đến bây giờ, chiêng Tha chưa được sử dụng rộng rãi
trong sinh hoạt đời thường. Muốn đánh chiêng Tha phải xin phép già làng và phải có gà, rượu"
(2) . Người Giê-triêng thì xem cồng chiêng là biểu tượng của mặt trăng, tính nữ. . . Có thể nói
rằng, hầu như mọi hoạt động văn hóa của người Tây Nguyên đều có cồng chiêng. Nhiều nhà
khoa học còn phát hiện ra từng tiết tấu giai điệu đặc trưng của cồng chiêng trong mỗi dân tộc.
"Cồng chiêng ê-đê nhịp điệu phức hợp, tốc độ nhanh, cường độ lớn. Cả bài nhạc là những chùm
âm giàu màu sắc nối tiếp, đan xen nhau. .. Cồng chiêng M'nông cường độ không lớn mặc dù tốc
độ khá nhanh. Nhưng bản nhạc lại là một cuộc đối thoại vui vẻ của những cái chiêng. . . có thể
cảm nhận rằng đó là tiếng suối chảy, tiếng gió thổi, tiếng rừng cây xào xạc, tiếng gia súc dưới
sàn nhà và trên hết là tiếng người . . . Cồng chiêng Ba-na, Jơ-rai thiên về tính chất chủ điệu của
âm nhạc. Một bè trầm của các cái cồng (có núm) vang lên với âm sắc đầy đặn, vững chãi, hùng
tráng. Bên trên là bè giai điệu thánh thót của các cái chiêng (không có núm) với âm sắc đanh
gọn, lảnh lót. Hai bè hòa vào nhau trong thế đối thoại được coi như câu chuyện Đất và Trời" (3) .
Tuy nhiên, khi gióng lên tiếng chiêng trong các dịp lễ : từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả,
lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. . hay trong một buổi nghe
khan, người dân Tây Nguyên không nghĩ đến những tiết điệu có vẻ rất khoa học đó. Với họ,
cồng chiêng mang tính tín ngưỡng nhiều hơn là "khoa học về nghệ thuật", dĩ nhiên khi tiếng
chiêng được gióng lên, làm sao có thể phân biệt được đâu là tín ngưỡng và đâu là nghệ thuật.
Cũng giống như người Chăm khi dựng lên Thánh địa Mỹ Sơn đã để lại những kiệt tác về kiến
trúc và điêu khắc mà ngày nay nó đã trở thành Di sản Văn hóa thế giới.Như vậy, cồng chiêng
bộc lộ trạng thái tinh thần của từng dân tộc, bộc lộ diện mạo văn hóa của từng dân tộc trong
quá trình sinh thành và phát triển. Cồng chiêng đi cùng năm tháng với nỗi lo toan mất mùa và
niềm vui sai hạt. Cồng chiêng chống lại thời gian và không gian bằng tâm linh cộng đồng vĩnh
cửu. Có lẽ, chúng ta đã bước qua thời tiền sử quá lâu nên nhiều khi không còn nghe, còn hiểu
được sự ưu tư của cồng chiêng trong mùa lễ hội, cũng như một số gia đình dân tộc ít người, do
những hoàn cảnh khác nhau, đã mang vật thiêng cồng chiêng đi bán để đổi lấy miếng cơm
manh áo, hoặc đổi lấy sự hào nhoáng của văn minh hiện đại. Phải chăng không ai có lỗi trong
những trường hợp đáng tiếc này mà đấy là sự cảnh báo về sự rạn vỡ, thay đổi tâm thức văn hóa
đang diễn ra ở các dân tộc ít người Tây Nguyên? Trong khi đó, ngoài giá trị âm nhạc, cồng
chiêng tự nâng mình lên thành tâm thức với những bí ẩn về quan niệm, tư duy, mô thức ứng xử
cộng đồng và với tự nhiên, với thế giới siêu nhiên. Bởi lẽ, mỗi khi cồng chiêng được gióng lên là
lúc mỗi thành viên trong cộng đồng có thể nghe thấy được những điều không nói ra, và nhìn
thấy, cảm nhận được những cái vô hình.Sẽ rất khó khăn để nói hết được giá trị văn hóa cồng
chiêng vì rằng đây là một sinh hoạt văn hóa nguyên hợp có tính chất tín ngưỡng, tâm linh và
nghệ thuật cộng đồng. Hơn thế nữa, đây là sinh hoạt văn hóa mang đậm dấu ấn thời điểm và
môi trường, bởi lẽ văn hóa cồng chiêng không có tính chất thường nhật. Một "thời điểm mạnh"
của lễ, lễ hội, một môi trường cộng cảm, cộng cư, cộng mệnh là những yếu tố làm cho cồng
chiêng thăng hoa những giá trị. Thế nhưng, sự kỳ vọng về dạng thức thăng hoa văn hóa đó của
cồng chiêng đang vấp phải những trở lực đáng buồn. Cồng chiêng đã, đang và sẽ "chảy máu" !
Tâm thức cồng chiêng sẽ bị biến mất! Tiếng kêu cứu đã vang vọng cả một vùng Tây Nguyên,
đánh thức sự mê mải trong đời sống vật chất, đặc biệt ở Đắc Lắc đã có nhiều trường hợp đáng
tiếc xảy ra. "Tại buôn Dâng Yang, Bông Kjang (huyện Lak) đồng bào M'nông ở đây đã bán hết
số cồng chiêng của mình. Tại xã Krông Buk (huyện Krông Păk) bà con bán một đợt gần 150 bộ
cồng chiêng cho bọn gian thương. Một số buôn làng ở M'drăk bán cho bọn gian thương từ Lâm
Đồng sang hàng chục đợt cồng chiêng, mỗi đợt từ 10 đến 15 bộ. Chỉ tính sơ bộ số cồng chiêng
thất thoát ở Đắc Lắc theo con đường gian thương (từ l991-l995) đã lên tới trên 500 bộ" (4). Phải
chăng không còn giải pháp nào làm cho cồng chiêng sống lại với tâm thức cộng đồng? Phải
chăng không còn môi trường văn hóa để cồng chiêng bộc lộ giá trị vô hình của mình như một
mục đích tự thân và nhân bản ? Sẽ thế nào nếu vùng văn hóa Tây Nguyên không còn văn hóa
cồng chiêng Không ai có thể hình dung nổi lỗ hổng văn hóa đó tác hại như thế nào đối với bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Thật ra, sự mất mát văn hóa đó có nguyên nhân sâu xa từ sự
thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội. Người dân bản địa Tây Nguyên không thể sống mãi với
đời sống du canh du cư, tự cung tự cấp mà phải tự tìm kiếm sự phát triển trong sự hòa nhập
kinh tế - xã hội . Điều quan trọng là phải củng cố thêm các lớp văn hóa của mỗi tộc người chứ
không phải đánh mất hoặc làm tha hóa. Thêm vào đó, một số kẻ đội lốt tôn giáo cố tình phá bỏ
cồng chiêng, phá bỏ lễ hội trong đồng bào theo đạo Tin lành. Cồng chiêng đã ra đi lúc lặng lẽ,
lúc ồ ạt theo sự ma mãnh của mặt trái kinh tế thị trường.3. Trong tính nguyên hợp văn hóa, mất
cồng chiêng là mất nền văn hóa cồng chiêng, cũng có nghĩa là mất tâm thức, bản sắc dân tộc.
Sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu như chúng ta chìm đắm trong sự ngời ca những giá trị văn hóa cồng
chiêng, đồng thời mặc nhiên nhìn thấy sự "chảy máu" ấy mà không có một ý tưởng, giải pháp gì
để cứu vãn hoặc hồi sinh vốn quí đó. Thế nhưng cứu vãn, bảo vệ và phát huy nó như thế nào lại
là một điều không đơn giản. Ngay cả về khái niệm và sự định danh của hình thức sinh hoạt văn
hóa đặc biệt này. Có người cho rằng "cồng chiêng là sản phẩm của văn hóa vật chất", vì chúng
ta có thể "sờ mó" cồng chiêng được . . .Thế nhưng, nghệ thuật cồng chiêng, tâm thức cồng
chiêng không đơn giản có thể "sờ mó" được. Nó là văn hóa phi vật thể theo như cách phân định
của UNESCO: "Di sản văn hóa phi vật thể bao hàm toàn bộ những sáng tạo trên cơ sở truyền
thống của một cộng đồng văn hóa được nhìn nhận như là sự phản ánh sống động những khát
vọng mọi mặt trong cuộc sống của cộng đồng đó, được lưu truyền và biến tấu bằng nhiều
phương thức khác nhau như truyền khẩu, mô phỏng, bắt chước.. . Nghĩa là nó bao gồm các loại
hình văn học nghệ thuật chủ yếu như âm nhạc, ca múa, sân khấu ngôn ngữ, phong tục, tập
quán...". Việc xác định đúng khái niệm di sản văn hóa phi vật thể này liên quan trực tiếp đến
việc triển khai công tác khảo sát, điều tra đúng hướng, đúng đối tượng cần được gìn giữ và phát
huy. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng văn hóa cồng chiêng ở Tây Nguyên, người
viết bài này thử nêu lên một vài ý tưởng để củng cố và phát huy tâm thức cồng chiêng như
sau :Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần xây dựng đường lối, chủ tương chính sách, các văn bản
pháp lý nhằm giữ gìn và khai thác giá trị văn hóa cồng chiêng nói riêng và di sản văn hóa nói
chung. Trong lĩnh vực này cần có chế độ, chính sách ưu đãi đối với các nghệ nhân, già làng vì
đây là một "kho tàng sống" . "ở Châu Phi, một cụ già mất đi, điều đó cũng có nghĩa là một thư
viện cổ đã bị đốt cháy" (Hapaté BÂ - người Buốckina Faso). Chính vì vậy mà một trong những
nhiệm vụ quan trọng cấp bách mà nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) đặt ra là "coi trọng và
bảo tồn phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn
hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số"..." đặc biệt là "phát huy tài năng các nghệ
nhân" (5) Trong quá trình xây dựng chính sách văn hóa phải đặc biệt lưu tâm đến tâm thức, bản
sắc văn hóa của từng dân tộc, tránh rập khuôn, máy móc, áp đặt những mô hình văn hóa hiện
đại vào tất cả các dân tộc mà không phân biệt điều kiện địa lý, sinh thái môi trường, cơ cấu kinh
tế và tổ chức xã hội. . . ảnh hưởng rất nhiều đến bản sắc văn hóa từng dân tộc. Có như vậy
chúng ta mới tìm thấy sự "thống nhất trong đa dạng" của nền văn hóa Việt Nam.Thứ hai là,
trong quá trình điều tra, khảo sát thực trạng di sản văn hóa phi vật thể, cần chú ý ưu tiên đến
văn hóa cồng chiêng vì đây là sinh hoạt văn hóa đặc thù có nguy cơ bị mai một và tiêu vong.
Tiếng chiêng có thể vượt đèo, lội suối, băng núi, vượt sông để đến với thần linh, trời đất nhưng
không thể vượt qua những dãy phố sầm uất, những khu chung cư chăng đầy "mạng nhện" hay
làm cho những con vật trong sở thú giật mình. Hơn nữa, cồng chiêng không chấp nhận những ai
chưa từng sống ở núi rừng, chưa biết hồn của núi rừng, chưa biết hồn cây, hồn trâu, hồn lúa. ..
Về mặt khoa học kỹ thuật, ý tưởng về việc "văn bản hóa", "vật chất hóa" các thao tác trong
nghệ thuật cồng chiêng là cần thiết, tuy nhiên đi đôi với việc ghi hình, ghi âm... chúng ta cần tạo
điều kiện để cồng chiêng được về với cội nguồn của nó.Thứ ba là, xã hội hóa các hoạt động
văn hóa để nuôi giữ những giá trị truyền thống đồng thời phát hiện những giá trị mới về văn hóa
cồng chiêng trong nhân dân. Có thể tạo điều kiện để lễ hội truyền thống phát triển vì chính môi
trường lễ hội mới có thể nuôi dưỡng, tái sinh các lớp biểu tượng - cái làm nên tâm thức cồng
chiêng nói riêng và tâm thức cộng đồng, dân tộc nói chung. Có thể tổ chức liên hoan văn hóa
nghệ thuật truyền thống để kêu gọi ý thức trân trọng di sản của mọi người dân, đặc biệt là thế
hệ trẻ. Và một việc làm thiết thực nữa là cần đưa vấn đề di sản văn hóa (đặc biệt là di sản văn
hóa phi vật thê) vào hệ thống giáo dục quốc dân để thế hệ trẻ, để mỗi người dân không còn
thấy xa lạ với những giá trị văn hóa mà cha ông, tổ tiên chúng ta đã để lại.Có thể còn rất nhiều ý
tưởng nữa trong hành trình bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc nhưng trên hết phải có sự
đồng thuận văn hóa. Có thể còn nhiều vấn đề chưa nói hết được trong văn hóa cồng chiêng
nhưng sự kỳ vọng về lương lai bằng những ý tưởng văn hóa khiêm tốn là cần thiết. Vì rằng,
trong tính nguyên hợp của mình, giá trị, tâm thức cồng chiêng vẫn còn đang ở phía trước.