logo

TÀI LIỆU: LỊCH SỬ CÁC TRIỀU VUA VIỆT NAM

Đây là giai đoạn mang tính chất nửa lịch sử nửa thần thoại khi con người Việt cổ còn chưa có chữ viết. Lịch sử chỉ được ghi nhớ lại qua truyền khẩu mà thôi. Dựa vào truyền thuyết, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Lê Văn Hưu,Ngô Sĩ Liên và Trần Trọng Kim viết rằng Lộc Tục lên làm vua vùng đất phía Nam núi Ngũ Lĩnh (Quảng Đông) vào năm 2879 trước Công Nguyên. Lộc Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Cương vực Xích Quỷ khá rộng lớn, phía Bắc là núi Ngũ Linh,...
LỊCH SỬ CÁC TRIỀU VUA VIỆT NAM I. Nước Văn Lang ­ Họ Hồng Bàng (2879 (?) ­ 258 tr.CN)[/size][/b]   Đây là giai đoạn mang tính chất nửa lịch sử nửa thần thoại khi con người Việt cổ còn chưa có chữ viết.  Lịch sử chỉ được ghi nhớ lại qua truyền khẩu mà thôi.   Dựa vào truyền thuyết, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Lê Văn Hưu,Ngô Sĩ Liên và Trần Trọng Kim  viết rằng Lộc Tục lên làm vua vùng đất phía Nam núi Ngũ Lĩnh (Quảng Đông) vào năm 2879 trước  Công Nguyên. Lộc Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Cương vực Xích  Quỷ khá rộng lớn, phía Bắc là núi Ngũ Linh, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (sau này là vương quốc  Champa), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) và phía Đông là biển Nam Hải.   Kinh Dương Vương lấy nàng Thần Long, con gái của chúa hồ Động Đình sinh được một người con là  Sùng Lãm. Sùng Lãm lên làm vua thay Kinh Dương Vương lấy hiệu là Lạc Long Quân. Tương truyền  rằng Lạc Long Quân có gốc rồng từ dòng họ của mẹ nên thường ở dưới động nước. Khi người dân có  việc cần giải quyết, thường đến trước động nước kêu to lên: "Bố ơi, ở đâu? Hãy đến gi con". Thế là  Lạc Long Quân liền lên cạn giải quyết mọi việc khó khăn cho dân chúng.   Lạc Long Quân gặp được Âu Cơ và lấy nàng làm vợ. Họ sinh ra một trăm người con trai (theo truyền  thuyết sanh ra 100 trứng và nở ra 100 người con trai).   Một hôm, khi các người con trai đã trưởng thành Lạc Long Quân nói với nàng Âu Cơ: "Ta là giống   rồng, sống dưới nước, nàng là tiên, sống trên cạn. Thủy hỏa khắc nhau, không sống lâu bền   với nhau được".   Thế là hai người chia tay. Năm mươi người con ở lại với cha dưới biển. Năm mươi người con kia theo  mẹ lên non. Họ đến sống ở đất Phong Châu (Vĩnh Phú), tôn người con cả lên làm vua và cùng nhau  xây dựng cơ đồ. Cũng từ truyền thuyết này mà người Việt vẫn cho rằng tổ tiên của mình là tiên rồng.   Người con cả lên làm Vua vùng đất mới. Đó là triều đại Hùng Vương thứ nhất. Bắt đầu một thời đại lịch  sử dân Việt. Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc (Việt Trì, Vĩnh Phú). Vua  chia nước ra làm 15 bộ. Đa số các em của vua cai trị các bộ này. Họ được gọi là Lạc tướng và có  quyền cha truyền con nối.   Dưới các bộ là các công xã nông thôn có các Bố chính tức là các già làng đứng đầu. Vua có một hàng  ngũ quan chức để giúp mình trị nước. Các quan ấy được gọi là Lạc hầu. Các con trai của vua gọi là  Quan lang còn con gái thì gọi là Mị Nương (mệ). Đó là tổ chức nhà nước sơ khai đầu tiên của dân tộc  Lạc Việt.   [b][size=4]II. Nước Âu Lạc và Thục An Dương Vương (258­207 tr.CN)   Theo một số sách sử như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ngô Sĩ Liên), Sử Địa Ký (Giáo Sư Bằng Phong),  Việt Nam Sử Yếu (Trần Trọng Kim), Việt Sử Tiêu án (Ngô Thời Sỹ) và Việt Sử Tân Biên (Phạm văn  Sơn), thì đời An Dương Vương được coi là thời kỳ chuyển kiếp từ hoang sử đến hữu sử, nên nguồn gốc  nhà Thục đến nay vẫn chưa có đủ tài liệu để xác định.    An Dương Vương tên là Thục Phán, nguyên là thủ lĩnh xứ Xuyên bên Tầu, tuy nhiên nếu xét theo thời  gian và địa lý thời đó thì Ba Thục quá xa với nước Văn Lang nên khó mà thôn tính Văn Lang một cách  dễ dàng. Nên đây xin trích dẫn từ sử ký của Trần Trọng Kim và Phạm văn Phú, thì Thục Vương là một  tù trưởng Âu Việt,theo truyền thuyết Thục Vương vì cầu hôn bất thành, hận Vua Hùng thứ 18 là Hùng  Tuấn Vương gả công chúa Mỵ Nương cho tù trưởng Sơn Tây là Sơn Tinh nên dặn con cháu sau này  phải báo thù.   Thục Vương mất, con là Thục Phán  Vào năm 257 trước Công Nguyên, Thục Phán đem quân đánh  Hùng Vương thứ Mười Tám. Hùng Vương cậy mình có binh hùng tướng mạnh, không lo phòng bị, chỉ  ngày đêm uống rượu, đàn hát. Quân Thục Phán tấn công bất ngờ, Hùng Vương không chống cự được,  phải nhảy xuống giếng tự tử.   Thục Phán lên ngôi, lấy vương hiệu là An Dương Vương, hợp nhất vùng đất của mình vào Văn Lang  mà lập nên nước Âu Lạc. Đóng đô ở Phong Khê (nay thuộc tỉnh Phúc Yên) và xây thành Cổ Loa.   Truyền thuyết cho rằng, An Dương Vương được thần Kim Quy giúp vua xây thành Cổ Loa và tặng  chiếc nỏ thần để giữ cơ đồ.   Dưới triềi nhà Thục, ở Trung Hoa Tần Thủy Hoàng thống nhất Lục Quốc, năm 214 trước Tây Lịch, nhà  Tần sai Đồ Thư sang chiếm Âu Lạc đánh lấy Bách Việt, đồ thư thảm bại nhưng vì là nhược tiểu nên  vua An Dương Vương xin thần phục. Tần Thủy Hoàng chia Bách Việt và Âu Lạc thành 3 quận, Nam  Hải (Quảng Đông), Quế Lâm(Quảng Tây), Tượng Quận(Bắc Việt).   Cuộc Chiến Giữa An Dương Vương và Triệu Đà.   Khi nhà Tần suy yếu, Triệu Đà là quan úy quận Nam Hải, cho quân tiến đánh Âu Lạc nhiều lần nhưng  không thành vì Âu Lạc có thành Cổ Loa hiểm yếu cùng chiếc nỏ thần diệu trấn giữ. Triệu Đà bèn hòa  hoãn, cầu hôn con gái của An Dương Vương cho con trai của mình là Trọng Thủy. An Dương Vương  đồng ý. Trọng Thủy ở rể tại Âu Lạc ba năm để do thám và tráo được lấy nỏ. Vì thế khi quân Triệu Đà  kéo đến thì nỏ thần mất hiệu nghiệm. Quân Âu Lạc tan vỡ. An Dương Vương đem Mỵ Châu lên ngựa  chạy loạn. Đến núi Mộ Dạ (Nghệ An), thần Kim Quy hiện lên, lên án Mỵ châu là giặc. An Dương  Vương liền chém chết con gái và nhảy xuống bể tự tử. Dân Việt mất nền tự chủ từ đấy cho đến ngàn  năm sau.     [b][size=4]II. Nhà Triệu (207­111 tr.CN)    1­Triệu Vũ Vương (207­137 tr.CN) Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà đem đất Âu Lạc sáp nhập vào quận Nam Hải của mình, lập nên  một quốc gia tự trị với quốc hiệu là Nam Việt, tự xưng là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung(thuộc  Quảng Châu ngày nay).   Khi Triệu Đà xưng vương, thì nước Trung Hoa, đã được ổn định dưới Triều Tây Hán. Hán Cao Tổ Lưu  Bang sai Lục Dận sang thuyết Nam Việt trở thành chư hầu, sai người sang phong vương cho Triệu Đà.  Trước sức mạnh nhà Hán, Triệu Đà đành chấp nhận vị trí tiểu quốc. Nhưng sau khi Hán Cao Tổ chết,  lợi dụng tình hình tranh chấp quyền hành trong nội bộ Hán Triều, Triệu Đà lấy cớ việc Hán Lữ Hậu  cấm không cho người Hán giao thương với Nam Việt, cho quân đội sang quấy nhiễu quận Trường Sa  (sau này là Hồ Nam) và đồng thời tự xưng là Hoàng Đế (183 tr.CN). Hán triều cho quân sang đánh  Nam Việt nhưng thất bại, phải rút quân về nước (181 tr.CN)   Khi Trung Hoa đã ổn định dưới thời Hán Văn Đế, Hán triều phải cho Lục Gia sang sang chiêu dụ nhiều  lần thì Triệu Đà mới từ bỏ đế hiệu mà thần phục nhà Hán như cũ. Triệu Đà chấp nhận và hai bên lại  thông hiếu.   Triệu Đà làm vua hơn 70 năm, thọ đến 121 tuổi (137 tr.CN)     2­Triệu Văn Vương (137­125 tr.CN)   Cháu đích tôn của Triệu Đà là Hồ lên nối ngôi, lấy hiệu là Triệu Văn Vương, là người bất tài nên khi bị  vua Mân Việt đánh phá Triệu Văn Vương phải cầu viện nhà Hán và cho con là Anh Tề sang làm con  tin. Anh Tề ở đấy mười năm. Khi Triệu Văn Vương mất, Anh Tề mới được về nước để nối ngôi.     3­Triệu Minh Vương (125­113 tr.CN) Anh Tề làm vua xưng làm Triệu Minh Vương, lập người vợ lẻ cưới bên Tầu là Cù Thị làm Hoàng Hậu  và người con trai của Cù Thị là Hưng làm thái tử. Minh Vương làm vua được 12 năm (125­113 tr.CN)  thì mất.   4­Triệu Ai Vương (113 tr.CN) Thái Tử Hưng  được lên nối ngôi. Đó là Triệu Ai Vương. Cũng năm đó nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quí  sang chiêu dụ sáp nhập lãnh thổ. Vì Thiếu Quí là người tình cũ của Cù Thị Thái Hậu, nên 2 người đã  tư thông với nhau.    Triệu Ai Vương và Cù Thị nghe lời Thiếu Quí có ý định bán nước sang chầu vua Hán thì bị quan Tể  Tướng là Lữ Gia hịch tội đem cấm binh giết chết cả 3 người.    4­Triệu Dương Vương(112­111 tr.CN) Sau khi dẹp yên bọn phản quốc, Lữ Gia cùng triều thần tôn người con trưởng của Minh Vương là Kiến  Đức có mẹ là người Việt Nam lên ngôi làm Triệu Dương Vương.   Biết trước nhà Hán sẽ không bỏ qua nên Lữ Gia sai quân đóng giữ chỗ hiểm yếu để phòng bị. Năm  111 tr.CN Phục Ba Tướng Quân Nhà Hán là Lộ Bác Đức và Dương Bộc chia quân 5 đạo sang đánh  chiếm, Lữ Gia chống không nổi sự xâm lăng của quân Hán, bị quân Hán giết chết. Nam Việt bị nhập  vào Nhà Hán . Sau khi nhà Triệu bị diệt, nước Việt bi giặc Tàu đô hộ trên ngàn năm. Trãi qua các triều đại như  Đông Tây Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc Triều, nhà Tùy, Đường, Ngũ Hồ Loạn Hoa. Chính sách  cai trị của Trung Hoa đã đưa dân Việt vào cả một vũng lầy đen tối, dùng cái khó mà bó người  dân, bóc lột trên xương máu dân lành, tuyệt đại đa số phải sống trong nghịch cảnh tệ nạn  nghèo khổ. Do chính sách khắc nghiệt này, nên đã có nhiều sự khởi nghĩa tranh đấu cho nền tự  chủ cho nước nhà đem lại ấm no cho dân tộc.   Sự Phân Chia Nước Việt Chiếm được Nam Việt, nhà Hán cải thành Giao Chỉ Bộ chia làm 9 quận rồi phái quan lại Tàu sang làm  Thái Thú Cai Trị mở màn cho hơn 1000 năm đô hộ dân Việt.   Giao Chỉ Bộ có tất cả chín quận là:    1. Nam Hải (Quảng Đông)  2. Uất Lâm (Quảng Tây)  3. Thương Ngô (Quảng Tây)  4. Hợp Phố (Quảng Đông)  5. Giao Chỉ (phần đất Bắc bộ cho đến Ninh Bình­thủ phủ là huyện Liên Lâu)  6. Cửu Chân (từ Ninh Bình đến Hoành Sơn)  7. Nhật Nam (từ Hoành Sơn đến núi Đại Lãnh tức là đèo Cả)  8. Châu Nhai (đèo Hải Nam)  9. Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam)    Đứng đầu Giao Chỉ Bộ là quan Thứ Sử, mỗi quận là chức Thái Thú và một Đô úy coi việc quân sự,  ngoài ra còn có quan Duyên Sứ để giám sát các quận.    Tại các huyện, nhà Tây Hán vẫn cho các lạc tướng trị dân và có quyền thế tập như cũ.   Dân Việt phải nộp cho chính quyền đô hộ những của quý, vật lạ như đồi mồi, ngọc trai, sừng tê, ngà  voi, lông chim trả, các thứ thuế muối, thuế sắt.     Những cuộc chiến tranh với Lâm Ấp và Nam Chiếu trong thời kỳ Bắc Thuộc   1­ Những Cuộc Chiến Với Lâm Ấp Lâm Ấp là một nước nhỏ phía nam Giao Châu, dưới thời Hồng Bàng có tên là Hồ Tôn.   a)­Dưới thời Đông Tấn năm 336, Phạm Văn giết Vua Lâm Ấp sau đem quân Lâm Ấp sang quấy phá  Giao Châu nhưng bị Đỗ­Viện và Đỗ Tuệ Độ dẹp yên.   b)­Dưới thời, Tống Văn Đế năm 433, nhà Tống suy yếu bởi sự phân tranh của Nam Bắc Triều, vua  Lâm Ấp là Phạm Dương Mại kéo quân sang chiếm Giao Châu. Tống Đế sai Đàn Hoà Chi Sang kéo  quân đánh phá vào thẳng kinh đô Lâm Ấp. Đàn Hoà Chi vì vụ chiếm vàng bạc nên bị cách chức và  đuổi về Tàu.   c)­Dưới thời nhà Tùy, Vua Tùy thấy Lâm Ấp giàu có nên sai tướng Lưu Phương vào chiếm Lâm Ấp.   d)­ Đời nhà Đường bên Trung Hoa, Đường Thái Tông, vua Lâm Ấp Cát Cát Địa cải quốc hiệu là Hoàn  Vương rồi kéo quân sang chiếm châu Hoan và châu Ái. Năm 808, dưới đời Đường Hiến Tôn, quan Thứ Sử Giao Châu là Trương Chu kéo thủy quân đánh vào  Lâm Ấp. Quân Lâm Ấp bị đánh bại rút về phía Nam, đổi quốc hiệu là Chiêm Thành.   2­ Cuộc Giao Chiến với Nam Chiếu Nam Chiếu (Đại Lý) là một nước ở Tây Bắc Giao Châu ngày nay là tỉnh Vân Nam bên Tàu.   a)­ Dưới đời nhà Đường, vì chính sách bóc lột phi nhân khiến dân Giao Châu không phục, Độ Hộ sứ  Giao Châu bấy giờ là Lý Hộ tìm cách bóc lột những vùng Mường, Mán rồi còn giết Tù Trưởng người  Mán là Đỗ Tồn Thành, nên người Mường, Mán tức giận cầu cứu quân NamChiếu.   Ban đầu quân Nam Chiếu chỉ quấy phá Giao Châu, nhưng năm 860, khi đã hùng mạnh xưng quốc  hiệu Đại Mông kéo quân sang đánh và chiếm được Giao Châu.   Vua Đường phải sai Cao Biền sang đánh dẹp. Sau khi đánh đuổi Nam Chiếu, Cao Biền xây thành Đại  La để cai trị một cách công minh nên được dân chúng kính phục. Tuy nhiên theo truyền thuyết Cao  Biền thấy địa linh đất Việt hùng mạnh sẽ nẩy sanh nhiều nhân tài nên đã cởi diều giấy bay yểm bùa  phế phong thủy làm hại rất nhiều long mạch.   3. Nhà Đông Hán (còn gọi là Hậu Hán, 25­220)­ Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40­43)   Nhà Đông Hán lên thay thế nhà Tây Hán vào năm 25 sau Công Nguyên. Chính dưới triều đại này đã  nổ ra cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.   Hai Bà là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh (vùng Ba Vì ­ Tam Đảo). Tương truyền rằng bà Man Thiện,  mẹ của Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn dòng dõi Hùng Vương. Hai bà mồ côi cha sớm, được mẹ nuôi  nấng và dạy cho nghề trồng dâu nuôi tằm cùng rèn luyện võ nghệ. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách,  con trai Lạc tướng huyện Chu Diên.   Lúc bấy giờ nhà Đông Hán đang cai trị hà khắc nước Việt, viên Thái thú Tô Định là người bạo ngược,  tham lam "thấy tiền giương mắt lên". Hai bà cùng Thi Sách chiêu mộ nghĩa quân, chuẩn bị khởi nghĩa,  nhưng Thi Sách bị Tô Định giết chết.   Tháng ba năm 40 sau Công Nguyên, Trưng Trắc và Trưng Nhị tiếp tục sự nghiệp, dựng cờ khởi nghĩa  ở Hát Môn, trên vùng đất Mê Linh với lời thề:   "Một xin rửa sạch thù nhà Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng Ba kẻo oan ức lòng chồng Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này"   (Thiên Nam ngữ lục)   Cuộc khởi nghĩa Mê Linh lập tức được sự hưởng ứng ở khắp các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam,  Hợp Phố. Các cuộc khởi nghĩa địa phương được quy tụ về đây thống nhất lại thành một phong trào  rộng lớn từ miền xuôi đến miền núi. Đặc biệt trong hàng ngũ nghĩa quân có rất nhiều phụ nữ như Lê  Chân, Thánh Thiên, Bát Nàn, Nàng Tía, ả Tắc, ả Di... Từ Mê Linh, nghĩa quân đánh chiếm lại thành  Cổ Loa rồi ồ ạt tiến đánh thành Luy Lâu. Hoảng sợ trước khí thế của nghĩa quân, quan lại của nhà  Đông Hán bỏ chạy. Tô Định bỏ cả ấn kiếm, cắt tóc, cạo râu trốn chạy về nước. Chỉ trong một thời gian  ngắn, hai Bà Trưng đã thâu phục 65 huyện thành, nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước Việt hồi đó. Cuộc  khởi nghĩa thành công, đất nước được hoàn toàn độc lập. Hai bà lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh.   "Đô kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta" (Đại Nam quốc sử diễn ca)   Năm 42, nhà Hán cử Phục Ba tướng quân Mã Viện đem hai vạn quân cùng hai ngàn thuyền, xe sang  xâm lược nước Việt. Hai bà đem quân đến đánh quân Hán ở Lãng Bạc nhưng vì lực lượng yếu hơn nên  bị thua. Hai bà phải lui về Cấm Khê (Vĩnh Yên, Vĩnh Phú) và cầm cự gần một năm. Bị bại trận, hai bà  chạy về Hát Môn gieo mình xuống sông Hát tự vận (43). Hàng năm dân gian lấy ngày 6.2 Âm lịch làm  ngày kỷ niệm hai Bà Trưng.   Sau khi đàn áp thành công cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng, Mã Viện đem đất Giao Chỉ về lệ thuộc  lại nhà Đông Hán như cũ đóng phủ trị trại Long Biên. Để đàn áp tinh thần quật khởi của dân Việt, Mã  Viện cho dựng một cột đồng ở chỗ phân địa giới. Trên cột đồng có khắc sáu chữ: "Đồng trụ chiết,  Giao Chỉ diệt", có nghĩa là nếu cây trụ đồng này đổ thì dân Giao Chỉ bị diệt vong. Có thuyết cho rằng,  do dân Việt cứ mỗi lần đi ngang qua, đều bỏ vào chân cột một hòn đá, vì thế trụ đồng bị lấp dần đi. Về  sau không còn biết vị trí của chiếc trụ đồng nữa là vì vậy.   Các chức Thái thú, Thứ sử vẫn được duy trì nhưng chế độ lạc tướng cha truyền con nối bị bãi bỏ.  Chính sách cai trị của người Hán ngày càng hà khắc, quan cai trị tham nhũng tàn ác. Dân Việt cực khổ  điêu đứng, lên rừng kiếm châu báu, xuống bể mò ngọc trai để cung phụng cho chính quyền đô hộ.  Dân quận Hợp Phố chịu nặng nề cảnh mò ngọc nên bỏ xứ đi xiêu tán rất nhiều.   Nhà Hán chủ trương đồng hóa dân Việt. Họ cho di dân Hán sang ở lẫn với dân Việt, lấy vợ Việt. Tuy  thế người Việt vẫn giữ được bản sắc dân tộc mình. Đến đầu thế kỷ thứ ba, Giao Chỉ có Thái thú Sĩ  Nhiếp, là người tôn trọng Nho học, giúp dân giữ lễ nghĩa và giữ gìn được an ninh xã hội. Vào năm 203,  Sĩ Nhiếp dâng sớ lên vua nhà Đông Hán, xin đổi Giao Chỉ thành Giao Châu. Từ đấy có tên Giao  Châu.   4. Nhà Đông Ngô (thời Tam Quốc, 229­280)­ Cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương (248)   Nhà Đông Hán mất ngôi thì nước Trung Hoa lâm vào tình trạng phân liệt của thời Tam Quốc, gồm có  ba nước là Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Châu thuộc về Đông Ngô. Chính dưới chế độ  này đã xảy ra cuộc khởi nghĩa binh của Triệu Trinh Nương (248).   Hai thế kỷ sau cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương (còn gọi là  Triệu Thị Trinh) cùng người anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền núi thuộc quận Cửu  Chân.   Triệu Thị Trinh là người có sức khỏe, gan dạ và có chí khí, Bà vẫn thường nói: "Tôi muốn cưỡi cơn gió  mạnh đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi cứu dân ra khỏi nơi đắm  đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta". Bà theo anh khởi  nghĩa lúc mới 19 tuổi, lập cứ tại vùng Thanh Hóa ngày nay.   Năm 248, nghĩa quân tấn công quân Ngô, Bà Triệu đem quân ra trận cưỡi voi, mặc áo giáp vàng tự  xưng là Nhụy Kiều tướng quân. Nghĩa quân đánh phá nhiều thành quách làm đối phương phải khiếp  sợ. Thứ sử Giao Châu là Lục Dận đem quân đàn áp. Đánh nhau trong sáu tháng, nghĩa quân mai một  dần. Bà Triệu đem tàn quân đến núi Tùng (Thanh Hóa) và tự sát ở đấy.   Vào năm 264, nhà Ngô chia đất Giao Châu ra, lấy Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm làm Quảng  Châu, lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao Châu, đặt trị sở ở Long Biên. Đất  Giao Châu này là lãnh thổ của Việt Nam về sau.   5. Nhà Tấn (265­460) và Nam Triều (Tống, Tề, Lương, 420­588)   Nhà Tấn là một triều đại không được ổn định vì nhiều thân vương cát cứ tại các địa phương đánh nhau  liên tục. Quan lại sang cai trị Giao Châu phần nhiều là người tham lam, cộng vào đó là sự kiểm soát  lỏng lẻo của chính quyền trung ương, tạo nên cảnh tranh giành quyền lực không ngớt. Phía Nam lại có  nước Lâm ấp thường sang quấy nhiễu. Đất Giao Châu loạn lạc không dứt.   Sau thời nhà Tấn, Trung Hoa lại phân liệt ra thành Bắc triều và Nam triều. Giao Châu phụ thuộc vào  Nam triều trải qua các nhà Tống, Tề, Lương. Tình hình Giao Châu dưới các triều vẫn giống như dưới  thời nhà Tấn. Cuộc khởi nghĩa Lý Bôn xảy ra dưới đời nhà Lương, lập nên nước Vạn Xuân, cắt đứt ách  đô hộ phương Bắc trong thời gian hơn nửa thế kỷ (545­602).   6. Lý Nam Đế ­ Nước Vạn Xuân (544­602)   Vào nửa đầu thế kỷ thứ 6, đất Giao Châu nằm dưới sự thống trị của nhà Lương. Thứ sử Giao Châu là  Tiêu Tư, nổi tiếng tham lam, tàn ác. Có được một cây dâu cao một thước, người dân cũng phải đóng  thuế. Thậm chí có người nghèo khổ, phải bán vợ, đợ con, nhưng cũng phải đóng thuế.   Lý Bí, một người quê ở huyện Thái Bình (không phải thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) đứng lên chiêu  tập dân chúng. Ông đã từng giữ một chức quan nhỏ với nhà Lương, cố gắng giúp đỡ những ai bị hà  hiếp, nhưng không làm được việc gì đáng kể, bèn bỏ quan trở về quê nhà và cùng người anh là Lý  Thiên Bảo mưu khởi nghĩa. Ông được nhiều người theo. Trong đó có Thủ lĩnh đất Chu Diên (vùng Đan  Phượng­Từ Liêm, thuộc Hà Tây và ngoại thành Hà Nội) là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục (?­ 571) đem lực lượng của mình theo về. Ngoài ra còn có những nhân vật nổi tiếng khác cũng kéo đến  giúp sức như Tinh Thiều, Phạm Tu, Lý Phục Man..   Mùa xuân năm 542, Lý Bí tiến quân vay thành Long Biên. Quân Lương đầu hàng còn Tiêu Tư thì trốn  thoát về được Trung Hoa. Cuộc khởi nghĩa thành công. Vua nhà Lương vội đưa quân sang nhưng bị  đánh bại.   Năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, lấy niên hiệu là  Thiên Đức, Lý Nam Đế đặt kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch, dựng điện Vạn Xuân để vua quan có nơi  hội họp. Nhà vua còn cho dựng chùa Khai Quốc (sau này là chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây, Hà Nội).   Năm 545, nhà Lương sai một tướng tài là Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược Vạn Xuân. Lý Nam  Đế cùng các tướng sĩ chống không được, phải về vùng rừng núi Vĩnh Phú cố thủ lấy hồ Điền Triệt (xã  Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú) làm nơi thao luyện quân lính. Chẳng bao lâu, lực lượng trở  nên mạnh mẽ. Trần Bá Tiên nhiều lần đem quân đánh phá nhưng không được. Về sau, nhân một cơn  lũ dữ dội tràn vào vùng căn cứ, Trần Bá Tiên theo dòng lũ, thúc quân tiến đánh, Lý Nam Đế phải rút về  động Khuất Lão (còn gọi là động Khuất Liêu, là tên một khu đồi hiện nằm bên hữu ngạn sông Hồng, ở  giữa hai xã Văn Lang và Cổ Tuyết thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Vĩnh Phú). Sau nhiều năm lao lực, Lý  Nam Đế bị bệnh mù mắt, giao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục và mất vào năm 548.   Triệu Quang Phục đánh nhau mấy lần với Trần Bá Tiên nhưng đều thất bại, bèn lấy đầm Dạ Trạch  (Hải Hưng) làm căn cứ. Đầm Dạ Trạch nằm ven sông Hồng, chu vi không biết là bao nhiêu dặm. Giữa  đầm có một bãi đất cứng. Ngoài ra, bốn bề là bùn lầy, người ngựa không thể nào đi được, chỉ có thể  dùng thuyền độc mộc, lấy sào đẩy trên cỏ, nước mà di chuyển. Triệu Quang Phục đóng quân ở bãi đất  nổi và áp dụng kế "trì cửu", tức là đánh lâu dài làm tiêu hao lực lượng của địch quân. Căn cứ địa được  giữ hoàn toàn bí mật, ban ngày im hơi, không nấu nướng, ban đêm đột kích ra đánh phá trại địch. Vì  thế dân chúng tôn xưng ông là Dạ Trạch Vương.   Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương, Năm 550, nhân lúc nhà Lương  suy yếu, Triệu Quang Phục kéo quân về chiếm thành Long Biên, làm chủ được đất nước.   Đến năm 557, Lý Phật Tử, một người cùng họ với Lý Nam Đế, đem quân đánh và đòi chia hai đất nước  cùng Triệu Việt Vương. Để tránh cảnh chiến tranh, Triệu Việt Vương đành chấp thuận, nhưng bất ngờ  bị Lý Phật Tử đánh úp, chạy đến cửa biển Đại Nha (Hà Nam Ninh) gieo mình xuống biển tự tử. Năm  571; Lý Phật Tử chiếm cả nước.   Sau khi lấy được thành Long Biên, Lý Phật Tử xưng đế hiệu là Lý Nam Đế. Để phân biệt Lý Phật Tử  với Lý Bí, sử sách gọi Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế (571­602). Trong khi ấy nhà Tùy (589­618) đã  thống nhất và ổn định được nước Trung Hoa. Vua nhà Tùy sai Lưu Phương đem quân sang đánh Vạn  Xuân. Lưu Phương không cần dụng binh, cho người đi chiêu hàng được Lý Phật Tử. Từ đấy Vạn Xuân  trở thành Giao Châu của nhà Tùy.   7. Nhà Đường (618­907)­Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (722) và của Phùng Hưng (trong  khoảng 766­779)   Nhà Tùy làm chủ nước Trung Hoa chỉ được 28 năm thì bị nhà Đường lật đổ vào năm 618. Nhà Đường  cai trị Giao Châu cay nghiệt nhất trong các chính quyền đô hộ. Những sản vật quý giá của Giao Châu  bị vơ vét đưa về phương Bắc. Trong số đó, có quả vải là lại trái cây mà giới quyền quý nhà Đường rất  ưa chuộng. Về mặt chính trị, nhà Đường sửa lại toàn bộ chế độ hành chính, phân chia lại châu quận,  đổi Giao Châu thành An Nam đô hộ phủ, chia ra làm 12 châu, 59 huyện.   Dưới đời nhà Đường, dân Việt liên tiếp nổi dậy, hai cuộc khởi nghĩa có tính chất rộng lớn nhất là của  Mai Thúc Loan và của Phùng Hưng.   Mai Thúc Loan quê ở làng muối Mai Phụ, thuộc huyện Thiên Lộc, Châu Hoan (Hà Tĩnh ngày nay).  Thuở nhỏ, nhà nghèo, Mai Thúc Loan theo mẹ sống ở làng Ngọc Trừng, huyện Nam Đàn. Ông là  người mạnh khỏe, có nước da đen bóng.   Năm 722, nhân dịp dân phu gánh vải sang cống cho nhà Đường, bị hành hạ, nhiều người bỏ xác dọc  đường, lòng oán thán dâng cao, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu gánh quả vải nổi lên giết  quan quân áp tải và cùng ông phất cờ khởi nghĩa. Mai Thúc Loan chọn vùng Sa Nam (Nghệ An), một  vùng hiểm trở có sông Lam rộng và núi Đụn cheo leo làm căn cứ. Tại đây ông cho xây thành Vạn An,  gồm nhiều đồn lũy, dài cả ngàn mét. Ông xưng đế, lấy thành Vạn An làm Kinh đô. Ông thường được  gọi là Mai Hắc Đế (vua Đen họ Mai) vì nước da đen của ông.   Để lập thành một mặt trận liên hoàn chống quân Đường, Mai Hắc Đế liên kết với các nước Champa,  Chân Lạp và cả Malaysia. Sau khi quy tụ được nhiều lực lượng, Mai Hắc Đế cho quân tiến ra đồng  bằng Bắc bộ, vây đánh thành Tống Bình (Hà Nội). Quan đô hộ là Quang Sở Khách chống không lại,  bỏ thành chạy trốn. Mai Hắc Đế giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng được ít lâu, nhà Đường sai  Dương Tu Húc đem 10 vạn quân, theo lộ trình xưa của Mã Viện, chớp nhoáng tiến vào đất Việt thình  lình tấn công bản doanh của Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế chống không lại, phải vào rừng cố thủ. Ông bị  bệnh và chết ở đấy. Quân Đường, sau khi thắng trận, đem dân Việt ra giết vô số. Thây người không  kịp chôn, chất cao thành gò.   Tuy thắng được Mai Hắc Đế và vẫn còn ham thích quả vải của đất Việt, nhưng nhà Đường không còn  dám bắt dân Việt cống quả vải nữa. Để nhớ ơn của Mai Hắc Đế, dân gian có câu tuyển tụng:   "Cống vải từ nay Đường phải dứt Dân nước đời đời hưởng phước chung".   Hơn 40 năm sau cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế là cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng.   Phùng Hưng vốn gia đình giàu có ở xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây), thuộc dòng dõi Quan  Lang. Theo truyền thuyết, Phùng Hưng có hai người em cùng sinh ba là Phùng Hải và Phùng Dĩnh. Cả  ba anh em đều có sức khỏe hơn người, tay không bắt được hổ.   Vào khoảng năm 767, anh em họ Phùng phất cờ khởi nghĩa. Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng  Hải xưng là Đô Bảo còn Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng. Họ đặt đại bản doanh tại Đường Lâm. Hào kiệt  theo về rất đông. Họ làm chủ cả miền trung du và miền núi Bắc Bộ. Vài năm sau, thấy lực lượng đã  mạnh, Phùng Hưng cho quân tiến vây thành Tống Bình. Theo kế của Đỗ Anh Hàn, cũng người xã  Đường Lâm, Phùng Hưng cho người đi khắp nơi, phao lên là sắp lấy được thành Tống Bình, đồng thời  tiến hành vây thành rất ngặt. Cứ đang đêm, quân khởi nghĩa nổi lửa, đánh chiêng, đánh trống, reo hò  ầm ĩ để uy hiếp tinh thần đối phương. Quan Đô hộ là Cao Chính Bình lo sợ đổ bệnh rồi chết. Phùng  Hưng chiếm được thành, đem lại độc lập cho đất nước.   Phùng Hưng cai trị đất nước trong bảy năm thì mất. Dân chúng vô cùng thương tiếc, tôn ông là danh  hiệu là Bố Cái Đại Vương. "Bố" có nghĩa là cha, "Cái" có nghĩa là mẹ, ví công ơn của Phùng Hưng đối  với Tổ quốc như công ơn của cha mẹ đối với con cái. Dân chúng lập đền thờ ông ở ngay xã Đường  Lâm. Không những được thờ ở quê nhà, Bố Cái Đại Vương còn được thờ làng Triều Khúc. ở đây ông  được thờ làm Thành hoàng tại ngôi đình Lớn. Hàng năm đều có lễ hội tưởng nhớ đến chiến công của  ông.   Sau khi Phùng Hưng mất, nội bộ thân thuộc của ông không giữ được sự đoàn kết. Dân chúng muốn  tôn Phùng Hải lên nối nghiệp, nhưng có một tướng là Bồ Phá Lạc, là người vũ dũng và có nhiều thuộc  hạ, không đồng ý, muốn lập con của Phùng Hưng là Phùng An lên. Bồ Phá Lạc đem quân chống lại  Phùng Hải. Phùng Hải tránh giao tranh, lui về vùng rừng núi, rồi sau đó đi đâu, chẳng ai rõ, Phùng An  lên nối nghiệp. Chẳng bao lâu, nhà Đường sai Triệu Xương đem quân sang, vừa đánh vừa chiêu dụ.  Thấy thế không chống được, Phùng An phải đầu hàng. Xứ Giao Châu lại lệ thuộc nhà Đường lần nữa.   Từ đó cho đến khi Khúc Thừa Dụ (?­907) tự xưng là Tiết Độ sứ, tình trạng của dân Việt vô cùng đen  tối, nhất là vào giữa thế kỷ thứ 9. Quân Nam Chiếu lợi dụng sự bất lực của nhà Đường sang quấy  nhiễu cướp bóc đất Giao Châu. Nam Chiếu là một quốc gia tự trị nằm phía Tây Bắc Giao Châu. Vào  thế kỷ thứ 9, Nam Chiếu trở nên cường thịnh và bắt đầu từ đấy đi xâm lấn các nước lân cận. Giao  Châu bị quân Nam Chiếu sang đánh phá từ năm 846 đến 866 mới chấm dứt. Riêng hai năm 862 và  863, Nam Chiếu đánh đến phủ thành Giao Châu, giết chết hơn 15 vạn người dân Việt. Đến năm 865,  nhà Đường sai một tướng tài là Cao Biền sang đánh dẹp. Hai bên đánh nhau suốt hai năm trời trên đất  Giao Châu, Cao Biền mới diệt được quân Nam Chiếu.   Sau loạn Nam Chiếu, nhà Đường đổi tên An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải Quân (866), phong cho  Cao Biền làm Tiết độ sứ. Chính Cao Biền là người đã cho xây thành Đại La ở bên bờ sông Tô Lịch.   Đến cuối đời nhà Đường, tình hình xáo trộn của Trung Hoa tạo thời cơ cho Khúc Thừa Dụ xây nền tự  chủ (906), đưa đất nước thoát khỏi vòng nô lệ kéo dài cả ngàn năm. Họ Khúc đặt nền móng tự trị (906­923)    Khúc Thừa Dụ 906­907  Vào đầu thế kỷ thứ 10, nhà Đường trở nên suy yếu. Lợi dụng thời cơ này, Khúc Thừa Dụ (?­907), một  hào trưởng cư trú lâu đời ở Hồng Châu (Hải Hưng) nổi lên, tự xưng là Tiết độ sứ (906). Nhà Đường bắt  buộc phải công nhận sự việc ấy và còn phong thêm tước "Đồng binh Chương sự" cho ông nữa. Sử cũ  chép rằng Khúc Thừa Dụ tính tình khoa hòa, nhân ái nên được nhiều người theo về.   Nhà Đường, dù trên danh nghĩa, phong tước và công nhận Khúc Thừa Dụ, nhưng thực chất là không  thể kiểm soát được đất Giao Châu nữa. Khúc Thừa Dụ làm chủ đất nước, xây dựng chính quyền tự  chủ, khởi đầu cho nền độc lập của nước nhà. Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ một năm thì mất, con là Khúc Hạo lên nối nghiệp cha được mười năm  (907­917). Trong mười năm này, Khúc Thừa Hạo cho sửa đổi các khu vực hành chính, cắt đặt người  trông coi mọi việc cho đến tận đơn vị xã, định lại mức thuế ruộng đất và miễn bỏ các lao dịch nặng nề.   Trong khi ấy, tại Trung Hoa, một Tiết độ sứ họ Lưu chiếm lấy vùng Quảng Châu, lập nên nước Nam  Hán.   Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên nối chức Tiết độ sứ. Khúc Thừa Mỹ giao hảo cùng  nhà Lương (đã thay nhà Đường làm chủ Trung Hoa). Vua Nam Hán lấy cớ ấy cho quân sang đánh họ  Khúc. Khúc Thừa Mỹ không chống cự được, bị bắt đưa về Quảng Châu (930). Quân Nam Hán chiếm  đóng thành Đại La. Kế tục sự nghiệp của họ Khúc là Dương Đình Nghệ (?­937), một người làm quan dưới đời Khúc Thừa  Mỹ.   Sau khi Khúc Thừa Mỹ bị bắt, Dương Đình Nghệ dấy binh ở làng Ràng (Dương xá, Thanh Hóa), vốn là  quê của ông. Các hào trưởng như Ngô Quyền, Đinh Công Trứ đem lực lượng của mình gia nhập hàng  ngũ của Dương Đình Nghệ.   Năm 931, Dương Đình Nghệ tiến quân đánh thành Đại La, Thứ sử Giao Châu là Lý Tiến chống không  lại, chạy về Quảng Châu (Trung Hoa) thì bị vua Nam Hán giết chết. Một toán quân Nam Hán được cử  sang để đàn áp quân của Dương Đình Nghệ, nhưng bị đánh tan, phải bỏ chạy về Trung Hoa. Thắng  lợi, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ.   1. Nhà Ngô (939­965)  Cai quản đất nước được sáu năm thì Dương Đình Nghệ bị một thuộc tướng là Kiều Công Tiễn sát hại.  Ngô Quyền (897­944), tướng tài và đồng thời là rể của Dương Đình Nghệ, đang cai quản Châu ái, đem  quân đi trừng phạt Kiều Công Tiễn. Ngô Quyền là người cùng quê với Phùng Hưng, xã Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà  Tây), đã từng theo Dương Đình Nghệ từ buổi ban đầu và có uy tín lớn với dân chúng.   Trước sự tiến công của Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn lo sợ, vội vàng đi cầu cứu nhà Nam Hán. Vua  Nam Hán nắm cơ hội thực hiện mộng xâm lăng, bèn phong cho con là Hoằng Tháo làm Tĩnh Hải  Quân Tiết độ sứ, sai đem thủy quân đi trước còn bản thân mình sẽ theo đường bộ tiếp ứng.   Năm 938. Ngô Quyền chiếm được thành Đại La, bắt được Kiều Công Tiễn và đem bêu đầu trên thành.  Dù biết tin Kiều Công Tiễn đã bị giết chết, và Ngô Quyền đã làm chủ thành Đại La, quân Nam Hán  vẫn tiến công. Ngô Quyền bèn bày thế trận thủy chiến, cho cắm cọc trên sông Bạch Đằng, chở địch.  Tháng 12 năm ấy, Hoằng Tháo đem thủy binh tiến ồ ạt vào sông Bạch Đằng. Nhân lúc triều cường,  Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra đánh, nhử quân Hoằng Tháo lọt qua trận địa cọc ngầm.   Khi thủy triều xuống mạnh, trận địa cọc ngầm nổi lên, Ngô Quyền thúc đại quân ra đánh. Chiến  thuyền của Nam Hán nặng nề, không thoát được, bị cọc đâm vỡ rất nhiều. Hoằng Tháo bị giết tại trận,  toàn bộ đội thủy quân bị tiêu diệt. Vua Nam Hán nghe tin bại trận và tin Hoằng Tháo bị giết chết,  thương khóc thảm thiết rồi rút về nước. Đánh đuổi quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939), đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Vương đặt ra các  chức quan văn võ, qui định triều nghi, lập bộ máy chính quyền mang tính chất tập quyền.   Dương Tam Kha Soán Ngôi Ngô Quyền chỉ ở ngôi được sáu năm. Lúc sắp mất, Ngô Quyền đem con là Ngô Xương Ngập ủy thác  cho người em vợ là Dương Tam Kha.    Dương Tam Kha là con của Dương Đình Nghệ, em của bà Dương Hậu. Nhưng khi Ngô Quyền mất rồi.  Dương Tam Kha phản bội lòng tin của Ngô Quyền, cướp lấy ngôi, tự xưng là Bình Vương (945­950).    Ngô Xương Ngập phải chạy trốn vào núi. Dương Tam Kha bèn bắt người con thứ của Ngô Quyền là  Ngô Xương Văn làm con nuôi. Ngô Xương Văn, trong một dịp đi hành quân dẹp loạn, cùng với 2 bộ  tướng cũ của Ngô Vương là Dương Cát lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân trở ngược lại bắt được Dương  Tam Kha, nể tình chú cháu Xương Văn không giết mà giáng Tam Kha xuống làm Trương Dương công.  Ngô Xương Văn xưng vương và cho người đi rước anh về cùng làm vua. Xương Ngập xưng làm Thiên  Sách Vương. Không bao lâu Ngô Xương Ngập bệnh chết (954). Nam Tấn Vương Xương Văn trong một kỳ thân  chinh bình loạn Thái Bình không may bị bắn chết. Con là Ngô Xương Xí lên kế nghiệp. Nhưng thời đó chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng tuy đã chấm dứt trong thời kỳ Bắc Thuộc, nhưng đầu óc địa  phương vẫn tồn tại trong một số quý tộc cũ và chỉ chờ cơ hôi thích hợp là tái phát. Hơn nữa tuy Ngô Vương Quyền, có công lớn mở mang nền tự chủ nước nhà nhưng sống không bao  lâu thì mất nên nền tảng xây dựng và cũng cố chính quyền trung ương chưa được vững vàng, hoàn bị.  Uy quyền nhà Ngô chưa vững thì lại bị hành động soán ngôi của Dương Tam Kha làm tan vỡ, con  cháu của Ngô Vương không ai đủ tài đức phục hồi Quyền Uy cũ. Thời Thập Nhị Sứ Quân (965­967)   Thế lực nhà Ngô ngày một yếu kém, khắp nơi loạn lạc.    Con của Xương Văn là Ngô Xương Xí trở thành một trong 12 sứ quân. Đóng giữ ở Bình Kiều Từ đó đất nước trải qua một thời kỳ nội chiến tranh quyền khốc liệt mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân.  12 Sứ Quân gồm có :­ 1. Ngô Xương Xí đóng ở Bình Kiều, nay phủ Khoái Hưng tỉnh Hưng yên 2. Đỗ Cảnh Thạc là tướng cũ của nhà Ngô giữ ở Đỗ Động Giang, nay thuộc tỉnh Hà Đông 3. Trần Lãm xưng làm Trần Minh Công, chiếm Bố Hải Khẩu, nay thuộc tỉnh Thái Bình 4. Kiều Công Hãn xưng là Kiều Tam Chế chiếm Phong Châu, nay thuộc tỉnh Sơn Tây 5. Nguyễn Khoan tự Nguyển Thái Bình đóng tại Tam Đái, nay là tỉnh Vĩnh Phúc Yên 6. Ngô Nhật Khánh xưng là Ngô Công Lãm giữ đất Đường Lâm, nay là vùng Sơn Tây 7. Nguyễn Thủ Tiệp xưng là Nguyễn Lịnh Công giữ vùng Tiên Du, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh 8. Lữ Đường xưng là Lữ Tá Công, nắm đất Tế Giang, nay là huyện Văn Giang, Bắc Ninh 9. Nguyễn Siêu = Nguyễn Hữu Công nắm giữ tại Tế Giang, nay là huyện Thanh Trì, Tỉnh Hà  Đông 10. Kiều Thuận xưng là Kiều Lịnh Công nắm đất Hồi Hồ, nay thuộc tỉnh Phú thọ 11. Phạm Bạch Hổ xưng là Phạm Phòng Át, chiếm giữ đất Đằng Châu nay thuộc tỉnh  Hưng Yên. 12. Lý Khuê tự phong Lý Lãng Công, nắm đất Siêu Thoại nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Thời kỳ 12 Sứ Quân, 3 năm chinh chiến nội loạn khiến đất nước tan hoang, dân tộc điêu linh. Nhưng  may nhờ có vị anh hùng Đinh Bộ Lĩnh tướng tài của sứ quân Trần Minh Công ở  Thái Bình, dẹp yên  được nội loạn Nhà Đinh (968­980) ­ Đại Cồ Việt  Sau khi dẹp tan loạn sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là  Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình)   Đồng thời với gian đoạn này, ở Trung Hoa, nhà Tống làm chủ đất nước và tiêu diệt nước Nam Hán  (970). Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang thông hiếu. Đến năm 972 nhà vua sai Đinh Liễn đem quà sang  cống. Vua Tống bèn phong cho Đinh Tiên Hoàng làm An Nam Quận vương và Đinh Liễn làm Tĩnh Hải  Quân Tiết độ sứ.   Đinh Tiên Hoàng đặt ra những luật lệ hình phạt nặng nề như bỏ phạm nhân vào dầu hay cho hổ báo  xé xác.   Quân đội dưới thời Đinh Tiên Hoàng đã được tổ chức chặt chẽ, phân ra làm các đơn vị như sau:  • Đạo = 10 quân  • Quân = 10 lữ  • Lữ = 10 tốt  • Tốt = 10 ngũ  • Ngũ = 10 người.  Năm 979, nhân lúc Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn say rượu, nằm ở sân điện, một tên quan hầu là Đỗ  Thích giết chết cả hai. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi Sau khi Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết chết, đình thần tìm bắt được Đỗ Thích và đem giết chết đi  rồi tôn người con nhỏ là Đinh Tuệ, mới sáu tuổi lên làm vua. Quyền bính ở cả trong tay Thập Đạo  Tướng quân Lê Hoàn. Lê Hoàn lại có quan hệ chặt chẽ với người vợ góa của Đinh Tiên Hoàng là  Dương Thái Hậu nên uy thế rất lừng lẫy. Các công thần cũ của Đinh Bộ Lĩnh như Nguyễn Bặc, Đinh  Điền đem quân vây đánh Lê Hoàn nhưng bị Lê Hoàn tiêu diệt và giết cả.   Nhà Tiền Lê (980­1009)   Nhà Tống lợi dụng sự rối ren trong triều nhà Đinh, chuẩn bị cho quân sang xâm lược Đại Cồ Việt. Thái  hậu Dương Vân Nga trao long cổn (áo bào của vua Đinh Tiên Hoàng ­ tượng trưng cho uy quyền của  nhà vua) cho Lê Hoàn và cùng quan lại, quân lính tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi, lấy hiệu là Lê Đại Hành, lập nên nhà Tiền Lê. Để có thời gian chuẩn bị, nhà vua  phái sứ giả qua xin hòa hoãn cùng nhà Tống. Đồng thời nhà vua gấp rút bày binh bố trận. Đầu năm  981, quân Tống theo hai đường thủy bộ, vào đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành một mặt cho quân chận  toán quân bộ ở Chi Lăng (Lạng Sơn). Tướng Hầu Nhân Bảo, cầm đầu toán quân bộ, mắc mưu trá  hàng của Lê Hoàn, bị chém chết. Toán quân bộ bị diệt quá nửa, tan rã. Toán quân thủy bị chặn ở  Bạch Đằng, nghe tin thất bại, bèn tháo chạy về nước. Dù chiến thắng, Lê Đại Hành vẫn giữ đường lối hòa hoãn, cho thả các tù binh về nước, đồng thời cho  người sang nhà Tống xin triều cống. Thấy thế không thắng được Lê Đại Hành, vua Tống đành chấp  thuận, phong cho Lê Đại Hành làm Tiết độ sứ. Không còn lo lắng việc chống Tống nữa, Lê Đại Hành sửa sang mọi việc trong nước. Ông mở mang  kinh đô Hoa Lư, củng cố bộ máy chính quyền trung ương, sắp xếp các đơn vị hành chính. Để khuyến  khích hoạt động nông nghiệp, Lê Đại Hành làm lễ cày ruộng Tịch điền, mở đầu cho tục lệ này ở đất  nước. Về đối ngoại, nhà vua tuy thần phục nhà Tống và chịu lệ cống, nhưng hoàn toàn không lệ thuộc  gì cả. Lê Hoàn làm vua được 24 năm, mất năm 1005, thọ 65 tuổi. Sau khi Lê Đại Hành mất, Thái Tử Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị Long Đĩnh sai người giết  chết. Các hoàng tử đánh nhau trong 8 tháng để tranh ngôi. Cuối cùng Lê Long Đĩnh diệt được các  hoàng tử khác và lên ngôi vua cai trị đất nước. Lê Long Đĩnh là người hoang dâm, không thiết gì việc xây dựng đất nước, chỉ chú trong đến việc ăn  chơi. Do bị bệnh hoạn, mỗi khi thiết triều, Lê Long Đĩnh không thể ngồi được mà phải nằm, nên sử  sách gọi ông tà là Lê Ngọa Triều. Lê Long Đĩnh lại rất tàn ác, đặt ra nhiều hình phạt dã man để mua  vui. Lê Long Đĩnh ở ngôi 4 năm (1005­1009) thì chết. Triều đình đưa người dòng họ khác là Lý Công  Uẩn lên ngôi vua. III. Tình hình kinh tế, văn hóa thời Ngô ­ Đinh ­ Lê Kinh tế: Nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu trong sinh hoạt kinh tế. Phần lớn ruộng đất công của làng  xã. Nông dân được làng xã chia ruộng để cày cấy, nộp thuế và đi lính cho nhà vua. Khi có những công  trình xây dựng lớn như xây cung điện, xây thành, làm đường thì họ phải tham gia. Các vua rất chú ý  khuyến khích nông nghiệp. Lê Hoàn là vua Việt Nam đầu tiên cử hành lễ cày tịch điền vào mùa xuân  hàng năm. Từ đó, các vua thời sau đều giữ lệ ấy. Song song với nông nghiệp, vấn đề thủy lợi cũng được các vua chú ý kênh ngòi được đào vét nhiều  nơi vừa để tưới ruộng vừa để tiện lợi giao thông bằng thuyền bè. Trên những bến đò quan trọng, nhà  nước cho thuyền chở người qua lại. Hệ thống giao thông đường bộ được mở mang. Những đường giao  thông chính đều có đặt các trạm xá. Các nghề thủ công như nghề gốm, nghề dệt, khai mỏ, luyện sắt, đúc đồng... đều được phát triển. Nhờ  ngành thủ công nghệ phát triển cao nên Lê Đại Hành xây được một cung điện làm nơi coi chầu, cột  nhà được thếp vàng, ngói bằng bạc. Cuộc sống vật chất của dân chúng đã được trở lại thanh nhàn hơn trước. Sách sử ghi lại rằng vào năm  987 cả nước được mùa to. Những sinh hoạt lễ hội, nghệ thuật đã trở về lại với người dân Việt. Ca hát  nhảy múa được triều đình khuyến khích. Đinh Tiên Hoàng đặt ra chức Ưu bà để dạy múa hát cho quân  đội. Lê Đại Hành kiến tạo lại trò chơi đua thuyền, cứ vào tháng bảy là tháng sinh nhật của vua, vua  cho thả thuyền ở giữa sông, lấy tre kết làm núi giả trên thuyền, gọi là Nam sơn rồi cho đua thuyền. Lễ  hội này cũng được triều nhà Lý kế tục. Lê Đại Hành còn tổ chức hội hoa đăng, hội đánh cá. Phật giáo: Một điểm đặc biệt của thời Ngô ­ Đinh ­ Lê là sự hưng thịnh của phật giáo. Các nhà vua đã  lấy lý thuyết Phật giáo làm tư tưởng chủ đạo cho việc trị dân và việc giải hóa ảnh hưởng của nhà Hán  sau ngàn năm Bắc thuộc. Phật giáo đã được thâm nhập vào đất nước từ thế kỷ thứ nhất, trước Nho giáo. Những người đầu tiên  mang tôn giáo này đến không phải là những nhà truyền giáo hay là những bậc chân tu mà là những  nhà buôn bán người ấn Độ theo đạo phật, họ đến buôn bán và trong thời gian lưu trú, họ ăn chay niệm  Phật cúng bái theo nghi lễ Phật giáo, có người lại lấy vợ Việt và dần dà những sinh hoạt tôn giáo của  họ lan đến người Việt. Lý thuyết đạo phật cho rằng đời là bể khổ, con người bị rằng buộc trong kiếp  luân hồi, muốn thoát khỏi cảnh ấy, con người phải diệt dục, phải diệt lòng ham muốn để tiến tới niết  bàn. Lý thuyết ấy phù hợp với tâm trạng của người Việt đang ở trong cảnh đô hộ. Vào thế kỷ thứ hai thì các tăng sĩ theo phái Đại thừa đến truyền giảng đạo phật. Đến năm 580, phái  thiền đầu tiên của Việt Nam được Vinitaruci (Tỳ Ni Đa Lưu Chi) thành lập (Thiền học là do  Bodhidharma, người ấn, sáng tạo. Theo ông, nguồn gốc bản chất của con người là thiện và con người  có khả năng giao tiếp trực tiếp với Phật bằng trái tim chân thành, "không biết gì là biết hết tất cả"). Vinitaruci là người dòng dõi Bà La Môn, gốc ở phía Nam Thiên Trúc. Sau khi thấm nhuần giáo lý của  Phật, ông đến Trung Hoa và sau đó xuôi đến Giao Châu và trụ trì tại chùa Pháp Vân ở làng Cổ Châu  (Long Biên­580). Ông bắt đầu dịch kinh Phật, tác phẩm đầu tiên là kinh "Tượng đầu tinh xá" mang tính  chất thiền học, nói về sự giác ngộ như một cái gì không thể dùng lời nói và chữ viết để diễn tả được,  tuệ giác được truyền thẳng vào tâm người, thấy được nhân tâm và thành chính quả. Thiền phái này  truyền được 19 đời đến năm 1213 mới dứt. Những người nổi tiếng nhất trong phái thiền này là Từ Đạo  Hạnh, Vạn Hạnh. Phái thiền thứ hai của Việt Nam do nhà sư Vô Ngôn Thông thành lập vào thế kỷ thứ chín. Vô Ngôn  Thông gốc người Quảng Đông đến Giao Châu vào năm 820 vào trụ trì tại ngôi chùa Kiến Sơ, làng Phù  Đổng (Bắc Ninh). Vô Ngôn Thông tính tình trầm lặng ít nói, nhưng lại hiểu biết mau chóng cho nên  được người đời tặng cho danh hiệu là Vô Ngôn Thông. Ông là người phát triển phương pháp bích quan  (thiền tọa bằng cách xây mặt vào vách). Ông phủ nhận việc đi tìm chân lý, niết bàn qua các kinh điển  mà chỉ bằng thiền tại tâm, ông chủ trương con người có thể trong giấy lát đạt đến giác ngộ tức khắc,  khỏi cần qua nhiều giai đoạn tiệm tiến bởi vì "Phật tại tâm" Vào thời Ngô ­ Đinh ­ Lê, sau khi đất nước giành lại được độc lập, những nhà nho được đào tạo theo  kiểu Trung Hoa bị gạt ra ngoài cuộc sống chính trị, nhà nước trọng dụng các nhà sư và chính họ đã có  một vai trò quan trọng trong việc cai trị đất nước. Đinh Tiên Hoàng là người rất sùng đạo Phật. Năm 973 nhà vua phân định giai cấp cho giới tăng sĩ, lập  ra một hế thống tăng lữ, đứng đầu là nhà sư Ngô Chân Lưu, một vị Tổ thuộc thế hệ thứ năm của phái  thiền Vô Ngôn Thông. Hệ thống tăng lữ này đứng bên cạnh vua, giúp vua trong việc cai trị. Đinh Tiên  Hoàng phong cho Ngô Chân Lưu danh hiệu Khuông Việt đại sư (nghĩa là giúp nước Việt) cai quản  toàn bộ hệ thống tăng giá trong nước. Trong nước, chùa tháp được xây dựng. Nă 973 Đinh Liễn cho dựng tại Hoa Lư 100 cột đá khắc kinh  Phật, gọi là kinh tràng. Các nhà sư tạo thành một tầng lớp có học thức và có uy tín trong xã hội. Các  tác phẩm văn hóa của thời ấy phần nhiều là của các nhà sư như Đỗ Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh. Vào thời Tiền Lê, các nhà sư tiếp tục được trọng dụng Khuông Việt vẫn được Lê Đại Hành ưu đãi.  Sách Thiền uyển tập anh chép rằng vua Lê Đại Hành rất kính trọng Khuông Việt đại sư, "phàm những  việc quân quốc trong triều đình đều đưa cho ngài cả". Nhà vua lại còn mời các thiền sư Pháp Thuận  (tức là Đỗ Thuận) và Vạn Hạnh của phái thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm cố vấn chính trị. Nhà Lý (1010­1225)  • Lý Thái Tổ 0110­1028  • Lý Thái Tông 1028­1054  • Lý Thánh Tông 1054­1072  • Lý Nhân Tông 1072­1127  • Lý Thần Tông 1127­1138  • Lý Anh Tông 1138­1175  • Lý Cao Tông 1176­1210  • Lý Huệ Tông 1211­1225  • Lý Chiêu Hoàng 1225  I. Lý Bát Đế Năm 1009, sau khi Lê Long Đĩnh chết, Triều đình tôn Lý Công Uẩn, một người có uy tín và thế lực  trong triều lên làm vua. Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Tiên Sơn, Hà Bắc) không có cha, mẹ họ Phạm. Thời niên thiếu của  Lý Công Uẩn trải qua trong môi trường Phật giáo. Năm lên ba, Lý Công Uẩn làm con nuôi cho nhà sư  Lý Khánh Vân (vì thế ông mang họ Lý). Sau đó ông lại là đệ tử của Sư Vạn Hạnh và ở hẳn trong chùa  Lục Tổ (còn gọi là chùa Cổ Pháp) Lớn lên, Lý Công Uẩn được giữ một chức nhỏ trong đội cấm quân của vua Lê Đại Hành. Ông nổi tiếng  là người liêm khiết và được giới Phật giáo ủng hộ. Năm 1005, sau khi Lê Đại Hành mất, các hoàng tử  tranh ngôi, Thái tử Long Việt lên ngôi chỉ mới ba ngày thì bị Lê Long Đĩnh giết. Lý Công Uẩn không  ngại ngần, ôm xác người vua mới mà khóc. Lê Long Đĩnh, Lý Công Uẩn làm Tả thân vệ Điện tiền chỉ  huy sứ, thống lĩnh toàn thể quân túc vệ. Lê Long Đĩnh chết vào năm 1009 sau một thời gian trị vì tàn bạo. Lúc bấy giờ giới Phật giáo với các vị  cao tăng danh tiếng như sư Vạn Hạnh đang có uy tín trong xã hội và trong triều đình. Họ cùng quan  đại thần là Đào Cam Mộc đưa Lý Công Uẩn lên làm vua. Lý Công Uẩn lên ngôi, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, lập nên nhà Lý. Nhà Lý truyền được tám đời nên sử sách  thường gọi là Lý Bát Đế (không kể đời Lý Chiêu Hoàng) Lý Thái Tổ là một vị vua hiền từ, rất lo cho dân. Vua ở ngôi được 19 năm, mất vào năm 1028. Việc  tang lễ chưa kịp hoàn tất thì các hoàng tử tranh nhau ngôi vua dù Lý Phật Mã đã được lập làm Thái tử  từ lâu. Nhờ sự giúp sức đầy dũng mãnh của Lê Phụng Hiểu mà Lý Phật Mã được lên ngôi, lấy hiệu là  Lý Thái Tông. Các hoàng tử đã từng tranh ngôi với Lý Phật Mã xin về chịu tội, với tinh thần từ bi hỉ xả  của đạo Phật, nhà vua tha tội và phục chức cho họ lại như cũ. Lý Thái Tông cũng là một vị vua nhân từ. Nhà vua thường tha thuế cho dân chúng mỗi khi trong nước  gặp nạn mất mùa hoặc vừa có chiến tranh. Ngay đối với kẻ làm nội loạn, nhà vua cũng dùng chữ nhân  để đối xử. Như trường hợp Nùng Trí Cao, sau khi nổi lên cát cứ, bị bắt, vua Thái Tông không những  tha tội làm loạn mà còn phong tước cho nữa. Vua Lý Thái Tông làm vua được 27 năm thì mất. Lý Thánh Tông lên ngôi vào năm 1054 và cũng trong năm ấy nhà vua đặt quốc hiệu là Đại Việt. Lý  Thánh Tông nổi tiếng nhân từ, yêu dân như yêu con. Nhà vua còn thương đến cả những người bị tù tội,  cấp cho họ chăn chiếu để đắp, cho cơm ăn ngày hai bữa. Vì thế, dưới triều này, trong nước ít có nội  loạn, cuộc sống tương đối thanh bình. Nguyên phi của vua là bà ỷ Lan, nổi tiếng giỏi việc trị nước thay  vua khi vua bận đi đánh Champa. Bấy giờ, cương vực của Đại Việt có thêm phần đất Quảng Bình,  Quảng Trị ngày nay. Vua Thánh Tông mất vào năm 1072, Thái Tử Càn Đức, là con của vua Lý Thánh Tông cùng bà ỷ Lan,  mới 7 tuổi, lên làm vua, lấy hiệu là Lý Nhân Tông. Quan Thái sư là Lý Đạo Thành làm phụ chính. Đặc  biệt dưới triều Lý Nhân Tông có cuộc phá Tống của Lý Thường Kiệt. Lý Nhân Tông mất năm 1127, làm vua được 56 năm. Vì vua Nhân Tông không con nên đã lập con của  người em lên làm thái tử. Đó là Lý Thần Tông, lúc ấy mới có 13 tuổi. Tuy vua nhỏ tuổi nhưng các quan  đại thần hết lòng giúp đỡ, nên trong nước cũng được yên ổn, ít có loạn lạc. Lý Thần Tông chỉ làm vua  được mười năm thì mất. Con là Lý Anh Tông mới ba tuổi đã làm vua, được Tô Hiến Thành phụ tá đắc  lực nên việc triều chính vẫn ổn định. Lý Cao Tông lên nối ngôi cha cũng chỉ có ba tuổi. Nhà Lý bắt đầu suy vong từ đây. Vào đầu triều Lý  Cao Tông, Tô Hiến Thành còn làm phụ tá vài năm thì mất, triều thần vẫn còn giữ được nền nếp của  các triều trước nên cũng tạm ổn. Nhưng khi lớn lên, Lý Cao Tông ham chơi bời, săn bắn, bê trễ việc  nước lại thêm tiêu hoang phung phí, cho xây cung điện bắt dân chúng phải phục dịch. Quan lại thì  nhũng nhiễu nên trong nước loạn lạc nổi lên như ong. Những cuộc nổi loạn lớn nhất và có ảnh hưởng đến ngai vàng của họ Lý là loạn Phạm Du và loạn  Quách Bốc. Năm 1208, Phạm Du nổi lên làm loạn ở Nghệ An, vua sai quan phụng ngự là Phạm Bỉnh Gi đi đánh  dẹp. Bỉnh Gi đánh đuổi được Phạm Du, tịch biên của cải và đốt phá cửa của Phạm Du. Phạm Du cho  người về kinh đô, đem vàng bạc đút lót cho các quan lại để vu cho Bỉnh Gi tội giết người vô tội. Lý Cao  Tông nghe lời, cho bắt Bỉnh Gi. Thuộc tướng của Bỉnh Gi là Quách Bốc nổi lên, tiến đánh đến tận kinh  thành. Lý Cao Tông cho giết Bỉnh Gi rồi cùng gia quyến chạy trốn. Thái Tử Sam chạy đến nương náu  tại nhà Trần Lý, trưởng họ một gia đình đánh cá giàu có và có thế lực ở làng Tức Mặc, tỉnh Nam Định.  Tại đây, thái tử Sam thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung xinh đẹp nên cưới làm vợ. Gia đình họ  Trần đem của cải ra mộ quân dẹp loạn và hộ tống được nhà vua về Thăng Long. Về kinh được một năm thì vua mất, thái tử Sam lên nối ngôi, đó là Lý Huệ Tông, Trần Thị Dung làm  hoàng hậu. Từ đấy họ Trần uy thế nhất triều, hai người anh của hoàng hậu là Trần Thừa và Trần Tự Khánh cùng  người em họ là Trần Thủ Độ giữ các chức vụ chủ chốt trong triều. Trần Thừa làm Nội thị phán thủ,  Trần Tự Khánh làm Phụ chính, Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Quyền hành ở trong triều nằm  cả trong tay của Trần Tự Khánh, khi Trần Tự Khánh chết rồi thì Trần Thủ Độ nắm quyền. Lý Huệ Tông không có con trai, chỉ có hai người con gái cùng Trần Thị Dung. Công chúa Thuận  Thiên, gả cho Trần Liễu, con trưởng của Trần Thừa. Người con gái thứ hai là Chiêu Thánh, rất được Lý  Huệ Tông yêu mến và lập làm Thái tử. Năm 1224, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Thánh và vào  ở trong chùa Chân Giáo. Dưới sự sắp đặt của Trần Thủ độ, Lý Chiêu Hoàng lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh làm  chồng và sau đó nhường ngôi cho Trần Cảnh, triều Lý chấm dứt, triều Trần thay thế. Một cuộc đảo  chánh không đổ máu đã thành công. II. Chính quyền Nhà Lý Sau khi lên làm vua, Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp nên cho dời đô về Đại La (1010) và đổi tên  Đại La thành Thăng Long (Hà Nội). Thăng Long bấy giờ nằm vào vị trí trung tâm của đất nước, là nơi  hội tụ của đường bộ, đường sông. Theo quan niệm của người xưa, Thăng Long có "được cái thế rồng  cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương Đông Tây Nam Bắc; tiện hình thế núi rừng sau trước... Xem  khắp nước Việt ta chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất  của đế vương muôn đời" (Chiếu dời đô). Thời nhà Lý, các hoàng tử đều được nhà vua phong tước vương và đều có bổn phận đi đánh dẹp các  cuộc nội loạn, nên ai cũng giỏi việc quân sự. Các công chúa thì được phân công trông coi việc trưng  thu các thứ thuế. Số hậu phi và cung nữ được định rõ ràng dưới triều vua Lý Thánh Tông: hoàng hậu  và phi 13 người, ngự nữ 18 người, nhạc kỹ 100 người. Cơ cấu hành chính trong nước được vua Lý Thái Tổ cải tổ. Toàn quốc được chia ra làm 24 lộ, phủ do  quan lại cai trị. Dưới lộ, phủ là huyện và hương. Làng xã tự bầu người quản lý và có bổn phận đóng  thuế cho Nhà nước. Bộ luật đầu tiên của nước ta được viết ra dưới triều Lý Thái Tông (1042). Đó là bộ Hình thư, nhưng  hiện nay văn bản của bộ luật này đã thất truyền. Các sách sử chỉ ghi lại rằng nhà vua định các bậc  hình phạt, các cách tra hỏi và cho phép những người già hoặc vị thành niên được lấy tiền mà chuộc tội  khi phạm phải tội nặng. Có điều lệ cấm không cho mua bán hoàng nam (tức là đàn ông từ 18 tuổi trở  lên) làm nô tì và cấm mổ trâu bò ăn thịt Thuế được định ra sáu loại:  • Thuế ruộng, đầm, ao  • Thuế đất trồng dâu và bãi phù sa  • Thuế sản vật ở núi  • Thuế mắm muối đi qua ải quan  • Thuế sản vật quý như sừng tê, ngà voi hương trầm  • Thuế tre, gỗ, hoa, quả.  Quân đội nhà Lý được tổ chức có quy mô. Dưới đời Lý Thánh Tông, tổ chức quân đội được chia làm  bốn lộ là tả, hữu, tiền, hậu. Tất cả gồm có 100 đội, mỗi đội có lính kỵ và lính bắn đá. Binh pháp nhà Lý  rất nổi tiếng, nhà Tống bên Trung Hoa đã từng bắt chước, áp dụng binh pháp này cho quân đội của  mình. Đến thời Lý Thần Tông có một ít thay đổi trong cơ chế quân đội. Quân lính được sáu tháng một  lần đổi phiên nhau về làm ruộng. Nhờ thế, nhân lực cho nền nông nghiệp vẫn được bảo đảm. III. Phát triển kinh tế 1. Nông nghiệp Đại bộ phận ruộng đất trong nước là ruộng đất của công xã. Công xã có được uy quyền tự trị rộng rãi.  Ruộng đất của công xã nào là do công xã ấy quản lý. Tuy thế, nhà vua vẫn có quyền sở hữu tối cao  tên ruộng đất, nên nông dân cày ruộng công xã vẫn phải nộp tô thuế, lao dịch và đi lính cho nhà vua.  Mức thuế được định là 100 thăng mỗi mẫu. Ngoài ra còn có ruộng cấp cho quý tộc quan lại có công và được gọi là thác đao điền (ruộng ném đao,  từ sự tích Lê Phụng Hiểu). Từ đó hình thành thái ấp của một số quý tộc và quan lại cao cấp. Nông dân  trong thái ấp không có nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước mà chỉ đóng cho chủ thái ấp. Chủ thái ấp  đóng thuế cho nhà nước tương đương với mức thuế của ruộng đất công xã. Nhà nước có ruộng riêng của nhà nước gọi là ruộng quốc khố, người cày ruộng là tù binh hay phạm  nhân. Tô thuế ruộng quốc khố nặng hơn so với các loại ruộng trên. Nhà Lý coi trọng nghề nông và đề ra nhiều chính sách khuyến khích nông nghiệp. Sức lao động và  sức kéo được bảo vệ. Quân lính thay phiên nhau làm ruộng, những người đi phiêu bạt được trở về quê  hương nhận ruộng cày cấy. Trâu bò được bảo vệ. Không những việc trộm trâu bị trừng phạt nặng mà  ngay cả việc giết trâu sở hữu của mình cũng bị ngăn cấm. Nhà nước quy định cứ ba nhà hợp thành  một "bảo" để kiểm soát lẫn nhau và cùng liên đới chịu trách nhiệm về tội giết trâu bò. Vấn đề thủy lợi được tiến hành với qui mô lớn. Đê Cơ Xá được đắp vào triều Lý Nhân Tông đã giúp  chống được lụt của sông Hồng. Nông nghiệp dưới thời nhà Lý nhờ vậy đã được phát triển và nuôi được  dân chúng. 2. Thủ công nghiệp Nghề dệt đã phát triển đáng kể, sản xuất đủ loại từ gấm đoạn, lụa cho đến vải sợi. Năm 1040, Lý Thái  Tông quyết định dùng gấm vóc trong nước để may lễ phục cho vua quan mà không phải mua gấm vóc  của nước ngoài nữa. Nghề gốm tiến một bước khá dài và đạt được trình độ cao về sản xuất cũng như về nghệ thuật. Ngói  gạch được sản xuất đầy đủ để phục vụ cho việc xây dựng nhà cửa cùng lâu đài, cung điện. Có loại  ngói tráng men, ngói bằng sứ trắng, gạch cỡ lớn có trang trí hoa văn và có khắc niên hiệu nhà Lý. Các  đồ dùng bằng sành sứ được chế tạo tinh xảo với các lớp men nâu, men ngọc, men trắng ngà cùng  những hoa văn trang nhã hoặc khắc chìm, nổi rất công phu. Nghề khắc bản in đã xuất hiện, chủ yếu dùng để in các kinh Phật. Giao thông và buôn bán cũng được phát triển. Các con đường giao thông thủy bộ được mở mang. Từ  Thăng Long có những con đường thủy đi đến tận biên giới phía Bắc và phía Nam. Dọc các đường bộ  quan trọng có nhà trạm và các ụ đất cắm biển gỗ ở trên để chỉ phương hướng. Việc buôn bán với nước ngoài rất phát triển. Cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) là nơi tàu thuyền nước ngoài  tấp nập đến trao đổi. IV. Phát triển văn hóa ­ xã hội Nho giáo: Nhà Lý bắt đầu chăm lo việc mở mang học tập và thi cử để tuyển lựa nhân tài ra làm quan.  Năm 1070, Lý Thánh Tông cho dựng Văn miếu (thờ Khổng Tử, Chu Tử và 72 vị tiền hiền) và mở Quốc  Tử Giám. Nền đại học Việt Nam bắt đầu từ đấy. Năm 1075 triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn  nhân tài. Đây là khoa thi tam trường gồm có đủ Phật, Lão, Nho. Vị Trạng nguyên đầu tiên của nước ta  là Lê Văn Thịnh đậu ở khoa thi này. Tầng lớp nho sĩ thấm nhuần ý thức Nho giáo bắt đầu xuất hiện. Trước đây tầng lớp có học trong xã hội  hầu hết là các nhà sư. Từ đời Lý, Nho giáo bắt đầu có địa vị trong xã hội. Tuy thế, chế độ giáo dục và  thi cử theo tinh thần Nho giáo cũng chỉ mới bắt đầu. Số nho sĩ được tạo ra hãy còn quá ít, Phật giáo  vẫn chiếm ưu thế và các nhà sư vẫn giữ vai trò quan trọng trong xã hội. Phật giáo: Phật giáo được truyền bá rộng rãi trong quần chúng và có dấu ấn lên mọi sinh hoạt văn  hóa. Nhà vua và tầng lớp quý tộc rất tôn sùng đạo Phật. Tất cả tám đời vua nhà Lý, vua nào cũng  sùng tín đạo phật. Lý Thái Tổ bản thân là con nuôi của sư Lý Khánh Vân và từng được nuôi dạy trong  chùa từ nhỏ. Đó là vị vua Phật tử đầu tiên của Việt Nam. Còn vua Lý Thái Tông là Tổ thứ bảy của phái  thiền Vô Ngôn Thông, Lý Thánh Tông là Tổ thứ hai của phái thiền Thảo Đường. Phái thiền Thảo Đường là phái thiền thứ ba được thành lập tại Việt Nam vào năm 1068. Việc hiện diện  của vị thiền sư này tại đất Đại Cổ Việt là một sự tình cờ. Thảo Đường vốn người Trung Hoa đang hành  đạo tại Champa, thì vào năm 1069 bị quân Đại Việt bắt trong chuyến vua Lý Thánh Tông đi chinh  phạt. Ông bị đưa về Thăng Long. Tại đây, ông giúp việc cho một vị tăng lục và bộc lộ ra kiến thức  thiền học của mình. Vua biết đến, vời ông làm quốc sư và cho ông trụ trì tại chùa Khai Quốc ở Thăng  Long. Phái thiền này truyền sáu thế hệ. Kể cả thiền sư Thảo Điền, có tất cả 19 thiền sư. Lý Thánh  Tông là vị Tổ thứ hai, Lý Anh Tông thuộc thế hệ thứ tư, Lý Cao Tông thuộc thế hệ thứ sáu. Hệ thống tăng già (sangha) được duy trì, quốc sư có vai trò như người cố vấn tối cao. Nhà vua cho các  nhà sư được bận lễ phục riêng của họ. Quý tộc, quan lại thi nhau cúng tiền bạc cho nhà chùa. Các  nhà sư được cấp phát bằng, được miễn thuế và lao dịch cùng đi lính. Chùa chiền mọc lên khắp nơi,  không năm nào mà không có xây chùa mới, triều đình lại miễn thuế cho dân chúng. Năm 1018, Lý  Thái Tổ cho người đi thỉnh kinh Tam Tạng (Tripitaka) về sao lại và cất vào kho Đại Hưng. Vua Lý Thái Tông cho xây ngôi chùa Một Cột. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng không phải vì tính chất  kỹ thuật mà vì tính nghệ thuật của nó. Kiến trúc phát triển mạnh dưới thời nhà Lý và chịu ảnh hưởng của Phật giáo rất sâu đậm. Cung điện,  lâu đài, thành quách và chùa tháp được xây dựng với qui mô lớn. Thành Thăng Long là một công trình  xây dựng lớn trong các triều đại phong kiến. Thành gồm hai vòng dài khoảng 25 km. Trong hoàng  thành có những cung điện cao đến bốn tầng. Việc xây dựng các chùa tháp rất được coi trọng. Năm  1031 Lý Thái Tông cho xây 950 ngôi chùa. Năm 1056, Lý Thánh Tông lập chùa Sùng Khánh ở  phường Báo Thiên, phải dùng 11 ngàn cân đồng để đúc chuông chùa, năm sau lại dựng Tư Thiên Bảo  tháp trước chùa Báo Thiên, cao vài chục trượng (khoảng 50­60m) và có 30 tầng. Ngoài ra còn có  nhiều chùa tháp khác cũng đồ sộ và huy hoàng không kém. Điêu khắc đời Lý độc đáo, chủ yếu trên gốm và trên đá. Đề tài thường là thiên nhiên như mây, nước,  hoa sen, hoa cúc và đặc biệt là hình tượng con rồng với nhiều nếp cong mềm mại tượng trưng cho  nguồn nước, niềm mơ ước của cư dân trồng lúa. Hình tượng con rồng của triều đại này không lẫn được với các triều đại khác. Những hình điêu khắc ở  chùa Phật Tích cho ta thấy rằng nghệ thuật điêu khắc thời Lý không những tiếp thu nghệ thuật Trung  Hoa mà còn của Champa nữa: Nhạc công và vũ nữ, hình tượng thần điều Garuda. Ca hát nhảy múa là những sinh hoạt phổ cập trong dân chúng. Hát ả đào đã xuất hiện. Cảnh vũ nữ  múa dân hoa hay vũ công vừa múa vừa sử dụng nhạc cụ được khắc trên các phù điêu. Đua thuyền,  múa rối nước là sinh hoạt lễ hội không thể thiếu được trong cuộc sống văn hóa của người dân đời Lý. Ta có thể nói đời Lý là một giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn hóa dân tộc. V. Nhân vật tiêu biểu Ngoài những ông vua lỗi lạc của nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông,  nước Việt thời Lý còn có những nhân vật nổi tiếng như Lê Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành, Lê Văn Thịnh...  đặc biệt có Lý Thường Kiệt, một nhà quân sự tài ba và ỷ Lan Nguyên phi, một người phụ nữ đã phát  huy được khả năng trong việc cai trị đất nước. ỷ Lan nguyên phi ỷ Lan quê ở làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Hà Bắc). Năm 1062 vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà không  có con nên thường đi các nơi để cầu tự. Một hôm vua qua làng Thổ Lỗi, trong khi mọi người đổ ra  đường xem xa giá thì bà đang hái dâu, chỉ đứng dựa cây lan mà nhìn. Vua thấy thế làm lạ, cho gọi đến 
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net