Tài liệu: Lịch sử Việt Nam
Người Việt có màu da ngà và đa số có máu loại O và RH+ (rê giút dương) (80%); có nhiều huyết sắc E nên cơ thể có sức chịu đựng bền bỉ và thích ứng dễ dàng với các loại thời khí cùng các thực phẩm khác biệt. Râu và tóc đen, tiết diện tròn nên có dáng thẳng. Về già, râu tóc đổi thành mầu bạc (trắng).
Lịch Sử Việt Nam
Phạm Quân Khanh
Muc Luc
Chương Một : Khái lược về nhân văn
I. Đại Cương Về Người Việt
II. Địa lý và quốc hiệu
III. Đại cương về văn hóa Việt tộc
Chương Hai
I. Thời đại Thái cổ (trước Thế Kỉ 29 tr.D.L.)
II. Thời đại Hồng Bàng (2879 tr.D.L. 257 tr.D.L.)
III Thời Thục (257 tr.D.L. 207 tr.D.L.)
IV. Thời Triệu (207 tr.D.L. - 111 tr.D.L.)
V. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (111 tr.D.L. - 39) (Lần thứ
nhất)
VI. Thời Nữ vương họ Trưng (40-43)
VII. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (43-544) (Lần thứ hai) - Bà
Triệu
VIII. Thời Lý (544 - 602)
IX. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (603-939) (Lần thứ ba)
X. Thời Ngô (939 - 965)
XI. Thời Đinh (968 - 980)
XII. Thời Lê (980 - 1009) (Tiền Lê)
XIII. Thời Lý (1009 - 1225) (Hậu Lý)
XIV. Thời Trần (1225 - 1400)
XV. Thời Hồ (1400 - 1407)
XVI. Hậu Trần Kháng Chiến Chống Tàu (1407 -
1413) (Hậu Trần)
XVII. Thời kỳ bị Tàu (nhà Minh) đô hộ (1414 - 1427)
XVIIỊ Thời Lê (Hậu Lê) (1428 - 1527)
XIX. Thời Lê - Mạc tranh quyền (1527 - 1592)
XX. Thời Lê trung hưng (1592 - 1788)
XXI. Thời Tây Sơn (1788 - 1802)
XXII. Thời Nguyễn (1802 - 1884)
XXIII. Pháp Xâm Chiếm Việt Nam
XXIV. Nhật tranh quyền đô hộ với Pháp ở Việt Nam
Phụ Chương
Tài Liệu Tham Khảo
Chương Một : Khái lược về nhân văn
I. Đại Cương Về Người Việt
Ạ. Nhân chủng
Người Việt có màu da ngà và đa số có máu loại O và RH+ (rê giút dương)
(80%); có nhiều huyết sắc E nên cơ thể có sức chịu đựng bền bỉ và thích
ứng dễ dàng với các loại thời khí cùng các thực phẩm khác biệt.
Râu và tóc đen, tiết diện tròn nên có dáng thẳng. Về già, râu tóc đổi thành
mầu bạc (trắng).
Mắt có dáng ngang, hơi chéo lên ở phía dưới mi mắt dưới. Độ chéo ở đuôi
mắt đối với đường ngang từ đầu mắt trung bình từ 3 độ tới 5 đô.. Con
ngươi thường có mầu đen hoặc nâu sậm. Mi mắt dưới có bầu dài theo mắt
(gọi là ngoạ tầm) (chi tiết này là một trong các đặc điểm nhân chủng của
người Việt). Mí mắt trên có hai mí. Độ dầy căn bản của mắt bằng độ
phẳng hợp bởi xương mi và xương gò má.
Khuôn mặt có cằm trung bình, xương hàm không tọ Đa số người Việt có
sống mũi hơi trũng (gẫy) ở khoảng ngang hai mắt. Hệ thống xương đầu có
chỉ số 80 (đầu tròn).
Các trẻ em mới sinh có bớt mầu chàm ở lưng, từ khoảng ngang thắt lưng
tới vùng cuối xương sống (chi tiết này cũng là một trong các đặc điểm
nhân chủng của người Việt).
Người Việt có môi thuộc loại có nét (vành môi rõ rệt) và độ dầy trung
bình, môi dưới thường nhỉnh hơn môi trên. Độ dầy trung bình bằng 1/4 bề
ngang (chiều rộng của miệng ngậm).
Răng to và dài vừa phảị Bề mặt bộ răng thường xếp không phẳng. Từ đầu
thế ký? 20 trở về trước hầu hết dân Việt nhuộm răng đen.
Người Việt có dáng điệu bình thản và tinh nhanh. Khổ người trung bình,
bề cao của nam giới khoảng 1 thước 65 và nữ giới khoảng 1 thước 58. Bề
cao thay đổi tuỳ điều kýện sinh hoạt và ẩm thực.
B. Y phục, di chuyển và thực phẩm
Y phục của người Việt thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh sinh hoạt và địa
lý.
Từ đầu thế ký? 20 trở về trước, thường ngày đa số dân chúng mặc quần,
áo ngắn, gọn gàng, mầu xẫm gần với mầu đất, mầu vỏ cây hoặc lá. Đội
đầu gồm có khăn và nón. Trong các lễ nghi, y phục thường dài, rô.ng.
Di chuyển trên bộ thường đi chân, cưỡi ngựa hoặc dùng xe kéo bằng trâu,
bò hay ngựạ Cũng có khi dùng cáng, kiệu do người khiêng.
Trên nước di chuyển bằng thuyền. Có nhiều loại thuyền, thường thường
làm bằng tre và gỗ. Loại thuyền gỗ bọc đồng dùng cho quân độị Kiểu
thuyền tuỳ thuộc vào nhu cầu và diện tích của vùng nước (sông hay biển).
Y phục và phương tiện di chuyển thay đổi nhiều từ khi Việt nam tiếp xúc
với các quốc gia ký~ nghệ Âu Mỹ, nhưng vì dân chúng Việt nam sống
trong hoàn cảnh kỹ thuật chậm tiến và nghèo khó nên các loại phương tiện
hiện đại không được đầy đủ. Thực phẩm chính của người Việt là lúa gạọ
Trong bữa ăn hàng ngày, cơm là thức ăn chính rồi kế tiếp là nước mắm,
rau, cá, thịt ...
C. Trí Tuệ
Người Việt có đời sống tâm linh cao. Quý trọng đạo đức hơn vật chất.
Biết quân bình tình và lý. Thông minh, trí nhớ bền; có khả năng thích ứng
với mọi hoàn cảnh. Người Việt nói cùng một thứ ngôn ngữ tiếng Việt
nhưng thay đổi đôi chút tuỳ theo không gian (địa phương) và thời gian.
II. Địa lý và quốc hiệu
Diện tích lãnh thổ và quốc hiệu thay đổi nhiều lần trong lịch sử dân Việt.
Địa bàn sinh hoạt căn bản là vùng châu thổ Bắc Việt, định giới bởi Bắc
Sơn và Hoà Bình.
Vào niên đại vua Kinh Dương, năm 2879 tr.D.L., với quốc hiệu Xích Quỷ,
địa bàn quốc gia rộng lớn, phía bắc tới sông Dương tử (cả vùng hồ Động
Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải
(một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, thuộc
nước Tàu ngày nay). Về sau do sự lấn áp võ dõng của du mục Hoa tộc,
Việt tộc lui dần về địa bàn gốc. Đánh dấu bằng các niên đại vua Hùng với
tên nước là Văn Lang. Năm chót của niên đại này là năm 257 tr.D.L. Rồi tên
nước liên tiếp thay đổi và địa bàn quốc gia bành trướng về phía nam. Tên
nước gọi là Việt Nam có từ năm 1802. Địa bàn quốc gia hiện tại, bắc giáp
Trung Hoa, nam là mỏm Cà Mâu giáp biển đông, tây giáp Ai Lao và Cam
Bốt, đông giáp biển đông.
III. Đại cương về văn hóa Việt tộc
Việt Nam là một nước văn hiến từ lâu. Văn hoá Việt đã đạt mức cao cả từ
xa xưa nên đủ uy lực để bảo tồn được Việt tính và giữ vững sự trường
tồn của dân tộc. Văn minh Việt là nền văn minh nhân tính, đó là đặc trưng
của văn minh nông nghiệp. Lý chính của văn hoá Việt là tâm linh, là sự
quân bình tình lý. Văn hoá Việt là nền văn hoá nhân chủ, đạt được ý thức
hoà giữa người, trời và đất. Đạt được lý nhân hoà, thích ứng được siêu
nhiên và cụ thể. Nhưng sau nhiều thăng trầm của lịch sử, lớp vỏ của nền
văn hoá Việt đã bị sứt mẻ bởi các nền văn minh du mục phương bắc và
văn minh phù động tây phương cố sức đập phá, tuy vậy sự phá phách này
chỉ mới làm sứt mẻ được lớp vỏ mà thôi.
Chương Hai
I. Thời đại Thái cổ (trước Thế Kỉ 29 tr.D.L.)
Từ thời rất xa xưa có những bộ lạc cư trú tại vùng bao quanh châu thổ
sông Hồng. Lúc đó châu thổ còn là vịnh biển, mực nước cao hơn hiện nay
50 thước. Các bộ lạc tiền sử sống rải rác trên vùng cao (có mức thấp nhất
là cao hơn mức nước biển hiện tại 50 thước), từ bắc Trường Sơn tới
Hoàng Lyên Sơn và bao ra biển ở các rặng Bắc Sơn, Ngân Sơn và quanh
các nơi có cuồng lưu nước ngọt. Khoảng thời gian đó cách nay chừng một
triệu năm. Mãi về sau có hai trung tâm phát triển mạnh là Hoà Bình và Bắc
Sơn. Thời gian ấy cách nay khoảng từ 60 ngàn năm tới 40 ngàn năm.
Các người tiền sử sống bằng săn thú và hải sản. Phương tiện lúc đầu là
tay chân, sau biết dùng xương thú vật làm tăng khả năng của tay để phát
triển lượng số thực phẩm. Dần dần người tiền sử biết dùng lửa, nhờ đó
đời sống quy củ hơn.
Khi nước biển rút dần tới mức hiện tại khoảng chừng 40 ngàn năm trước
các bộ lạc tiền sử bỏ dần vùng cao và tụ tập hợp sinh tại vùng châu thổ
sông Hồng. Lúc đầu vùng châu thổ còn nhiều đầm lầy, rừng rậm và hầu
hết mặt đất chưa ráo nước, người tiền sử vẫn phải sống bằng săn thú và
hải sản.
Khi đất đồng bằng đủ vững, các bộ lạc này sống bằng trồng tỉa, sau biết
trồng lúa gạọ Đó là thời kỳ mở đầu cho nông nghiệp; văn minh nông
nghiệp manh nha. Trong suốt thời gian hợp sinh tại châu thổ khoảng 40
ngàn năm trước các bộ lạc tiền sử tương giao trong khoảng thời gian
chừng 30 ngàn năm rồi hình thành một chủng tộc là Việt tộc. Việt tộc đã
tạo nên nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới khoảng 15 ngàn
năm trước dương lịch (văn minh Hoà Bình: đồ đá khoảng 20 ngàn năm
trước dương lịch nông nghiệp khoảng 15 ngàn năm tr.D.L. đồ gốm khoảng
trước 10 ngàn năm tr.D.L.). Địa bàn căn bản là châu thổ sông Hồng. Văn
hoá Việt đã được xây dựng dần dần để trở thành nền văn hoá tâm linh và
dân Việt là một dân tộc văn hiến từ xa xưa.
II. Thời đại Hồng Bàng (2879 tr.D.L. 257 tr.D.L.)
A. Huyền sử
Theo truyền thuyết thì vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, nhân đi
xuống phương nam, tới núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam, ngày nay thuộc
nước Tàu) thì gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra Đế Nghi và Lộc Tục. Về
sau Đế Nghi được làm vua phương bắc và Lộc Tục làm vua phương nam.
Lộc Tục lấy hiệu Kinh Dương và đặt tên nước là Xích Quỷ, vào khoảng
30 thế ký? trước dương li.ch. Địa bàn quốc gia lúc đó rất rộng lớn, gồm hồ
Động Đình ở phía bắc và phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía
tây tới Ba Thục, phía đông tới biển Đông.
Vua Kinh Dương lấy Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Khi Sùng Lãm lên ngôi,
lấy hiệu Lạc Long Quân và kết hôn với Âu Cơ, rồi sinh một bọc trăm
trứng. Ít lâu sau, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng:"Ta thuộc dòng dõi
rồng, nàng thuộc dòng dõi tiên, ở mãi với nhau không được, vậy nàng mang
50 con lên núi, còn ta đem 50 con xuống biển nam". Tới Phong Châu, mẹ
Âu Cơ phong cho con trưởng lên ngôi vua lấy hiệu vua Hùng và đặt tên đất
là Văn Lang.
B. Sử ký
Vị vua đầu tiên của nước Văn Lang là vua Hùng, địa giới gồm Bắc Việt và
các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Vua, quan theo lệ cha truyền con
nốị Các vua lấy hiệu Hùng, đóng đô ở Phong Châu , nay thuộc Bạch Hạc,
tỉnh Vĩnh Yên. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mị nương.
Họ Hùng truyền đời được 18 vị vuạ Quan văn gọi là Lạc hầu, quan võ gọi
là Lạc tướng. Đời nay tại tỉnh Phú Thọ có đền thờ các vua Hùng. Ngày giỗ
hàng năm là ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, người Việt lấy ngày này là ngày
giỗ tổ.
IIỊ Thời Thục (257 tr.D.L. 207 tr.D.L.)
Năm 257 tr.D.L. Thục Phán thắng vua Hùng thứ 18. Lên ngôi lấy hiệu An
Dương, đặt tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê, nay thuộc Đông
Anh, tỉnh Vĩnh Yên.
Để phòng bị giặc phương bắc, vua An Dương cho xây thành Cổ Loa rất
kýên cố. Thành có ba tầng vòng quanh xoáy vào trung tâm như trôn ốc nên
cũng gọi là Loa Thành.
Về sau, Triệu Đà là tướng của Tàu ở vùng Nam Hải (nay thuộc tỉnh Quảng
Đông của Tàu) kéo quân sang Âu Lạc đánh phá nhiều lần nhưng đều thất
bạị Thấy đánh mãi không được Triệu Đà bèn lập mưu cầu hoà, cho con là
Trọng Thuỷ sang nước Việt xin cưới công chúa Mị Châu, rồi lập mưu
đánh úp. Vua An Dương bị bại trận, chạy tới Mộ Dạ (Thanh Hoá) thì tự tử
(207 tr.D.L.).
IIỊ Thời Thục (257 tr.D.L. - 207 tr.D.L.)
Năm 257 tr.D.L. Thu.c-Phán thắng vua Hùng thứ 18. Lên ngôi lấy hiệu
AnĐương, đặt tên nước là Âu-Lạc, đóng đô ở Phong-Khê, nay thuộc Đông
Anh, tỉnh Vĩnh-Yên.
Để phòng bị giặc phương bắc, vua AnĐương cho xây thành Cổ-Loa rất
kiên cố. Thành có ba tầng vòng quanh xoáy vào trung tâm như trôn ốc nên
cũng gọi là Loa-Thành.
Về sau, Triê.uĐDà là tướng của Tầu ở vùng Nam-Hải (nay thuộc tỉnh
QuảngĐDông của Tầu) kéo quân sang Âu-Lạc đánh phá nhiều lần nhưng
đều thất bạị Thấy đánh mãi không được Triê.uĐDà bèn lập mưu cầu hoà,
cho con là Tro.ng-Thuỷ sang nước Việt xin cưới công-chúa Mi.-Châu, rồi
lập mưu đánh úp. Vua AnĐương bị bại trận, chạy tới Mô.Đa. (Thanh-Hoá)
thì tư.-tử (207 tr.D.L.).
IV. Thời Triệu (207 tr.D.L. - 111 tr.D.L.)
Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải
(nay thuộc Quảng Đông của Tàu) và quận Quế Lâm (nay thuộc Quảng Tây
của Tàu) để lập thành nước Nam Việt. Nhờ học được văn hoá Việt tộc,
Triệu Đà bỏ tính cương bạo du mục, nên tách ra khỏi thế lực nhà Tần của
Tàu, rồi định lập kế đời đời với dân Việt, bèn lập nước riêng và lên làm
vuạ Lấy hiệu là Triệu Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung (nay thuộc tỉnh
Quảng Tây của Tàu). Triệu Đà chia nước Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ
(Bắc Việt) và Giao Châu (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh). Triệu Đà mất
(137 tr.D.L.), nhà Triệu còn truyền thêm được bốn đời vuạ
- Triệu Văn Vương (Hồ) 137 tr.D.L. - 125 tr.D.L.
- Triệu Minh Vương (Anh Tề) 125 tr.D.L. - 113 tr.D.L.
- Triệu Ai Vương (Hưng) 113 tr.D.L. - 112 tr.D.L.
- Triệu Dương Vương (Kiến Đức)112tr.D.L. - 111 tr.D.L.
Vào đời Ai Vương, thái hậu Cù Thị xúi vua dâng nước cho nhà Hán, tể
tướng Lữ Gia bèn giết vua cùng thái hậu rồi lập người anh khác mẹ của Ai
Vương là Kiến Đức (mẹ của Kiến Đức là người Việt) lên ngôi, gọi là
Dương Vương, để cùng bầy kế chống nhà Hán, nhưng thế lực không đủ
nên năm 111 trước dương lịch bị tướng Hán là Lộ Bác Đức đánh chiếm
mất nước.
V. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (111 tr.D.L. - 39) (Lần thứ nhất)
Nhà Tây Hán (của Tàu) chiếm được nước Nam Việt, đổi tên là Giao Chỉ
Bộ và chia thành 9 quận, riêng địa phận Âu Lạc cũ gồm ba quận: Giao Chỉ,
Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ Bộ đặt dưới quyền cai trị của một Thứ
Sử, mỗi quận có một Thái Thú cai quản. Ỏ các địa phương, các Lạc Hầu,
Lạc Tướng người Việt vẫn được giữ chức cũ nhưng hàng năm phải nộp
thóc lúa và phẩm vật cho các quan Tàụ Các Thái Thú và Thứ Sử người Hán
lúc đó hầu hết rất bạo tàn.
VI. Thời Nữ vương họ Trưng (40-43)
Vào thời Tô Định làm thái thú quận Giao Chỉ, một thủ lãnh người Việt tên
là Thi Sách vì mưu việc đuổi Tàu mà bị giết.
Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị tiếp tục ý chí cách mạng,
phất cờ khởi nghĩa đánh Tàu giành độc lập. Hai bà được dân chúng khắp
nơi hưởng ứng, chiếm lại được 65 thành trì và đánh đuổi quân Tô Định về
Tàụ Hai bà xưng vương năm 40, đóng đô ở Mê Lynh (nay thuộc tỉnh Phúc
Yên). Nhà Hán phải sai một danh tướng tên là Mã Viện sang đánh. Hai bà
yếu thế, thất trận, tự trầm ở sông Hát vào năm 43.
Ngày nay ở làng Đồng Nhân, gần Hà Nội, có đền thờ hai bà. Ngày ký?
niệm hai bà Trưng là ngày mồng 6 tháng hai âm lịch hàng năm.
VII. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (43-544) (Lần thứ hai)
A. Việc đô hộ khắc nghiệt
Từ khi Mã Viện chiếm được Giao Chỉ, chế độ đô hộ của Đông Hán lại
càng khắc nghiệt hơn. Đổi Giao Chỉ thành Giao Châụ Các lạc hầu, lạc
tướng đều bị mất hết quyền hành, Giao Châu bị chia thành nhiều huyện,
do các huyện lệnh người Tàu cai tri..
Đời sống dân chúng rất khốn cực vì bị bọn đô hộ hành hạ, bóc lột đến tận
cùng.
B. Bà Triệu khởi nghĩa (248)
Năm 248, Bà Triệu khởi nghĩa ở quận Cửu Chân, đánh thắng quân Tàu
nhiều trận, khiến chúng khiếp sợ, nên gọi là bà là Lệ Hải Bà Vương.
Nhưng vì quân ít, thế cô, bà Triệu bị thất trận, chạy tới làng Bồ Điền
(Thanh Hoá) thì tự tử. Ngày nay tại đó còn có đền thờ Bà Triệụ
VIIỊ Thời Lý (544 - 602)
- Lý Nam Đế 544 - 549
- Triệu Việt Vương 549 - 571
- Hậu Lý Nam Đế 571 - 602
Năm 541 Lý Bôn khởi nghĩa đánh đuổi quân Tàu, chiếm được Long Biên,
thứ sử Tiêu Tư phải chạy trốn về Tàu.
Năm 544, Lý Bôn lên ngôi vua, lấy hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn
Xuân.
Nhà Lương bên Tàu sai Trần Bá Tiên sang gây chiến, Lý Nam Đế phải lui
về Khuất Lyêu (Hưng Hoá) và trao quyền cho Triệu Quang Phục. Thấy
thế giặc mạnh, Triệu Quang Phục bèn lập căn cứ ở đầm Dạ Trạch (phủ
Khoái Châu tỉnh Vĩnh Yên) và dùng lối đánh du kých khiến quân Tàu phải
thất trận, rồi chiếm lại kýnh độ Lúc đó Lý Nam Đế bị bịnh mất, Triệu
Quang Phục lên ngôi, xưng là Triệu Việt Vương, năm 549. Tới năm 571 Lý
Phật Tử cướp ngôi của Triệu Việt Vương, rồi xưng là Hậu Lý Nam Đế.
Năm 602, quân Tàu lại kéo sang đánh phá, Lý Phật Tử thế yếu phải hàng
giặc.
IX. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (603-939) (Lần thứ ba)
Thời kỳ này các quan lại Tàu rất khắc nghiệt. Năm 679, nhà Đường của
Tàu thiết lập An Nam Đô Hộ Phủ ở Giao Châu, để gia tăng bóc lột hà hiếp
dân chúng. Khắp nơi trong nước, dân chúng nổi lên chống bọn đô hô..
Ạ Mai Hắc Đế khởi nghĩa ở Châu Hoan (Nghệ An) (722)
Mai Thúc Loan khởi binh đánh Tàu, chiếm lại vùng châu Hoan (Nghệ An)
năm 722, rồi xưng Hoàng Đế, người đời thường gọi ông là Mai Hắc Đế.
Ông liên kết vây cánh với Lâm Ấp và Chân Lạp, nhưng việc chuẩn bị chưa
xong thì ông bị bại trận, rồi mắc bệnh mà mất.
B. Cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương (791)
Năm 791 Phùng Hưng khởi nghĩa chiếm được phủ đô hộ rồi sửa sang việc
cai trị, được mấy tháng thì mất. Dân chúng lập đền thờ tôn ông là Bố Cái
Đại Vương.
Con Phùng Hưng lên cầm quyền nhưng thế yếu phải ra hàng quân Tàu (lúc
đó là nhà Đường của Trung Hoa).
C. Họ Khúc dấy nghiệp (906 - 923)
Vào cuối đời Đường, nước Tàu rất loạn lạc, thừa cơ ấy dân Việt khởi
nghĩa khắp nơi, Tiết độ sứ thất bại phải chạy về Tàụ Năm 906 dân chúng
tôn Khúc Thừa Dụ người Hồng Châu (Hải Dương) lên làm tiết độ sứ.Nhà
Đưòng vì suy yếu phải thuận phong cho Khúc Thừa Du.. Cai trị được một
năm thì ông mất, con là Khúc Hạo lên thaỵ Sửa sang lại việc cai trị như
một nước tự chủ. Năm 917 Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp.
Năm 923, quân Tàu Nam Hán sang đánh chiếm Giao Châu, rồi sai Lý Tiến
làm thứ sử.
X. Thời Ngô (939 - 965)
- Tiền Ngô Vương 939 - 944
- Dương Tam Kha 945 - 950
- Hậu Ngô Vương 950 - 965
- Loạn 12 Sứ Quân 945 - 967
Năm 931, tướng cũ của họ Khúc là Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi
quân Nam Hán, rồi tự xưng làm tiết độ sứ. Cai trị được 6 năm thì bị bộ
tướng là Kiều Công Tiện ám sát để cướp quyền.
Con rể của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền mang quân từ châu Ái (Thanh
Hoá) ra báo thù. Kiều Công Tiện bị thua bèn cầu cứu Nam Hán. Ngô Quyền
giết Tiện rồi tiến binh phá tan quân Nam Hán trong trận sông Bạch Đằng,
chấm dứt thời kỳ bị Tàu đô hộ, lập lại nền độc lập cho nước Việt.
Năm 939 Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (Phúc Yên). Vua Ngô
Quyền sửa sang việc cai trị, tổ chức chế độ quân chủ và thiết lập nền độc
lập vững bền, nhưng mới trị vì được 5 năm thì mất. Con là Ngô Xương
Ngập lên ngôi, nhưng lại bị cậu là Dương Tam Kha (em vợ của Ngô
Quyền) cướp ngôi (945). Em Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Văn diệt
Dương Tam Kha (950) rồi hai anh em cùng làm vua, xưng là Hậu Ngô
Vương. Đến năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn bị chết trận tại
Thái Bình. Thế lực vua Ngô càng ngày càng suy yếu, thổ hào các nơi nổi
lên tranh cướp quyền hành, chia nước thành 12 vùng cai trị riêng biệt, thủ
lãnh mỗi vùng xưng là sứ quân. Thời này của nước Việt gọi là "Loạn 12
Sứ Quân".
Loạn bắt đầu năm 945, mãi tới năm 967, Đinh Bộ Lĩnh mớI chấm dứt
được.
XỊ Thời Đinh (968 - 980)
- Đinh Tiên Hoàng 968 - 979
- Đinh Tuệ 979 - 980
Đinh Bộ Lĩnh là một vị tướng tài ba, dẹp tan loạn 12 Sứ Quân năm 968,
lập nên triều đại nhà Đinh.
Đinh Bộ Lĩnh người ở Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình), con của Đinh
Công Trứ làm thứ sử châu Hoan dưới thời nhà Ngộ Ngay khi còn bé đã tỏ
ra có mưu trí hơn người, lớn lên theo giúp và làm con nuôi sứ quân Trần
Lãm. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh đem quân về Hoa Lư để rèn luyện.
Khi cử binh đánh các sứ quân, trận nào cũng thắng nên được tôn là Vạn
Thắng Vương. Chỉ trong vòng một năm, dẹp tan loạn 12 sứ quân.
Năm 968 Vạn Thắng Vương lên ngôi, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đổi tên
nước là Đại Cồ Việt, lập đô ở Hoa Lự Đinh Tiên Hoàng sửa sang việc
nước, thiết lập triều quy, tổ chức quân đội, đặt hình luật rất nghiêm khắc.
Vì muốn yên mặt bắc, vả lại thế lực nhà Tống bên Tàu đang mạnh, Đinh
Tiên Hoàng cho con sang triều cống nhà Tống để giữ tình hoà hảọ Năm
972 Tống vương phong Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.
Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm thì bị tên cận vệ Đỗ Thích ám sát
năm 979. Con nhỏ là Đinh Tuệ được lập làm vua, nhưng chỉ được một năm
thì bị truất ngôi.
XIỊ Thời Lê (980 - 1009) (Tiền Lê)
- Lê Đại Hành 980 - 1005
- Lê Trung Tông 1005
- Lê Long Đĩnh 1005 - 1009
Cuối đời Đinh Tiên Hoàng, nhà vua chỉ ham mê tửu sắc, rồi bị ám sát cùng
với thái tử Đinh Lyễn năm 979. Đinh Tuệ mới 6 tuổi được lập làm vua,
nhưng quyền hành về cả tay Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn.
Năm 980, nhà Tống của Tàu lấy cớ đó mang quân sang đánh nước Việt. Lê
Hoàn được triều thần tôn lên làm vua để lo việc chống ngoại xâm. Quân
Tàu kéo sang theo đường Lạng Sơn và sông Bạch Đằng. Nhưng mới chỉ
tới Chi Lăng thì bộ binh của Tàu bị vua Lê Đại Hành đánh tan, thuỷ quân
Tàu thấy vậy hoảng sợ phải rút luị Vua Tống thấy đánh không được phải
tôn phong vua Lê Đại Hành là Giao Chỉ Quận Vương để giữ tình hoà hảo
(993). Vua Đại Hành lại đánh phá quân Chiêm ở phía nam, khiến nước này
phải thần phục năm 982.
Vua Đại Hành mất năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua, thái tử
Long Việt lên ngôi, nhưng mới được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai
người ám sát để cướp ngôi. Long Đĩnh lên ngôi năm 1005, là người rất
hung ác, đam mê tửu sắc và bệnh hoạn. Khi ngự triều phải nằm. Người
trong nước gọi ông là Lê Ngoạ Triềụ Long Đĩnh chết năm 1009.
XIIỊ Thời Lý (1009 - 1225) (Hậu Lý)
- Lý Thái Tổ 1010 1028
- Lý Thái Tông 1028 1054
- Lý Thánh Tông 1054 1072
- Lý Nhân Tông 1072 1127
- Lý Thần Tông 1128 1138
- Lý Anh Tông 1138 1175
- Lý Cao Tông 1176 1210
- Lý Huệ Tông 1211 1225
- Lý Chiêu Hoàng 1225
Lê Long Đĩnh chết, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi, ông xưng là Lý
Thái Tổ, rời kýnh đô về thành Đại La, nay là Hà Nộị Tục truyền rằng khi
Lý Thái Tổ vào thành Đại La thì thấy rồng vàng bay lên đón rước do đó mà
đổi tên là thành Thăng Long.
Lý Thái Tổ rất sùng đạo Phật nên cho xây chùa khắp nơi và truyền bá rất
nhiều kýnh Phật cho dân chúng.
Đến đời Lý Thánh Tông tên nước đổi là Đại Việt (1054). Năm 1069, Lý
Thánh Tông mở mang bờ cõi về phía nam. Đem quân đánh Chiêm Thành,
bắt vua Chiêm là Chế Củ mang về Thăng Long. Chế Củ phải dâng đất để
chuộc mạng, gồm các châu Địa lý, Ma Lynh và Bố Chính (nay là Quảng
Bình, Quảng Trị).
Năm 1075, Lý Nhân Tông cử Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn
quân chia thành hai đạo thuỷ bộ đánh chiếm 3 châu Khâm, Lyêm và Ung
của Tàu (lúc đó nhà Tống đang cai trị nước Tàu).
Thời Lý kéo dài hơn 200 năm, truyền được 9 đời vua. Vị cuối cùng là một
nữ vương, lên ngôi mới 7 tuổi, xưng là Lý Chiêu Hoàng. Vì Lý Chiêu
Hoàng còn nhỏ tuổi nên quyền hành đều ở trong tay Điện tiền Chỉ huy sứ
Trần Thủ Đô.. Trần Thủ Độ lập mưu để Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là
Trần Cảnh rồi ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng năm 1225.
XIV. Thời Trần (1225 - 1400)
- Trần thái tông 1225 1258
- Trần thánh tông 1258 1278
- Trần Nhân Tông 1278 1293
- Trần Anh Tông 1293 1314
- Trần Minh Tông 1314 1329
- Trần Hiến Tông 1329 1341
- Trần Dụ Tông 1341 1369
- Trần Nghệ Tông 1370 1372
- Trần Duệ Tông 1372 1377
- Trần Phế Đế 1377 1388
- Trần Thuận Tông 1388 1398
- Trần Thiếu Đế 1398 1400
Trần Cảnh lên ngôi vua, xưng là Trần Thái Tông, nhưng mọi quyền hành
đều nằm trong tay Thái sư Trần Thủ Đô..
Thời Trần nho học rất thi.nh. Ỏ kýnh đô, ngoài Quốc Tử Giám đã có từ
thời Lý, triều đình cho lập thêm Quốc Học viện để giảng tứ thư, ngũ kýnh.
Nước chia thành 12 Bộ, tại mỗi bộ đều có trường dạy học.
Văn học thời Trần rất thi.nh. Đời này có nhiều nhân tài như Lê Văn Hưu đã
soạn bộ Đại Việt Sử Kí rất có giá trị; Mạc Đĩnh Chi, nhà văn học lỗi lạc,
nổi tiếng trong việc ngoại giao với nhà Nguyên của Tàu; Chu An, nhà văn
học tài ba nêu gương thanh khiết và cương trực; Nguyễn Thuyên có công
xây dựng nền tảng cho văn Nôm.
Trần Quốc Tuấn soạn "Hịch Tướng Sĩ" được đời truyền tu.ng. Các vua
nhà Trần đều có soạn Ngự Tập.
Võ công thời Trần rất hiển hách, đã tạo được một võ nghiệp oanh liệt
trong lịch sử thế giới, là đánh bại đoàn quân bách thắng Mông Cổ. Lúc đó
Mông Cổ đã toàn thắng khắp nơi từ Trung Á tới Đông Âu và chiếm trọn
nước Tàu ở phía bắc nước Việt. Thế mà ba lần Mông Cổ sang xâm lấn
nước Việt đều bị thất bại (năm 1257, năm 1284, năm 1287). Chiến thắng
đại quân Mông Cổ, Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xứng đáng là
vị tướng tài ba bậc nhất cổ kim.
Đời Trần Anh Tông mở mang bờ cõi về phía nam. Nhà vua gả công chúa
Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân. Hôn lễ của vua Chiêm là châu Ô và
châu Rị Năm 1307, vùng này được đổi thành châu Thuận và châu Hoá (nay
là vùng Thừa Thiên).
Cuối thời Trần, các vua trở nên kém cỏi, triều đình suy yếu, dân nước đói
khổ, quyền hành đều nằm cả trong tay Hồ Quý Lỵ
XV. Thời Hồ (1400 - 1407)
- Hồ Quý Ly 1400
- Hồ Hán Thương 1401- 1407
Các vua cuối nhà Trần trí kém, tài hèn nên Hồ Quý Ly nắm trọn quyền
hành. Đến năm 1400 Hồ Quý Ly truất phế Trần Thiếu Đế rồi xưng làm
vua, đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hoá), đổi tên nước là Đại Ngụ
Hồ Quý Ly cải tổ mọi việc trong nước, lập thuế thuyền buôn, chế tiền
giấy thay tiền đồng để tiện lưu dụng, dịch sách chữ Nho sang chữ Nôm;
dùng chữ Nôm trong việc giáo dục cùng trong các văn kýện hành chánh. Tổ
chức binh bị rất chu đáo, lập sổ dân và tuyển thêm quân, định binh chế,
đóng chiến thuyền, xây thành luỹ, lập kho lương và xưởng chế tạo vũ khí.
Năm 1402 đánh Chiêm Thành mở rộng bờ cõi phía nam, Chiêm Thành thất
trận, phải dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam) và Cổ Luỹ (Quảng Ngãi).
Năm 1406 nhà Minh bên Tàu lấy cớ giúp nhà Trần sai Trương Phụ và Mộc
Thạch đem đại quân sang đánh nước Việt. Quân sĩ nhà Hồ yếu hèn, lực
lượng quốc gia suy kém, dân chúng bị đói khổ vì những năm suy vi cuối
thời Trần, nên quân Minh đã thắng dễ dàng. Hồ Quý Ly và con cháu chạy
vào tới Hà Tĩnh thì bị quân Minh bắt, rồi giải sang Tàụ Về sau, nhà Minh
khai thác tài trí con cháu nhà Hồ để phát triển nền văn minh Trung Hoa.
XVỊ Hậu Trần Kháng Chiến Chống Tàu (1407 - 1413) (Hậu Trần)
- Giản Định Đế 1407 - 1409
- Vua Trùng Quang 1409 - 1413
Sau khi dứt nhà Hồ, quân Tàu chiếm nước Việt, thiết lập việc cai tri..
Con cháu nhà Trần phải chịu lao khổ kháng chiến chống quân Minh. Hoàng
Đế Giản Định (Trần Quỹ), vua Trùng Quang (Trần Quý Khoách) gặp
nhiều gian nan. Cuối cùng, thế yếu tất cả đều bị thất bạị
XVIỊ Thời kỳ bị Tàu (nhà Minh) đô hộ (1414 - 1427)
Ạ Việc Tàu đô hộ
Thắng được nhà Hồ và con cháu nhà Trần, quân Minh thiết lập việc đô hộ
rất tàn bạo, bóc lột dân Việt đến cùng cực: tiêu huỷ sách vở, tận thu tài
liệu văn hoá Việt mang về Tàu để mạo thành tài liệu của Tàu, bắt dân
Việt học chữ Hán, đầy đoạ dân chúng trong cảnh khốn cực, lầm than.
B. Lê Lợi Đánh Tàu Phục Quốc (1418 1427)
Năm 1418 Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, khởi nghĩa đánh Tàu ở Lam
Sơn (Thanh Hoá). Lúc đầu, thế còn yếu, Lê Lợi phải rút quân về núi Chí
Lynh ba lần để thế thủ và rèn luyện quân sĩ.
Tới năm 1424, theo sách lược của Nguyễn Trãi, Bình Định Vương đánh
thắng quân Minh liên tiếp, chiếm lại các đất từ Thanh Hoá vào nam.
Năm 1426 Bình Định Vương tiến quân ra bắc, đánh tan đại quân của
Vương Thông tại Tuỵ Động, chém chết Liễu Thăng ở Chi Lăng, giành lại
độc lập cho người Việt năm 1427.
XVIIỊ Thời Lê (Hậu Lê) (1428 - 1527)
- Lê Thái Tổ 1428 - 1433
-Lê Thái Tông 1433 - 1442
- Lê Nhân Tông 1442 - 1459
- Lê thánh Tông 1460 - 1497
- Lê Hiến Tông 1497 - 1504
- Lê túc Tông 1504
- Lê Uy Mục 1505 - 1509
- Lê Tương Dực 1509 - 1516
- Lê Chiêu Tông 1516 - 1524
- Lê Cung Hoàng 1524-1527
Sau khi đuổi xong giặc Tàu, Bình Định Vương lên ngôi Hoàng Đế, xưng là
Thái Tổ, đóng đô ở Thăng Long, tên nước vẫn là Đại Việt.
Ỏ thời Lê, mọi việc trong nước đều được sửa sang. Việc cai trị sắp đặt tốt
đẹp, luật pháp nghiêm minh. Bộ luật Hồng Đức là bộ luật rất hoàn bị đã
được ban hành dưới triều Lê Thánh Tông (1460 1497)
Việc học được khuyến khích. Triều đình đặt lệ khắc tên những người đỗ
tiến sĩ vào bia đá và được vinh quy bái tổ.
Thời này có nhiều tác phẩm danh tiếng còn truyền đến nay như: Đại Việt
Sử Kí Toàn Thư của Ngô Sĩ Lyên, thơ văn của Nguyễn Trãi (Gia Huấn Ca,
Bình Ngô Đại Cáo, v.v.).
Võ công và việc mở mang bờ cõi cũng rất lẫy lừng, Lê Thánh Tông đánh
Chiêm Thành, lấy đất, lập thành đạo Quảng Nam (1471). Năm 1479 xứ
Bồn Man (Trấn Ninh, nước Lào) liên kết với nước Lão Qua (nước Lào)
nổi lên quấy phá, Lê Thánh Tông sai quân đánh dẹp, xứ Bồn Man xin quy
thuận.
Vào cuối thời Lê, các vua sinh tật, ham mê tửu sắc, xa xỉ thái quá, khiến
dân nước khổ sở, giặc giã nổi lên khắp nơị Quan triều thì giành nhau
quyền lợi. Tướng Mạc Đăng Dung dẹp yên loạn ở triều rồi giết vua Lê
Cung Hoàng (1527), soán đoạt ngôi vuạ
XIX. Thời Lê - Mạc tranh quyền (1527 - 1592)
- Thái Tổ Mạc Đăng Dung 1527 - 1529
- Thái Tông Mạc Đăng Doanh 1529 - 1540
- Hiến Tông Mạc Phúc Hải 1540 - 1546
- Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên 1546 - 1561
- Mạc Mậu Hợp 1561 - 1592
Mạc Đăng Dung giết vua Lê Cung Hoàng rồi soán ngôi, lập nên nhà Mạc.
Mạc Đăng Dung lên ngôi xưng là Minh Đức, vẫn theo chính sách của các
triều Lê mà trị nước.
Đến năm 1540, Mạc Đăng Dung hàng phục Tàu và nhận chức phong Đô
Thống Sứ của nhà Minh. Đa số các quan triều không phục, người thì ẩn
tránh, người thì nổi lên chống lại.
Con một cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim nổi lên, lập con cháu nhà Lê lên
làm vua để chống nhà Mạc. Nguyễn Kim đánh chiếm được từ Thanh Hoá
vào nam, chia đôi đất nước với nhà Mạc.
Năm 1545, Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm thế quyền. Trịnh Kiểm
sợ con cái Nguyễn Kim không chịu bèn giết em vợ là Nguyễn Uông và bắt
Nguyễn Hoàng vào trấn ở đất Thuận Hoá (1558). Trịnh Kiểm mất, Trịnh
Tùng lên thay năm 1592. Trịnh Tùng đem quân đánh nhà Mạc ở bắc, giết
được Mạc Mậu Hợp, chiếm kýnh thành, diệt xong nhà Mạc, hoàn thành
việc trung hưng nhà Lê.
Ạ Các Vua Lê Trong Thời kỳ Lê Mạc Chiến Tranh (1533 - 1592)
- Lê Trang Tông 1533 - 1548
- Lê Trung Tông 1548 - 1556
- Lê Anh Tông 1556 - 1573
- Lê Thế Tông 1573 - 1599
B. Các Vua Lê trong Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh
- Lê Kính Tông 1560 - 1619
- Lê Thần Tông 1619 - 1643
- Lê Chân Tông 1643 - 1649
- Lê Thần Tông 1649 - 1662 (làm vua lần thứ hai)
- Lê Huyền Tông 1663 - 1671
- Lê Gia Tông 1672 - 1675
- Lê Hi Tông 1676 - 1705
- Lê Dụ Tông 1706 - 1729
- Lê Đế Duy Phương 1729 - 1732
- Lê Thuần Tông 1732 - 1735
- Lê Ý Tông 1735 - 1740
- Lê Hiển Tông 1740 - 1786
- Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) 1787 - 1788
XX. Thời Lê trung hưng (1592 - 1788)
Trong thời Lê Trung Hưng thì từ năm1627 tới 1672 là giai đoạn Nam Bắc
phân tranh giữa họ Trịnh và Nguyễn, kéo dài 45 năm.
Trong thời Trung Hưng, vua Lê chỉ có hư vị, Trịnh Tùng xưng chúa, rồi cha
truyền con nối, nắm hết quyền hành ở miền Bắc, gọi là Đàng Ngoàị
Nguyễn Hoàng xưng chúa ở miền Nam, lập thành một khu vực tự trị, gọi
là Đàng Trong. Chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều muốn tiêu diệt nhau để nắm
trọn quyền hành, nên sinh thù nghịch và gây việc chiến tranh.
Năm 1627, chúa Trịnh lấy cớ chúa Nguyễn không chịu nộp thuế cho vua Lê
nên sai quân vào đánh miền Nam, bắt đầu cuộc chiến tranh Nam Bắc.
Trong vòng 45 năm Trịnh, Nguyễn đánh nhau 7 lần không phân thắng bại
nên hai bên phải giảng hoà, cắt nước làm đôi, lấy sông Gianh làm ranh giới
hai miền Bắc, Nam.
Chính trị miền Bắc (Đàng Ngoài) chỉ quanh quẩn việc ngôi vị và cai trị địa
phương cùng lăm le đánh chiếm miền Nam.
Miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn ngoài việc lo chống các chúa
Trịnh ở Bắc, vẫn lo được việc mở mang bờ cõi. Lấy các đất của Chiêm
Thành, Thuỷ Chân Lạp để thành lập các tỉnh Bình Định năm 1558, Phú Yên
năm 1611, Khánh Hoà năm 1653, Biên Hoà và Gia Định năm 1698, Hà Tiên
năm 1708.
Nhưng ở miền Nam từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm 1765 thì sinh
rối loạn do quyền thần Trương Thúc Loan, làm nhiều điều tàn ác, dân
chúng oán giận.
Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ khởi nghĩa
ở làng Tây Sơn (Bình Định), đánh chiếm Quy Nhơn rồi lấy luôn từ Quảng
Ngãi vào Bình Thuận.
Chúa Trịnh thừa cơ miền Nam rối loạn bèn sai quân vào đánh lấy Phú Xuân
(1775). Chúa Nguyễn bị thua, chạy vào
Quảng Nam, nhưng lại bị Nguyễn Nhạc đánh bại, nên phải trốn vào Gia
Đi.nh. Ỏ đây chúa Nguyễn Phúc Thuần bị
tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ giết chết.
Lúc đó, Nguyễn Nhạc thấy quân Trịnh đang mạnh bèn hàng thuận để khỏi
lo mặt Bắc, rồi tiến quân đánh chúa Nguyễn. Chiếm lấy đất Gia Định
(1777).
Sau khi thắng miền Nam, Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, xưng hiệu là Thái
Đức, lập kýnh đô ở thành Đồ Bàn năm 1778.
Còn ở Đàng Ngoài thì rối loạn. Cuối đời Trịnh Khải có loạn kýêu binh
(1782). Nguyễn Huệ nhân dịp đó chiếm Thuận Hoá, rồi thừa thế tiến ra
Thăng Long. Trịnh Khải bị thua phải tự tử. Thế là cơ nghiệp nhà chúa
chấm dứt (1786).
Nguyễn Huệ trả quyền cai trị cho vua Lê Hiển Tông rồi rút quân về Nam.
Lê Hiển Tông mất, cháu là Duy Kỳ nối ngôi, niên hiệu Chiêu Thống. Lê
Chiêu Thống nhu nhược, bất tài nên Trịnh Bồng lại ép vua để lập lại
nghiệp chúạ Nguyễn Hữu Chỉnh từ Thanh Hoá ra giúp Chiêu Thống dẹp
được Trịnh Bồng, rồi từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh cậy công mà chuyên
quyền.
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đóng đô ở Thuận Hoá được tin Nguyễn
Hữu Chỉnh áp chế vua Lê bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt giết Nguyễn Hữu
Chỉnh. Chiêu Thống thấy Vũ Văn Nhậm đưa quân ra bắc thì sợ hãi rồi
chạy trốn và gởi con sang Tàu cầu viện quân Thanh (1788).
Vũ Văn Nhậm ở bắc có ý phản nghịch, Bắc Bình Vương phải thân chinh ra
bắt Nhậm giết đi, rồi trao quyền cai trị đất bắc cho Ngô Văn Sở và Ngô
Thời Nhiệm.
Các Chúa Trịnh ở Bắc Các Chúa Nguyễn ở Nam
Trịnh Tùng 1570 - 1623 Nguyễn Hoàng 1600 - 1613 Chúa Tiên
Trịnh Tráng 1623 - 1657 NguyễnPhúcNguyên 1613 1635 Chúa Sãi
Nguyễn Phúc Lan 1635 - 1648 Chúa Thượng
Trịnh Tạc 1657 - 1682 Nguyễn Phúc Tần 1648 - 1687 Chúa Hiền
Trịnh Căn 1682 - 1709 Nguyễn Phúc Trăn 1687 - 1691 Chúa Nghĩa
Trịnh Cương 1709 - 1729 Nguyễn Phúc Chu 1691 - 1725 Quốc Chúa
Trịnh Giang 1729 - 1740 Nguyễn Phúc Trú 1725 - 1738
Trịnh Doanh 1740 - 1767 Nguyễn Phúc Khoát 1738 - 1765
Trịnh Sâm 1767 - 17882 Nguyễn PhúcThuần 1765 - 1777
Trinh Cán 1782 - 1783 (làmm chúa được 2 tháng)
Trịnh Khải 1783 - 1786
XXỊ Thời Tây Sơn (1788 - 1802)
- Vua Quang trung 1788 - 1792
- Vua Cảnh Thịnh 11792 - 1802
Vua Thanh Càn long mượn cớ Lê Chiêu Thống cầu viện để thôn tính nước
Việt, đã sai Tôn Sĩ nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Quân Thanh theo ba
đường: Tuyên quang, Cao bằng và Lạng sơn (1788).
Ngô Văn Sở thấy không thể kháng cự nổi, bèn rút quân về núi Tam điệp.
Lê Chiêu Thống theo quân Tôn Sĩ nghị vào Thăng long và nhận chức An
Nam Quốc vương do vua Thanh Càn long phong cho, rồi ỷ vào thế quân
Tàu thả sức lo việc chém giết báo thù. Còn quân Thanh thì thả sức cướp
bóc, giết hại dân Việt. Dân chúng miền Bắc phải sống trong cảnh vô cùng
kýnh hoàng khốn cực.
Được tin quân Thanh sang xâm lăng, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế
(1788), lấy hiệu Quang Trung, rồi kéo 10 vạn quân ra Bắc tiễu phạt quân
Tàụ
Ngày 10 tháng chạp quân Việt tới núi Tam Điệp, Hoàng Đế Quang Trung
cho dừng binh để quân sĩ ăn tết trước, rồi ngày 30 tháng chạp hỏa tốc tiến
đánh. Quân Tàu liên tiếp bị thất bại ở các mặt trận Phú Xuyên, Hà Hồi,
Ngọc Hồi, Đống Đạ Các danh tướng Tàu Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống
đều bị chết trận. Tôn Sĩ Nghị quá sợ hãi phải rút tàn quân chạy trốn về
Tàụ Thế là chỉ trong vòng năm (5) ngày, Quang Trung đại phá quân Thanh
(1789). Lê Chiêu Thống và gia đình chạy theo Tôn Sĩ Nghị sang Tàu, rồi sau
này bị chết nhục ở nước ngườị
Sau khi đại phá quân Thanh, Quang Trung lo sắp xếp, ổn định nội trị và
ngoại giaọ
Vì vua Thanh Càn Long có lòng kýnh nể Hoàng Đế Quang Trung nên việc
giao hoà giữa hai nước sớm được ổn định tốt đẹp. Việc nội trị, Quang
Trung định đô tại Nghệ An, là Phượng Hoàng Trung Đô và gọi Thăng Long
là Bắc Thành. Nước được chia thành nhiều trấn, có trấn thủ coi việc võ,
hiệp trấn coi việc văn.
Lập sổ điền, khuyến khích nông nghiệp, phát triển buôn bán, đúc tiền
đồng, cải cách và khuyến khích văn học, dùng chữ Nôm làm quốc tự, bỏ
chữ Hán.
Nhà vua rất chú trọng việc quân sự, lập sổ đinh, tuyển chọn binh sĩ và tập
luyện chuyên cần, để lo việc tương lai đánh Tàu lấy lại đất Lưỡng Quảng
(Quảng Đông, Quảng Tây). Nhưng vị vua anh tài bậc nhất trong lịch sử bị
mất sớm (1792) nên quốc sách không thi hành được.
Con của Quang Trung là Quang Toản lên ngôi lấy hiệu Cảnh Thi.nh. Quang
Toản nhỏ tuổi, trong nước gặp lúc khó khăn lộn xộn, nên về sau bị
Nguyễn Ánh lấy mất nghiệp (1802).
Thời Tây Sơn, nước Việt bị chia làm ba miền: Miền Bắc do Nguyễn Huệ
cai trị; Miền Trung do anh cả Nguyễn Nhạc cai quản; Miền Nam do anh
thứ hai Nguyễn Lữ chỉ huỵ Khi chúa Nguyễn mất nghiệp thì còn sót lại
một người dòng dõi nhà Nguyễn là Nguyễn Ánh, tụ tập quân sĩ đánh nhau
với Nguyễn Lữ, chiếm được thành Gia Định, xưng vương năm 1780.
Sau Nguyễn Ánh lại bị thất bại phải chạy ra vùng hải đảo cùng trốn sang
Xiêm La (Thái Lan) cầu cứu quân Xiêm và thế lực Tây Phương.
Năm 1788 Nguyễn Ánh lại chiếm được Gia Định, rồi nhân cơ hội anh em
Tây Sơn bất hoà, cùng nhờ được một số người Pháp giúp sức và luyện tập
binh sĩ nên tính việc đánh Bắc Hà.
Từ năm 1790 cứ theo mùa gió nồm (thổi từ nam lên bắc) Nguyễn Ánh đem
binh thuyền ra đánh phá Tây Sơn, khi đổi chiều gió thì rút đị Cho nên dân
chúng gọi các trận ấy là "giặc mùa".
Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn 3 lần mới thắng (1799) rồi đổi tên là Bình
Đi.nh.
Năm 1801 Nguyễn Ánh mang toàn lực hạ thành Phú Xuân (Huế). Vua
Cảnh Thịnh phải chạy ra Bắc. Chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên
ngôi vua, xưng là Gia Long năm 1802. Lập kýnh đô ở Phú Xuân và đổi tên
nước là Việt Nam.
Gia Long ra đánh Bắc Hà trong vòng một tháng thì toàn thắng, vua Quang
Toản cùng các tướng đều bị bắt rồi bị giết. Thời Tây Sơn chấm dứt năm
1802, Nguyễn Ánh chiếm được Thăng Long và thống nhất đất nước ngày
20 tháng 7 năm 1802.
XXIỊ Thời Nguyễn (1802 - 1884)
Ạ Các Vua Nhà Nguyễn Trong Thời Độc Lập
Thế Tổ - Gia Long 1802 - 1819
Thánh Tổ - Minh Mệnh 1820 - 1840
Hiến Tổ - Thiệu Trị 1841 - 1847
Dực Tông - Tự Dức 1847 - 1883. Không con, có ba người
con nuôi : Dục Đức, Chánh Mông và Dưỡng Thiện
B. Các Vua Nhà Nguyễn Trong Thời kỳ Việt Pháp Chiến Tranh
- Dục Đức 1883 làm vua được 3 ngàỵ Con nuôi trưởng của vua Dực Tông
- Hiệp Hòa 1883 làm vua được 4 tháng thì bị giết. Em vua Dực Tông
- Kiến Phúc 1883 - 1884 làm vua được 6 tháng thì mất; con nuôi thứ ba của
vua Dực Tông
- Hàm Nghi 1884 - 1885 bị Pháp đầy sang nước Algérie năm 1885. Em vua
Chánh Mông