Tài liệu về CUỘC CHIẾN GIỮA BOEING - DOUGLAS TRONG NGÀNH HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG
Trong cuốn biên niên sử về những cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các tập đoàn của thế kỷ vừa qua, không có nhiều cuộc cạnh tranh diễn ra căng thẳng và kéo dài như cuộc cạnh tranh giữa Boeing và Douglas để chiếm vị trí tiên phong trong ngành công nghiệp chế tạo máy bay thương mại. Đây là cuộc đấu giữa hai người sáng lập ra hai công ty này – Wiliam Boeing và Donald Douglas - những người đã bị cuốn vào cơn bão bùng nổ của ngành hàng không hồi đầu thế kỷ.......
10:43:41 a3/p3
CUỘC CHIẾN GIỮA BOEING - DOUGLAS
TRONG NGÀNH HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG
Trong cuốn biên niên sử về những cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các tập đoàn của thế
kỷ vừa qua, không có nhiều cuộc cạnh tranh diễn ra căng thẳng và kéo dài như cuộc cạnh
tranh giữa Boeing và Douglas để chiếm vị trí tiên phong trong ngành công nghiệp chế tạo máy
bay thương mại. Đây là cuộc đấu giữa hai người sáng lập ra hai công ty này – Wiliam Boeing
và Donald Douglas - những người đã bị cuốn vào cơn bão bùng nổ của ngành hàng không hồi
đầu thế kỷ.
Cuộc đấu giữa tập đoàn Boeing và Doughlas bắt đầu vào thập kỷ 20 của thế kỷ trước
và kéo dài gần 40 năm. Họ lần lượt vượt qua đối thủ thông qua những cải tiến và cả thành
công trong chiến lược marketing kể từ khi ngành công nghiệp máy bay trở thành một trong
những ngành trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Mặc dù có thời điểm tập đoàn Douglas đã
hoàn toàn thắng thế trước đối thủ Boeing, nhưng Boeing mới là công ty đạt được chiến thắng
cuối cùng vào cuối thập kỷ 60 khi công ty Douglas đã không còn đủ nguồn lực và các dây
chuyền sản xuất để có thể có cơ hội vượt lên đối thủ thêm một lần nào nữa. Nhà máy sản
xuất của Douglas tại Long Beach cuối cùng đã bị Boeing mua lại và đến năm 1997 thì toàn bộ
những gì còn lại của hãng này đã hoàn toàn thuộc về Boeing.
Wiliam Boeing (1881-1956) đã bắt đầu ấp ủ giấc mơ trở thành một nhà công nghiệp
trong ngành hàng không từ khi được đi trên chiếc thuỷ phi cơ bay qua Puget Sound. Vào thời
điểm đó, ông đang giúp gia đình điều hành việc kinh doanh gỗ đầy sinh lợi ở Seattle sau khi
bỏ học giữa chừng ở trường Đại học Yale nổi tiếng. Không lâu sau chuyến bay đáng nhớ đó,
ông chuyển đến vùng phía nam California nơi ông đã học lái máy bay và mua được chiếc thuỷ
phi cơ đầu tiên cho mình từ Glenn Martin - một nhà chế tạo máy báy tại Santa Ana (chính
công ty của ông này đã đóng góp một phần quan trọng khác vào sự phát triển của ngành hàng
không vũ trụ và hiện nay chính là một phần của tập đoàn Lockheed Martin.)
Quay trở lại Seattle, Boeing bắt đầu chế tạo chiếc thuỷ phi cơ đầu tiên và vào năm 1916
ông đã sát nhập công ty của mình với công ty Pacific Aero. Công ty của ông đã bán được chiếc
máy bay đầu tiên cho chính phủ New Zealand dùng cho việc chuyển thư. Đến năm 1917 công
ty bắt đầu chính thức lấy tên là Boeing. Vào giữa thập kỷ 20, Boeing bắt đầu tiến hành công
việc kinh doanh không chỉ ở việc sản xuất ra những chiếc máy bay cải tiến hơn mà Boeing
10:43:41 a3/p3
còn xây dựng được những nền móng đầu tiên cho sự ra đời của một công ty chuyên vận tải
bằng đường hàng không mà sau đó trở thành công ty United Airlines.
Boeing đã có một chiến lươc rất khôn khéo trong kinh doanh. Đó là ông cho thành lập
công ty mẹ của tập đoàn Boeing và sau đó dùng công ty mẹ này tiến hành các hoạt động mua
bán cổ phiếu của các công ty con trên thị trường để nhằm đẩy giá cổ phiếu lên - một “thủ
đoạn” đầu tư khôn khéo gần giống với với phương thức huy động vốn mà sau này đã làm tên
tuổi của J.P.Morgan trở nên nổi tiếng. Phương cách này đã làm cho giá trị tài sản của Boeing
nhân lên gấp nhiều lần nhưng cũng buộc ông phải điều trần trước Uỷ ban điều tra của
Thượng viện. Tức giận trước sự điều tra của Uỷ ban này, Boeing đã bán toàn bộ cổ phiếu
của ngành hàng không vào tuổi 52 và rút khỏi ngành này. Công ty mẹ cũng bị buộc phải từ bỏ
toàn bộ sở hữu cổ phiếu ở các công ty con. Boeing về hưu nhưng ông đã để lại cho công ty
của mình một đội ngũ quản lý đầy kinh nghiệm.
Trong suốt thập niên 30, dưới nhãn hiệu Boeing, công ty đã dẫn đầu trong việc chế tạo
ra các máy bay cánh đơn với một hình dáng mang tính khí động học hơn, hệ thống hạ cánh tự
do (có thể kéo ra kéo vào dễ dàng) và các thiết bị dẫn đường tốt hơn. Trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, công ty được đặt hàng chế tạo pháo đài bay B-17 - một trong những máy bay ném
bom chủ yếu của lực lượng Đồng minh.
Trong khi đó, vào năm 1908, Donald Douglas (1892-1981) chính là người đã phát hiện
được lỗi kỹ thuật của chiếc Wing Brothers khi nó được trình diễn trong Triển lãm hàng không
của quân đội Mỹ. Douglas - một kỹ sư tài năng – đã có được tấm bằng kỹ sư cơ khí sau hai
năm học tại trường MIT. Ông làm việc cho Glenn Martin cho đến năm 1920 và sau đó tự đứng
ra mở công ty chế tạo máy bay dưới hình thức là một tiệm cắt tóc tại Los Angeles. Douglas
có được hợp đồng lớn đầu tiên trong đời khi ông chủ của Transworld Airlines, Jack Frye,
muốn có được một chiếc máy bay thế hệ mới hoàn toàn bằng kim loại với 3 động cơ có sức
chứa 12 người. Và Douglas đã giành được hợp đồng này khi ông thiết kế được một chiếc
máy bay chứa được tới 14 người nhưng có tốc độ cao hơn và chỉ gồm có hai động cơ. Chiếc
máy bay này, chiếc DC-1, đã đặt nền móng cho ông trở thành người thống trị trong ngành chế
tạo máy bay dùng cho mục đích thương mại. Vào năm 1934, Douglas bắt đầu thực hiện việc
chế tạo chiếc máy bay thuộc thế hệ DC-3 nổi tiếng - một thế hệ máy bay đã tạo một cuộc
cách mạng trong ngành vận tải bằng đường hàng không trong vòng gần 20 năm và củng cố vị
trí của ông trong ngành hàng không dân dụng.
Chuyến bay đầu tiên của chiếc DC-3 được thực hiện vào ngày 17/1935. Kể từ đó,
những máy bay thuộc thế hệ này nhanh chóng được các hãng hàng không tin dùng trên các
đường bay thuở ban đầu của mình. Chiếc DC-3 có từ 21 đến 28 chỗ ngồi, đạt tốc độ 180 km/
10:43:41 a3/p3
1h và chạy liên tục 1.000 dặm mà không cần tiếp nhiên liệu. Trong suốt Chiến tranh thế giới
thứ hai, những máy bay loại này là phương tiện vận tải chủ yếu của quân đội Mỹ (kiểu dùng
riêng cho mục đích quân sự được gọi là C-47). Chúng được dùng để kéo các tàu lượn, thả lính
nhảy dù và chuyển chở hàng. Những chiếc DC-3 đã trở nên nổi tiếng hơn cả những máy bay
hiệu 247 của đối thủ Boeing. Trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai, hãng Douglas
chiếm tới 80% thị phần trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Tổng cộng, hãng Douglas sản
xuất được 11,000 chiếc DC-3 và C-47. Ngày nay, thậm chí vẫn còn tới khoảng 500 chiếc DC-
3 vẫn còn được sử dụng cho mục đích chuyên chở và quân sự ở các nước thuộc thế giới thứ 3
và khu vực Mỹ La tinh.
Nhưng bắt đầu từ đầu thập kỷ 50, hãng Douglas bắt đầu trở nên yếu thế trước kình
địch Boeing. Dù có con trai trợ giúp trong việc điều hành công ty nhưng ông Douglas đã tỏ ra
lưỡng lự trong việc tập trung nguồn lực cho việc phát triển thế hệ máy bay phản lực kiểu
DC-8, tạo Boeing một cơ hội vàng khi nhanh chân cho ra đời thế hệ máy bay phản lực kiểu
707 mà bay chuyến đầu tiên vào năm 1954. Chính sự thành công trong thế hệ máy bay này đã
làm cho Boeing xoay chuyển được tình thế, đánh bật hãng Douglas ra khỏi vị trí dẫn đầu và
nắm chắc được cơ hội phát triển vàng trong tay. Từ đó Boeing bắt đầu tạo được khoảng cách
với Douglas.
Vào cuối thập niên 60, trong khi hãng Douglas đang chật vật với kiểu máy bay DC-10 của
mình thì hãng Boeing đã ngày càng vượt xa hơn đối thủ với kiểu máy bay 747 rất thành công.
Tình hình tài chính ngày càng tồi tệ cùng với nguy cơ sẽ phải đối mặt với tương lai phát triển
không mấy sáng sủa, Donald Douglas miễn cưỡng phải chấp nhận bán công ty của mình cho
James McDonnell - một đối thủ mới nhảy vào bằng việc xây dựng một nhà máy chế tạo máy
bay quân sự tại St. Lo. Thế là từ đó, hãng Douglas dần biến mất khỏi ngành hàng không dân
dụng. Hãng Boeing mất đi một đối thủ cạnh tranh đáng gờm và từ đó chiếm luôn vị trí độc
tôn trong công nghiệp chế tạo máy bay.