Sự ra đời và phát triển của Triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày nay.
Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết
học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiễn của con người.
1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
Nhìn chung, có hai nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc
xã hội. Đối với triết học Mác thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.1.1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong điều kiện cách mạng công nghiệp
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công
nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã
hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc
công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố
tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội
càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất
công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành
những cuộc đấu tranh giai cấp.
1.1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa được
xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành bị
trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành
những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp)
năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm 1834. Ở Anh có phong trào
Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn
có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu
tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách
mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo
dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong
kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản
Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức. Vì
vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và
trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai cấp vô
sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết triết học
mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh nhanh chóng
đạt được thắng lợi.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã
tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph. Ăngghen khái quát
xây dựng những quan điểm triết học.
1.2. Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên
1.2.1. Nguồn gốc lí luận
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học
Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của
triết học Mác.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen và nghiên
cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của
Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp
lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan
niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí
để xây dựng nên lí luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy
vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để
xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây
dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
thống nhất một cách hữu cơ.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là A.Smít và
Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là tiền
đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông
và S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học Mác. Các Mác và Ph.Ăng
ghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
(quan điểm về vai trò của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu v.v...) và
khắc phục tính không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng những
quan điểm duy vật lịch sử.
Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của triết học Mác cần tìm hiểu không chỉ trong
triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị học
Anh.
1.2.2. Tiền đề khoa học tự nhiên
Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng có mối quan hệ
khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức do các khoa
học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những phát minh mang tính chất
vạch thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều
phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết tế bào, thuyết
tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
sự vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế
giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ
rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện
chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong
tư duy nhân loại cần phải xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học.
Với những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để Các Mác và
Ph.Ăng ghen khái quát xây dựng phép biện chứng duy vật.
Như vậy, triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời sống thực
tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại đã tạo ra.
2. Quá trình hình thành và phát triển triết học Mác - Lênin
Sự hình thành và phát triển triết học Mác - Lênin trải qua một quá trình. Quá trình trải
qua các giai đoạn sau: Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của Các Mác và Ph.Ăng ghen
từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ
nghĩa; giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lí luận triết học; giai
đoạn Lênin bảo vệ hoàn thiện và tiếp tục phát triển triết học Mác.
2.1. Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của Các Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa
duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa
2.1.1. Sự chuyển biến tư tưởng của Các Mác
Các Mác (5/5/1818 - 14/3/1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức (bố là luật sư)
ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều ảnh hưởng của cách mạng tư sản
Pháp và đạo Kitô là tôn giáo độc tôn.
Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã
giúp Các Mác hình thành tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự do. Phẩm chất đó
không ngừng được bồi dưỡng và đã trở thành định hướng cho cuộc đời sinh viên và
đưa Các Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng. Cũng vì thế, trong tình hình lúc đó,
triết học Hêghen với tinh thần biện chứng cách mạng của nó được Các Mác xem là
chân lý. Trong thời gian học ở khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Béc lin (1836 -
1841) ông say mê nghiên cứu triết học, nhằm giải đáp vấn đề giải phóng con người,
thực hiện dân chủ, vươn tới tự do. Năm 1837 Các Mác tập trung nghiên cứu triết học
Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”.
Sau khi nhận bằng tiến sỹ triết học (8/1841), Các Mác chuẩn bị vào giảng dạy triết
học ở trường đại học và dự định xuất bản một tạp chí với tên gọi “Tư liệu của chủ
nghĩa vô thần”. Nhưng dự định đó không được thực hiện vì nhà nước phong kiến Phổ
thực hiện chính sách đàn áp những người dân chủ cách mạng. Ông và một số người
theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động chính trị đấu tranh chống lại chủ
nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân chủ; đánh dấu bước ngoặt quan trọng
trong tư tưởng của ông. Như vậy lúc này, trong tư tưởng của Các Mác có sự mâu
thuẫn giữa thế giới quan duy tâm với tinh thần dân chủ cách mạng và vô thần. Mâu
thuẫn bước đầu được giải quyết khi Các Mác làm việc ở báo Sông Ranh, ở đây lúc
đầu là cộng tác viên sau trở thành linh hồn của tờ báo và ông đã làm cho nó trở thành
cơ quan ngôn luận của phái dân chủ cách mạng.
Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở Các Mác có nội
dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng lao động. Lúc này tư
tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông đấu tranh bảo vệ “quần chúng
nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo. Với tinh thần nhân đạo, ông tập trung
phê phán các chính sách của nhà nước Phổ, nhà nước đó chỉ là “cơ quan đại diện đẳng
cấp của những lợi ích cá nhân”. Trong quá trình phê phán đó Các Mác đã nhận thấy
hoạt động của nhà nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen
đã chứng minh.
Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý tưởng tự
do trong thực tế đã giúp Các Mác hình thành khuynh hướng duy vật, nhận thấy mặt
hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc này tinh thần dân chủ cách mạng sâu sắc đã
không dung hợp với triết học duy tâm tư biện. Vì thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm
(1843), Các Mác đặt cho mình nhiệm vụ duyệt lại một cách có phê phán quan niệm
duy tâm của Hêghen trước hết về xã hội và nhà nước. Ông đã viết tác phẩm “góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen. Trong khi thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật
của triết học Phoi Ơ Bắc. Song với tinh thần phê phán ông đã thấy những mặt hạn
chế, nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của Phoi Ơ Bắc. Sự phê phán
sâu rộng triết học Hêghen, việc khái quát kinh nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng
quan điểm duy vật và nhân văn của triết học Phoi Ơ Bắc đã tăng cường mạnh mẽ xu
hướng duy vật trong quan điểm triết học của Các Mác.
Cuối tháng 10 - 1843, Các Mác sang Pari. ở đây, không khí chính trị sôi sục và tiếp xúc
với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển biến dứt khoát quan
điểm của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Trong bài báo “lời nói
đầu của cuốn sách góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, Các Mác đã
phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa và hạn chế của cuộc cách
mạng tư sản chỉ là “cuộc cách mạng bộ phận”; đồng thời ông khẳng định, chỉ có cuộc
cách mạng do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc cách mạng triệt để”. Các Mác
nêu rõ: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp
vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Với bài báo này và một số bài
báo khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức - Pháp năm 1844 đánh dấu bước hoàn thành
quá trình chuyển biến lập trường, quan điểm của Các Mác.
2.1.2. Sự chuyển biến tư tưởng của Ph.Ăngghen
Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở tỉnh Ranh. Khi
còn là học sinh trung học đã có thái độ căm ghét sự chuyên quyền và độc đoán của bọn
quan lại phong kiến. Việc nghiên cứu triết học trong thời gian ở Béc lin, khi làm nghĩa
vụ quân sự đã hướng ông đi vào con đường khoa học. Song, chỉ thời gian gần hai năm
sống ở Manchestơ (Anh) từ mùa thu 1842 khi nghiên cứu đời sống kinh tế và chính trị
nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến bước
chuyển căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng
sản.
Năm 1844 trên tạp chí Niên giám Đức - Pháp, Ph.Ăngghen đăng một số bài báo: "Bản
thảo góp phần phê phán kinh tế - chính trị học", "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh".
Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen, quá trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân
chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản đã hoàn
thành. Quá trình này diễn ra độc lập với Các Mác. Trong các bài báo này, ông đã đứng
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản để phê phán
kinh tế chính trị học của A.Xmit và Đ.Ricacdo.
2.2. Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử
Sự nhất trí về quan điểm và lập trường đã dễn đến tình bạn vĩ đại giữa Các Mác và
Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một thế giới
quan cách mạng của giai cấp vô sản.
Thời gian từ năm 1844 đến năm 1848 là quá trình hai ông từng bước xây dựng những
nguyên lý triết học của mình.
Năm 1844 qua tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" Các Mác tiếp tục phê phán triết
học duy tâm của Hêghen, đồng thời cũng vạch ra mặt tích cực của nó là phép biện
chứng. Các Mác thông qua phân tích sự tha hóa của lao động đã cắt nghĩa: Sở hữu tư
nhân trong xã hội tư bản trở thành nguyên nhân của sự tha hóa của lao động và của con
người, biến sức lao động trở thành hàng hóa. Các Mác chỉ rõ: Muốn khắc phục sự tha
hóa ấy phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân. Việc giải phóng người công nhân khỏi
sự tha hóa là sự giải phóng con người nói chung.
Trong tác phẩm này Các Mác đã luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản
trong sự phát triển của xã hội. Mặc dù luận chứng này chưa chín muồi về mặt lý luận,
song đã cho phép phân biệt quan niệm của Các Mác về chủ nghĩa cộng sản với những
quan niệm của chủ nghĩa bình quân vốn có của các môn phái chủ nghĩa cộng sản
không tưởng. Theo Các Mác, chủ nghĩa cộng sản dựa trên sự phát triển cao của nền
sản xuất xã hội là nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" do Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung năm
1845 đã nêu rõ sự phê phán của hai ông đối với "phái Hêghen trẻ" đứng đầu là anh em
nhà Bauơ về quan điểm lịch sử. Hai ông đã trình bày một số nguyên lý cơ bản của triết
học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như: Quan điểm về vai trò của sản xuất
vật chất đối với xã hội, v.v.
Năm 1845 - 1846, Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức".
Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở nước Đức hai ông đã trình
bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống. Nội dung của tác phẩm đã trình bày
rõ những quan điểm với tư cách là luận điểm xuất phát như: "Tiền đề đầu tiên của
toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống, đó
là những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ"
và quan điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử khi xem xét lịch sử xã hội phải xuất phát từ
con người". Trong tác phẩm này cũng đã trình bày rõ hệ thống quy luật vận động và
phát triển của xã hội loài người.
Trong thời gian này Các Mác viết tác phẩm: "Luận cương về Phoiơbắc" (8/1845) nêu
rõ quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã
hội. Đồng thời cũng đưa ra quan điểm về bản chất của con người: "Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội".
Với tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”
quan niệm duy vật lịch sử đã hình thành. Quan niệm đó tạo cơ sở lý luận khoa học
vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy trong hệ tư tưởng
Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được hai ông trình bày như là một hệ quả trực
tiếp của quan niệm duy vật lịch sử cho nên chủ nghĩa cộng sản chưa được diễn đạt
thành luận điểm cụ thể. Song, một điều quan trọng là Các Mác và Ăngghen đã xây
dựng phương pháp tiếp cận khoa học để nhận thức chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1847, Các Mác viết tác phẩm: "Sự khốn cùng của triết học". Ở đây ông trình bày
tiếp các nguyên lý của triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và trình bày các luận
điểm để viết tác phẩm tư bản.
Năm 1848, Các Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn cộng sản” là văn kiện
có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, của phong trào cộng sản thế giới.
Trong đó trình bày một cách triệt để thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Với tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung đã hình
thành và sẽ được Các Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung phát triển trong thời gian
sau.
2.3. Giai đoạn Các Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học
Từ sau “Tuyên ngôn cộng sản”, học thuyết triết học Mác tiếp tục được phát triển
trong sự gắn bó hơn nữa với thực tiễn cách mạng vô sản mà hai ông là lãnh tụ. Bằng
hoạt động của mình, hai ông đã đưa phong trào cách mạng của giai cấp vô sản từ tự
phát thành phong trào tự giác; chính qua đó, học thuyết triết học của hai ông không
ngừng được phát triển.
Các Mác đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào đấu tranh cách mạng để
khái quát tìm ra những kết luận, qua đó bổ sung và phát triển lý luận. Điều đó được
biểu hiện qua nội dung của một số tác phẩm như: "Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Nội
chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh Gôta". Đặc biệt qua bộ Tư bản, ông đã trình bày
những tất yếu phát triển của nền sản xuất xã hội, lịch sử thay thế các hình thái kinh tế
xã hội v.v.
Trong khi đó, Ăngghen đã khái quát các thành tựu khoa học để viết các tác phẩm như:
“Chống Đuyrinh”, “ Biện chứng của tự nhiên”, “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tư hữu và của nhà nước”v.v.. Trong các tác phẩm đó, ngoài việc phê phán các quan
điểm triết học duy tâm, siêu hình và duy vật tầm thường, ông đã trình bày học thuyết
triết học Mác dưới dạng hệ thống lý luận hoàn thiện hơn.
2.4. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác
Chủ nghĩa Mác và triết học Mác sau khi trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh nó đã
trực tiếp đi vào đời sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Vì thế,
nội dung của nó được lan truyền nhanh chóng ở các quốc gia thuộc châu Âu, trong đó
có nước Nga. Nhưng sau khi Các Mác và Ph.Ăngghen mất, phong trào cộng sản thế
giới có nguy cơ bị những người của phái chủ nghĩa xã hội dân chủ chi phối. Những
người này tuyên truyền những luận điểm để bác bỏ những giá trị của chủ nghĩa Mác
nói chung và triết học Mác nói riêng. Tình hình đó cũng diễn ra ở nước Nga trong thời
cuối của thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX.
Những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX trong khoa học tự nhiên có những
phát minh mới, nhất là việc tìm ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử làm đảo lộn căn
bản quan niệm vật lý học cổ điển, dẫn tới "cuộc khủng khoảng vật lý". Lợi dụng tình
hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa Makhơ (duy tâm chủ quan) công kích
chủ nghĩa duy vật của Mác. Nước Nga sau khi cuộc cách mạng 1905-1907 thất bại,
những người theo chủ nghĩa Makhơ tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ "bảo
vệ chủ nghĩa Mác" để xuyên tạc triết học Mác.
Do vậy, Lênin đã viết hàng loạt các tác phẩm như: "Những người bạn dân là thế nào"
và "Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy", "Sự phê phán trong cuốn sách của ông
Xtơruve", để vạch trần bản chất phản cách mạng của bọn dân tuý Nga và phê phán
những luận điểm duy tâm chủ quan về lịch sử của họ. Trong cuộc đấu tranh đó, Lênin
đã bảo vệ chủ nghĩa Mác và còn làm phong phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất
là lý luận về hình thái kinh tế xã hội.
Năm 1900 Lênin viết tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán” để vạch rõ quan điểm duy tâm, siêu hình của những người theo chủ nghĩa Ma
Khơ và chỉ rõ tác hại của nó đến phong trào cách mạng ở Nga. Trong tác phẩm, Lênin
đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
dựa trên sự phân tích, khái quát những thành tựu khoa học mới nhất. Lênin xây dựng
định nghĩa vật chất với tính cách là phạm trù triết học, đồng thời còn làm rõ thêm
nhiều vấn đề về lý luận nhận thức mác xít.
Năm 1914-1915, Lênin nghiên cứu nhiều tác phẩm triết học, đặc biệt quan tâm nghiên
cứu về phép biện chứng của Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật,
nhất là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Thông qua đó,
Lênin chuẩn bị lý luận cho cuộc cách mạng 1917. Tinh thần sáng tạo của tư duy biện
chứng đã giúp cho Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác về triết học như: vấn đề về nhà nước nước, bạo lực cách mạng, chuyên
chính vô sản, lý luận về đảng kiểu mới. Lênin đã là tấm gương mẫu mực trong việc
bảo vệ và phát triển triết học Mác. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là
cụ thể, có khi Lênin đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan điểm nào đó
của mình về chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo
điều. Chính vì vậy mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói
chung, triết học Mác nói riêng đã gắn liền với tên tuổi của Lênin và từ đó triết học
Mác mang tên triết học Mác - Lênin.
2.5. Vận dụng và phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện thế giới hiện
nay
Đặc điểm của thời đại hiện nay là sự tương tác giữa hai quá trình cách mạng - cách
mạng khoa học công nghệ và cách mạng xã hội, đã tạo nên sự biến đổi rất năng động
của đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, quá trình tạo ra những tiền đề của chủ nghĩa
xã hội diễn ra trong các nước tư bản phát triển được đẩy mạnh như một xu hướng
khách quan. Sự ra đời của công ty cổ phần từ cuối thế kỷ trước đã được Các Mác xem
là "hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" sang "phương thức
sản xuất tập thể". Song, hiện thực khách quan đó đã vượt khỏi giới hạn nhận thức
chật hẹp của chủ nghĩa giáo điều tồn tại trong một số người. Tính biện chứng của sự
tiến hóa xã hội diễn ra trong những mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản cũng là một trong những nguồn gốc nảy sinh những khuynh hướng sai
lầm khác nhau, thậm chí đi tới "xét lại" trong phong trào cộng sản và công nhân thế
giới. Điều này đã được Lênin phân tích, chỉ rõ: Do không nắm vững phép biện chứng
duy vật, có những cá nhân hay nhóm người luôn phóng đại khi thì đặc điểm này, khi
thì đặc điểm nọ của sự phát triển tư bản chủ nghĩa; khi thì "bài học" này, khi thì "bài
học" nọ của sự phát triển ấy, thành lý thuyết phiến diện, thành một hệ thống sách
lược phiến diện.
Sự khủng khoảng của chủ nghĩa xã hội làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác -
Lênin càng trở nên cấp bách. Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả mà chủ nghĩa
xã hội đã giành được, nhất là cuộc đấu tranh bảo vệ đưa sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội vượt qua thách thức to lớn hiện nay và tiếp tục tiến lên, đòi hỏi các Đảng
cộng sản phải nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học
Mác - Lênin nói riêng. Trước hết phải thấm nhuần thế giới quan duy vật và phép biện
chứng khoa học của nó.
Hiện nay ở các nước do Đảng cộng sản nắm quyền lãnh đạo đang thực hiện quá trình
đổi mới đã tạo ra một số thành công và gặp không ít thất bại. Cả sự thành công và
thất bại đó đều đòi hỏi phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, khắc phục
bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận. Phải biết tổng kết những thành tựu của
khoa học hiện đại, khái quát sự phát triển của lịch sử xã hội, tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn qua công cuộc đổi mới để bổ sung, hoàn thiện triết học Mác - Lênin. Chúng
ta không thể đổi mới thành công nếu xa rời lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, rơi
vào chủ nghĩa xét lại.
Như vậy, phát triển lý luận triết học Mác - Lênin và đổi mới chủ nghĩa xã hội trong
thực tiễn là một quá trình thống nhất, bởi vì "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin".
3. Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Các Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện
3.1. Thực chất
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử triết
học Mác.
Triết học Mác đã tạo ra hình thức phát triển cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và hình thức phát triển cao của phép biện chứng là phép biện
chứng duy vật. Triết học Mác thực sự khắc phục được sự tách rời thế giới quan duy
vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Cố nhiên, trong chủ
nghĩa duy vật trước Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện
tinh thần biện chứng; song, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và trình độ phát triển
của khoa học nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của nó. Do vậy, quan
điểm duy vật của những học thuyết đó thường thiếu triệt để. Đây là điểm yếu để chủ
nghĩa duy tâm lợi dụng tiến hành đấu tranh chống lại. Còn phép biện chứng lại được
phát triển trong cái vỏ bọc duy tâm thần bí tiêu biểu trong triết học của Hêghen.
Cho nên, nội dung của phép biện chứng chưa phản ánh đúng thế giới hiện thực. Các
Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục hạn chế siêu hình; cải
tạo phép biện chứng, giải thoát khỏi cái vỏ duy tâm. Từ đó khái quát xây dựng một
học thuyết triết học mới - chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước triết học Mác, có một số học thuyết triết học bàn đến vấn đề xã hội; song, do
hạn chế về thế giới quan hoặc phương pháp luận nên các học thuyết đó mới chỉ
nghiên cứu hoặc lĩnh vực này hoặc lĩnh vực kia mà chưa nghiên cứu toàn diện mọi
mặt của xã hội. Do vậy không thể nào tìm ra được quy luật phát triển chung của xã
hội loài người. Các Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng những lý luận của duy vật biện
chứng để nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tìm ra các quy luật phát triển chung của xã hội
loài người và tiến trình phát triển tất yếu tự nhiên của nó. Từ đó xây dựng, sáng lập ra
chủ nghĩa duy vật lịch sử với tính cách là bộ phận của triết học Mác. Chủ nghĩa duy
vật lịch sử là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Đó là một cuộc cách mạng
thực sự trong triết học. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã loại bỏ được cơ sở
tồn tại cuối cùng của chủ nghĩa duy tâm.
Những học thuyết triết học trước triết học Mác thường mới dừng lại ở việc giải thích
thế giới, cho nên họ chưa đề cập đến vai trò của hoạt động thực tiễn đối với lý luận,
lý luận thường tách rời với thực tiễn. Do vậy, không tránh khỏi tình trạng rơi vào quan
điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả ở trong triết học Phoiơbắc tuy coi vấn đề con người
là trung tâm thế nhưng đây chỉ mới là con người thuần túy về mặt sinh vật, chưa phải
con người với tính cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế giới. Còn triết học Mác đã
xác định rõ: Nhiệm vụ của mình không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà chủ yếu
là tìm ra các phương tiện, các biện pháp để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Triết
học Mác thường lấy hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội, cải tạo thế giới của con
người là điểm xuất phát và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn để hoàn thiện hệ
thống lý luận của mình. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã
tạo ra được sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực
tiễn, chịu sự quyết định của thực tiễn; khi ra đời, lý luận định hướng hoạt động thực
tiễn. Vì thế, so với các học thuyết triết học khác thì triết học Mác luôn luôn được bổ
sung và hoàn thiện.
3.2. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Các Mác và Ph.Ăngghen thực
hiện
Nhờ sự ra đời của triết học Mác mà vai trò xã hội cũng như vị trí của triết học trong
hệ thống tri thức khoa học và đối tượng triết học có thay đổi căn bản.
Khi ra đời triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản, giai
cấp vô sản có cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn xã hội; từ đó định ra
được đường lối chiến lược và đề ra những biện pháp đấu tranh cải biến xã hội có
hiệu quả. Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác với phong trào vô sản đã tạo nên
bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. Triết học
Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét
lại, cơ hội và chủ nghĩa giáo điều, góp phần quan trọng tạo ra sự thống nhất của
phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản.
Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều triết học coi triết học là "khoa
học của mọi khoa học" đứng trên mọi khoa học, Các Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng
lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội. Đến lượt mình, triết học Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa
học và phương pháp luận chung định hướng sự phát triển của các khoa học và phương
pháp luận chung định hướng sự phát triển của các khoa học. Sự phát triển của khoa
học ngày càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại,
phải phát triển lý luận triết học Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại.
Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các khoa học khác
và thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như xác định rõ đối tượng
nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động, phát triển chung nhát của tự
nhiên, xã hội và tư duy.