logo

Sinh thái công nghiệp

Cuốn sổ tay này xác định và giải quyết nội dung quản lý, một trong những chủ đề của chương trình phát triển bền vững với phương thức hàng đầu. Chương trình này có mục tiêu xác định những vấn đề cốt yếu tác động . Ngành khai thác mỏ của Úc đang hoạt động theo đúng định hướng toàn cầu theo đuổi phát triển bền vững. Cam kết đi theo hướng phát triển bền vững với phương thức hàng đầu là yếu tố tiên quyết trong một công ty khai thác mỏ để đạt được và duy trì “giấy phép...
CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ QUẢN LÝ CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ QUẢN LÝ QUẢN LÝ THÁNG 10 NĂM 2006 Minh thị khước từ trách nhiệm Chương trình Phát triển Bền vững với Phương thức Hàng đầu cho Ngành Mỏ Ấn phẩm này được phát triển bởi Nhóm Công tác của các chuyên gia, ngành và đại diện của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ. Nỗ lực của các thành viên trong Nhóm Công tác là được ghi nhận sâu sắc. Tầm nhìn và quan điểm diễn giải trong ấn phẩm này không nhất thiết phản ánh quan điểm và tầm nhìn của Chính phủ Khối thịnh vượng chung hay Bộ Công nghiệp, Du lịch và Tài nguyên. Trong khi các nỗ lực cần thiết đã được đưa ra để đảm bảo rằng những nội dung của ấn phẩm này là đúng với thực tế, Khối thịnh vượng Chung đã không chịu trách nhiệm về độ chính xác và hoàn thiện về nội dung và sẽ không chịu trách nhiệm về bất cứ mất mát hay tổn thất nào có thể xảy ra trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sử dụng, hay tin tưởng vào nội dung của ấn phẩm này. Người sử dụng sổ tay nên biết rằng tài liệu này dự định là tham khảo chung và không dự định thay thế cho những cố vấn chuyên môn liên quan tới các tình huống riêng biệt của mỗi người sử dụng. Những tham khảo về các công ty và sản phẩm trong sổ tay này không nên đưa ra làm xác nhận của Chính phủ Khối thịnh vượng Chung về những công ty đó hoặc sản phẩm của họ. Ảnh trang bìa: Công ty Rio Tinto Aluminium Limited - Khai mỏ và vận chuyển bauxit tại Weipa, Queensland © Commonwealth of Australia 2006 ISBN 0 642 72469 5 Đây là tài liệu có bản quyền. Ngoài những hình thức sử dụng được phép chiểu theo Đạo luật Bản quyền 1968 (Copyright Act 1968), không có bất cứ phần nội dung nào được phép tái bản theo bất cứ quá trình nào mà không được Khối Thịnh Vượng Chung (Commonwealth) cho phép trước bằng văn bản. Những yêu cầu và giải đáp thông tin về tái bản và quyền liên quan nên được chuyển tới Commonwealth Copyright Administration, Attorney General’s Department, Robert Garran Offices, National Circuit, Canberra ACT 2600 hoặc gửi tại http://www.ag.gov.au/cca ii CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN iv LỜI NÓI ĐẦU vii 1.0 GIỚI THIỆU 1 1.1 Phát triển bền vững 1 1.2 Quản lý là gì? 2 2.0 TẠI SAO PHẢI QUẢN LÝ? 5 2.1 Duy trì giấy phép hoạt động 5 2.2 Góc độ kinh doanh để quản lý 5 Nghiên cứu tình huống: Quản lý urani—đương đầu thách thức 6 2.3 Ai sẽ tham gia trong công tác quản lý? 8 2.4 Đồng điều tiết 8 2.5 Sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ 9 2.6 Động lực điều tiết quốc tế 10 3.0 ĐỊNH NGHĨA VỀ CHU TRÌNH SỐNG CỦA KHOÁNG SẢN 11 4.0 KHÁI NIỆM VÀ PHƯƠNG THỨC QUẢN LƯ 14 4.1 Quản lý vật liệu 14 Nghiên cứu tình huống: Cổng Quản lý Rủi ro Ngành Khoáng sản 15 Nghiên cứu tình huống: Green Lead™ 16 Nghiên cứu tình huống: Fuji Xerox Úc 18 Hiệu quả sinh thái 19 4.2 Quản lý tài nguyên 20 Kết hợp phụ phẩm 21 Nghiên cứu tình huống: Nhà máy luyện kim Xstrata copper, Mount Isa Mines 22 Nghiên cứu tình huống: Giữ lại và tận dụng Metan, Anglo Coal 24 Đổi mới quá trình 25 4.3 Quản lý quy trình 26 Kết hợp cơ sở tiện ích 26 Nghiên cứu tình huống: Yabulu 27 Tối ưu hóa nhà máy 28 Nghiên cứu tình huống: Nhà máy lọc alumin Pinjarra 28 Sản xuất sạch hơn 30 Nghiên cứu tình huống: Nhà máy giảm rò rỉ của máy đá túp Port Kembla 33 4.4 Quản lý sản phẩm 34 Nghiên cứu tình huống: Cung cấp thông tin – vai trò của GLASS 35 Sử dụng sản phẩm xanh 36 Nghiên cứu tình huống: RIGHTSHIP 37 Thiết kế cho môi trường 39 Nghiên cứu tình huống: vật liệu làm thép 40 Công bố về môi trường 42 Nghiên cứu tình huống: Các tuyên bố sản phẩm liên quan tới môi trường 42 5.0 KẾT LUẬN 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO 47 NHỮNG TRANG WEB LIÊN QUAN 49 DANH MỤC THUẬT NGỮ 50 PHỤ LỤC A: ĐÁNH GIÁ CHU TRÌNH SỐNG 52 PHỤ LỤC B: CÁC TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT 54 QUẢN LÝ LỜI CẢM ƠN Chương trình Phát triển Bền vững với Phương thức Hàng đầu được một Ban Chỉ đạo quản lý trực thuộc Bộ Công nghiệp, Du lịch và Tài nguyên Chính phủ Úc. 14 nội dung chính trong chương trình được xây dựng bởi các nhóm công tác với đại diện từ khu vực chính phủ, ngành, nghiên cứu, giáo dục đào tạo và cộng đồng. Sổ tay Phương thức Hàng đầu có thể đã không được hoàn thành nếu không có sự hợp tác và tham gia tích cực của mọi thành viên trong nhóm công tác. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn những người tham gia sau đây trong Nhóm Công tác về Quản lý cũng như các cơ quan đơn vị chủ quản đã cho phép họ dành thời gian và kiến thức chuyên môn đóng góp cho chương trình. Giáo sư Ian D Rae Chủ tịch – Nhóm Công tác về Quản lý ROYAL AUSTRALIAN Viện Hóa học Hoàng gia Úc. www.raci.org.au CHEMICAL INSTITUTE Cô Katie Lawrence Ban Thư ký – Nhóm Công tác Trợ lý Giám đốc, Ban Khai thác mỏ Bền vững Bộ Công nghiệp, Du lịch và Tài nguyên www.industry.gov.au Ông Cormac Farrell Cán bộ Chính sách Môi trường Hội đồng Khoáng sản Úc www.minerals.org.au Tiến sĩ Peter Glazebrook Cố vấn trưởng—Quản lý Sản phẩm Công ty Sức khỏe, An toàn và Môi trường Rio Tinto www.riotinto.com Tiến sĩ Joe Herbertson Giám đốc Công ty Crucible Group Pty Ltd www.thecrucible.com.au Tiến sĩ Margaret Matthews Trưởng nhóm tư vấn S3—Giải pháp Chiến lược Bền vững [email protected] Ông Tony McDonald Giám đốc Điều hành Hội đồng Đổi mới Sản phẩm Xây dựng www.bpic.asn.au iv CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ Ông Ron McLean Trưởng phòng Chuyển giao Công nghệ Trung tâm Nguyên cứu và Mở rộng Khoáng sản Úc www.acmer.com.au Cô Elizabeth O’Brien Cán bộ Quản lý Công ty Global Lead Advice and Support Service www.lead.org.au Ông Mick Roche Giám đốc Quản lý Sản phẩm BHP Billiton www.bhpbilliton,com Cô Melanie Stutsel Giám đốc – Chính sách Xã hội & Môi trường Hội đồng Khoáng sản Úc www.minerals.org.au Ông Phillip Toyne Giám đốc Công ty EcoFutures Pty Ltd www.ecofutures.com Ông Ed Turley Trưởng phòng Môi trường Bắch Queensland Công ty Xstrata Copper www.xstratacopper.com.au Giáo sư Rene van Berkel Trưởng Chương trình Nghiên cứu Điều phối Dây chuyền Cung cấp và Khu vực CRC cho Xử lý Nguồn lực Bền vững www.csrp.com.au QUẢN LÝ v vi CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ LỜI NÓI ĐẦU Ngành khai thác mỏ của Úc đang hoạt động theo đúng định hướng toàn cầu theo đuổi phát triển bền vững. Cam kết đi theo hướng phát triển bền vững với phương thức hàng đầu là yếu tố tiên quyết trong một công ty khai thác mỏ để đạt được và duy trì “giấy phép xã hội để hoạt động” trong cộng đồng. Những sổ tay trong loạt ấn phẩm Phát triển Bền vững với Phương thức Hàng đầu trong Khai thác mỏ đề cập tới các lĩnh vực môi trường, kinh tế và xã hội trong mọi giai đoạn của cả quá trình khai thác khoáng sản từ thăm dò tới xây dựng, vận hành và đóng cửa khu khai thác mỏ. Khái niệm phương thức hàng đầu được hiểu đơn giản là cách thức thực hiện tốt nhất ở một khu mỏ nhất định. Khi xuất hiện thêm những thách thức mới và những giải pháp mới được xây dựng hoặc có những giải pháp hiệu quả hơn cho những vấn đề hiện tại, điều quan trọng là phương thức hàng đầu nên mang tính linh hoạt và sáng tạo trong việc xây dựng những giải pháp phù hợp với yêu cầu của từng khu khai thác. Cho dù có những nguyên tắc nền tảng nhưng phương thức hàng đầu chú trọng tới phương pháp tiếp cận và quan điểm ở mức độ tương đương với một hệ thống phương thức cố định hoặc một công nghệ cụ thể. Phương thức hàng đầu cũng bao gồm khái niệm “quản lý thích nghi”, một quá trình đánh giá liên tục và “học từ thực tế” thông qua áp dụng những nguyên tắc khoa học hiệu quả nhất. Theo định nghĩa của Hội đồng Khai thác mỏ và Kim loại Quốc tế (ICMM), phát triển bền vững trong lĩnh vực khai thác mỏ và kim loại là sự đầu tư hợp lý về mặt kỹ thuật, bảo vệ môi trường, đem lại lợi nhuận kinh tế và có trách nhiệm với xã hội. Duy trì Giá trị – Khung Cơ cấu Phát triển Bền vững của Ngành Khoáng sản Úc hướng dẫn quá trình thực hiện vận hành các nguyên tắc ICMM và những thành tố của ngành khai thác mỏ Úc. Một loạt các tổ chức đã có đại diện trong ban chỉ đạo và các nhóm công tác là dấu hiệu thể hiện tính đa dạng về quyền lợi trong phương thức hàng đầu của ngành khai thác mỏ. Các tổ chức này gồm có Bộ Công nghiệp, Du lịch và Tài nguyên, Bộ Môi trường và Di sản, Bộ Công nghiệp và Tài nguyên (tiểu bang Western Australia), Bộ Tài nguyên Môi trường và Khoáng sản (tiểu bang Queensland), Bộ Công nghiệp Trọng điểm (tiểu bang Victoria), Hội đồng Khoáng sản Úc, Trung tâm Công nghệ và Nghiên cứu Khoáng sản Úc, các trường đại học và đại diện từ các công ty khai thác mỏ, khu vực nghiên cứu kỹ thuật, các chuyên gia tư vấn khai thác mỏ, môi trường và xã hội cũng như các tổ chức phi chính phủ. Các nhóm công tác này hoạt động cùng nhau để thu thập và trình bày thông tin về nhiều đề tài đa dạng mang tính minh họa và giải thích cho khái niệm phát triển bền vững với phương thức hàng đầu trong ngành khai thác mỏ của Úc. Những ấn phẩm tổng kết được thiết kế để hỗ trợ tất cả các khu vực trong ngành khai thác mỏ nhằm giảm bớt các tác động tiêu cực của sản xuất khoáng sản tới cộng đồng và môi trường nhờ tuân theo những nguyên tắc về phát triển bền vững với phương thức hàng đầu. Đây chính là một sự đầu tư cho tính bền vững của một ngành kinh tế đặc biệt quan trọng cũng như cho công tác bảo vệ di sản thiên nhiên của chúng ta. Nghị sĩ Danh dự Ian Macfarlane Bộ Công nghiệp, Du lịch và Tài nguyên QUẢN LÝ vii viii CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ 1.0 GIỚI THIỆU Cuốn sổ tay này xác định và giải quyết nội dung quản lý, một trong những chủ đề của Chương trình Phát triển Bền vững với Phương thức Hàng đầu. Chương trình này có mục tiêu xác định những vấn đề cốt yếu tác động tới phát triển bền vững trong ngành khai thác mỏ và cung cấp thông tin cùng những nghiên cứu tình huống minh họa một cơ sở bền vững hơn cho ngành. Cuốn sổ tay này được biên soạn để khuyến khích đội ngũ giám đốc marketing và quản lý khu mỏ cũng như đối tượng khách hàng áp dụng các nguyên tắc quản lý và đóng vai trò quan trọng trong quá trình không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển bền vững của ngành khai thác mỏ. Tại khu mỏ, những khía cạnh quản lý về thăm dò, đánh giá khả thi, thiết kế, xây dựng, hoạt động và đóng cửa đều rất quan trọng. Bên ngoài cánh cửa khu mỏ, việc quản lý các sản phẩm khoáng sản trên thị trường cũng là một vấn đề then chốt. Cho dù những nguyên tắc định hướng cho phương thức hàng đầu chỉ mang tính khái quát chung nhưng có thể ứng dụng để hỗ trợ quá trình lập kế hoạch bền vững cho từng khu mỏ cụ thể. Ngoài ra, những người quan tâm với phương thức hàng đầu trong ngành khai thác mỏ, đặc biệt là cán bộ môi trường, chuyên gia tư vấn khai thác mỏ, chính phủ và các cơ quan chức năng, các tổ chức phi chính phủ, các cộng đồng tại khu mỏ cũng như giới sinh viên sẽ nhận thấy đây là tài liệu thích hợp cho họ. Cuốn sổ tay này được viết ra để khuyến khích những đối tượng đó tham gia và đảm nhiệm vai trò quan trọng trong quá trình không ngừng nâng cao hiệu quả phát triển bền vững của ngành khai thác mỏ. 1.1 Phát triển bền vững Định nghĩa về phát triển bền vững được công nhận rộng rãi nhất có trong bản báo cáo Tương lai Chung của Chúng ta (Báo cáo Brundtland) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới – “phát triển nghĩa là đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không gây phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ tương lai”. Đã có nhiều nỗ lực trình bày lại và mở rộng định nghĩa này, thông thường liên quan tới vùng dân số hoặc khu vực cụ thể, và một số trong đó sẽ được tìm hiểu thêm ở phần sau cuốn sổ tay này. Trong ngành khoáng sản, phát triển bền vững có nghĩa là đầu tư vào các dự án khoáng sản phải có lợi nhuận về mặt kinh tế, phù hợp về mặt kỹ thuật, đúng đắn về mặt môi trường và có trách nhiệm về mặt xã hội. Những công ty tổ chức tham gia khai thác các nguồn tài nguyên không thể khôi phục đã và đang chịu sức ép phải lồng ghép khái niệm bền vững vào trong các hoạt động và quá trình ra quyết định chiến lược của họ. Ngoài những điểm cần lưu ý này, các tập đoàn có trách nhiệm đã có thể hướng tới tính bền vững qua việc xây dựng một loạt các phát kiến quản lý phù hợp. Phát triển kinh tế, tác động môi trường và trách nhiệm xã hội phải được quản lý tốt và các mối quan hệ hiệu quả gắn kết phải được thiết lập giữa chính phủ, ngành và các bên liên quan. Đạt được điều kiện này thực sự là một “phương cách tốt để tiến hành kinh doanh”. QUẢN LÝ 1 Một nhận định quan trọng về những nguyên tắc phát triển bền vững được nêu trong Duy trì Giá trị – Khung Cơ cấu Phát triển Bền vững của Ngành Khoáng sản Úc. Khung cơ cấu này giúp tăng cường quá trình thực hiện những nguyên tắc phát triển bền vững trong ngành mỏ của Úc. Duy trì Giá trị tập trung nhấn mạnh yếu tố quản lý và tuân theo quá trình quản lý nguyên vật liệu trong suốt quá trình thực hiện. Khung cơ cấu này hướng tới: • tăng cường tối đa kết quả đạt được và hiệu suất hoạt động • quản lý tốt hơn các tác động về môi trường và xã hội • quản lý tốt hơn các lợi ích tiềm tàng trong quá trình sản xuất và sử dụng. Quản lý vật liệu là một khái niệm mới xuất hiện trong ngành giúp củng cố hoạt động sản xuất – cũng như sử dụng - bền vững và công bằng đối với khoáng sản và kim loại trong sản phẩm. Duy trì Giá trị, thay thế cho Quy tắc Quản lý Môi trường của Ngành khoáng sản, hiện nay là khung cơ cấu chính để hỗ trợ việc thực hiện những chính sách để đảm bảo các hoạt động hiện tại trong ngành khoáng sản không gây phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ tương lai. Khung cơ cấu Duy trì Giá trị có nội dung bám sát các phát kiến toàn cầu của ngành, đặc biệt là hướng dẫn cơ sở về Những Nguyên tắc Phát trển Bền vững của Hội đồng Khai thác mỏ và Kim loại Quốc tế (ICMM) và việc áp dụng những nguyên tắc này ở cấp độ hoạt động. Nội dung này bao gồm các nguyên tắc về quản lý sản phẩm, quản lý môi trường và trách nhiệm của công ty với xã hội. Khung cơ cấu này tạo ra một phương tiện để phân loại và lãnh đạo ngành và như mô tả ở phần sau, đem lại những lợi ích lâu dài cho ngành và cộng đồng thông qua quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên của Úc. 1.2 Quản lý là gì? Ngành khai thác mỏ cung cấp những nguyên liệu khoáng sản và kim loại, thành tố không thể thiếu trong một loạt các sản phẩm và dịch vụ tạo nên giá trị phục vụ nhu cầu của con người. Các hoạt động khai thác và chế biến là một phần không thể tách rời trong những chu trình vật liệu phức tạo của xã hội, theo đó tương tác qua lại với các quá trình vật liệu tự nhiên và hệ sinh thái. Các công ty là một phần quan trọng trong những dây truyền sinh giá trị và vòng đời và chúng ta không kiểm soát được. Tính bền vững của ngành là hỗ trợ quản lý các chu trình này theo những phương thức đem lại giá trị tối đa cho xã hội đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực, cho dù về phương diện kinh tế, xã hội hay sinh thái. Đảm nhận một số trách nhiệm chung để tăng cường hiệu quả hoạt động bên ngoài nhiệm vụ quản lý trực tiếp của một cá thể là nội dung trọng tâm của quản lý, trong đó điểm cốt lõi chính là tạo ra giá trị tốt hơn ở cấp độ toàn hệ thống. Quản lý hiệu quả đã trở thành động lực dẫn hướng cho đổi mới trong nhiều phương thức hoạt động và tư duy về các công ty của chúng ta. Quản lý bao gồm chăm sóc và quản lý một hàng hóa trong suốt cả chu trình tồn tại của hàng hóa. Ý tưởng về một chu trình tồn tại sẽ được tìm hiểu sâu hơn ở phần sau, nhưng có thể thấy ngay rằng nội dung này bao hàm cả thăm dò, khai thác, chế biến, tinh chế, sản xuất, sử dụng, tái tạo, tái chế và thải loại của một sản phẩm khoáng sản. Quản lý cần trở thành một chương trình tổng hợp các hành động với mục tiêu đảm bảo mọi vật liệu, quá trình, hàng hóa và dịch vụ được quản lý trong suốt chu trình tồn tại theo một phương thức có trách nhiệm với môi trường và xã hội. 2 CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ Quản lý là một khái niệm nằm trong ngành khai thác mỏ hướng tới hợp tác mang tính xây dựng trong chu trình tồn tại của vật liệu để đảm bảo tính bền vững cho quá trình sản xuất, sử dụng và thải loại vật liệu. Cho dù các bên tham gia của mỗi ngành đều có trách nhiệm quản lý trong khuôn khổ lĩnh vực hẹp của họ thì nguyên tắc cơ bản của quản lý vẫn là các bên tham gia đó cũng phải quan tâm tới những ngành khác trong chu trình tồn tại của vật liệu. Mô hình đề xuất của chúng tôi được minh họa trong Hình 1. Mô hình này chỉ ra ba kiểu quản lý khác nhau (tài nguyên, quá trình và sản phẩm) nằm trong khuôn khổ của toàn bộ công tác quản lý vật liệu. Những liên kết tới các phát kiến toàn cầu về phát triển bền vững khác được thể hiện ở những phần sau trong cuốn sổ tay này. quản lý vật liệu Hình 1: Mô hình quản lý vật liệu Quản lý Quản lý quy trình tài nguyên Quản lý sản phẩm Quản lý tài nguyên bao gồm một chương trình hành động để đảm bảo các tài nguyên đầu vào cho một quá trình – bao gồm khoáng sản, nước, hóa chất và năng lượng – được sử dụng một cách hiệu quả và hợp lý nhất. Quản lý quá trình bao gồm một chương trình hành động tập trung đảm bảo các quá trình – như tuyển quặng, kết bông, nghiền ép, tách trọng lượng và những quá trình khác sử dụng trong sản xuất quặng, chất cô đặc và các sản phẩm khoáng sản khác – được tiến hành theo một phương thức có trách nhiệm với môi trường và xã hội. Quản lý sản phẩm, có lẽ là hình thức quản lý được mọi người hiểu rõ nhất, là một phương pháp tiếp cận lấy sản phẩm làm trung tâm hướng tới môi trường và sức khỏe con người. Công tác này hướng tới giảm thiểu tác động môi trường do việc sử dụng sản phẩm, trong đó có quản lý sản xuất, phân phối, dịch vụ cung ứng và kết thúc chu trình sống – thông qua thiết kế sản phẩm và hệ thống sản phẩm cũng như kiểm soát điều tiết phù hợp cho từng phân đoạn của chu trình sống. Đây là một phương pháp tiếp cận tập trung vào sản phẩm nhằm liên kết mọi người trong từng giai đoạn của chu trình sống với nhau. Trong khuôn khổ chương trình trách nhiệm sản phẩm, hay còn gọi là quản lý rộng hơn, các bên liên quan khác (đối tác) cùng chia sẻ trách nhiệm bao gồm người tiêu dùng (sử dụng và thải loại vật liệu một cách có trách nhiệm) và các công ty tái chế hoặc quản lý chất thải làm việc với vật liệu ở giai đoạn cuối của chu trình sống. Quản lý vật liệu là nội dung trọng tâm của phương pháp tiếp cận cho quản lý do công tác này áp dụng cho các nguồn tài nguyên, quá trình và sản phẩm, do đó bao hàm toàn bộ chu trình sống. Mục tiêu cuối cùng của quản lý vật liệu đạt được ở mức độ cao nhất bằng cách làm tạo ra nhiều hơn từ ít nguồn lực hơn, hay còn gọi là hiệu quả sinh thái, theo như định nghĩa của Hội đồng Thương mại Thế giới về Phát triển Bền vững (WBCSD). QUẢN LÝ 3 WBCSD tạo ra thuật ngữ hiệu quả sinh thái cho công ty để tham gia vào quá trình phát triển bền vững. Hiệu quả sinh thái “được tạo ra nhờ cung cấp sản phẩm và dịch vụ với giá cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của con người và đem lại chất lượng cuộc sống, đồng thời dần giảm nhẹ tác động sinh thái và mức độ sử dụng tài nguyên trong cả chu trình sống, tới mức độ thấp nhất theo khả năng đáp ứng của trái đất” (WBCSD, 2000). Bổ sung vào hiệu quả sinh thái là quá trình sản xuất sạch hơn, nghĩa là liên tục áp dụng một chiến lượng môi trường tổng hợp mang tính bảo vệ cho các quá trình, sản phẩm và dịch vụ theo phương thức giúp tăng hiệu quả và giảm nguy cơ đe dọa con người và môi trường (van Berkel, 2002). Nhờ giảm ô nhiễm và chất thải tại nguồn, cũng như nỗ lực không ngừng cải tiến, sản xuất sạch hơn có thể đem lại cả lợi ích kinh tế và môi trường. Sinh thái công nghiệp là bộ môn nghiên cứu dòng chu chuyển của vật liệu và năng lượng trong các hoạt động công nghiệp và tiêu dùng, ảnh hưởng của những dòng chu chuyển đó đối với môi trường cũng như tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và quản lý điều tiết tới hoạt động chu chuyển, sử dụng và chuyển hóa tài nguyên. Đặc biệt, sinh thái công nghiệp tập trung làm theo, bắt chước những quá trình toàn diện trong hệ thống tự nhiên, trong đó sản phẩm phế thải của một quá trình này sẽ là vật liệu đầu vào cho các quá trình khác. Những phương pháp tiếp cận gần đây cho thiết kế sản phẩm đã cho thấy người ta đã tiết kiệm được đáng kể về mặt tài chính và môi trường nhờ thiết kế lại các sản phẩm để giảm thiểu tác động môi trường của chúng. Được quốc tế biết đến như mô hình thiết kế cho môi trường hay còn gọi là thiết kế sinh thái, phương pháp tiếp cận này kiểm nghiệm toàn bộ chu trình sống của sản phẩm và những thay đổi đề xuất cho thiết kế sản phẩm để giảm thiểu tác động môi trường từ quá trình sản xuất và phân phối cũng như trong và sau quá trình sử dụng. Các nhận định khác về quản lý Người ta cũng thường sử dụng những nhận định khác nhau mang tính triết học hơn về quản lý và có thể gặp trong nhiều nguồn tư liệu đa dạng. Một nhận định khác được đưa ra trong những ấn phẩm gần đây của Úc (Khung cơ cấu Chiến lược để Quản lý Chất thải và Khung cơ cấu Nước Chiến lược để Quản lý Nước trong Ngành khoáng sản) là “quản lý là một phương pháp tiếp cận đối với quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa trên ý tưởng của nhà phát triển là một người chăm sóc tạm thời cho các tài sản cộng đồng”. 4 CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ 2.0 TẠI SAO PHẢI QUẢN LÝ? 2.1 Duy trì giấy phép hoạt động Trong những năm gần đây, các công ty ngày càng chịu nhiều sức ép từ chính phủ, người tiêu dùng, cổ đông, đối thủ cạnh tranh, nhà đầu tư và cộng đồng yêu cầu họ phải cân đối nỗ lực về lợi nhuận kinh tế với những mối quan ngại về môi trường và xã hội, và bằng cách đó thể hiện sự đóng góp của họ vào phát triển bền vững. Ngành khai thác mỏ đang có nhu cầu đạt được và duy trì tính hợp pháp và sự chấp nhận của xã hội, và không thể chỉ dựa vào những gì họ tuyên bố sẽ tuân thủ luật môi trường của quốc gia và địa phương để đạt được yêu cầu đó. Điều này đặc biệt dễ gặp phải dư luận chỉ trích từ sự kết hợp giữa các tổ chức phi chính phủ của địa phương và quốc tế (NGO) và sẽ không thể tiếp tục chỉ dựa vào những tuyên bố tuân thủ luật môi trường của địa phương (van Berkel, 2006; Bossilkov, 2005). Giành được sự chấp nhận rộng khắp của cộng đồng cũng như của cơ quan điều tiết thường được gọi dưới cái tên phổ biến là “có giấy phép hoạt động”. Ngày nay, giấy phép hoạt động không chỉ gồm giấy phép tiến hành kinh doanh tại địa bàn mà còn là giấy phép để bán sản phẩm trên thị trường. Điều này thực sự là một điểm quan trọng do ngành khai thác mỏ là điểm khởi đầu trong chu trình sống của nhiều sản phẩm không thể thiếu được trong xã hội hiện đại. Khung cơ cấu Duy trì Giá trị cung cấp chỉ dẫn để xây dựng nguồn lực xã hội với cộng đồng, chính phủ và các ngành tài chính, bảo hiểm. Khung cơ cấu này định hướng cho hoạt động của ngành theo một phương thức hài hòa với kỳ vọng của cộng đồng. Giấy phép hoạt động xã hội mở rộng tới khái niệm “giấy phép vào thị trường” và “giấy phép phát triển”, những động lực mạnh mẽ của kinh doanh. Sự phát triển làm tăng trưởng khả năng cung cấp giá trị, nhưng nếu không có đổi mới để giải quyết các mối quan ngại về môi trường và xã hội, sự phát triển đó sẽ gia tăng cả tác động của hoạt động kinh doanh. Phát triển đem lại cả cơ hội và thách thức. Quản lý hiệu quả hoạt động về mặt xã hội và môi trường trở thành vấn đề trọng tâm để các công ty mong muốn tăng trưởng bền vững. 2.2 Góc độ kinh doanh để quản lý Những lợi ích cơ bản của một kế hoạch quản lý được triển khai hiệu quả là: • giảm sử dụng năng lượng, nước và các nguồn phụ trợ trong quá trình cung cấp và sử dụng sản phẩm • giảm mức độ chất phát tán gây nguy cơ đe dọa con người và môi trường • giảm chất thải sản phẩm, trong đó tăng tối đa các cơ hội tái sử dụng và tái chế. Một thành tố chủ chốt trong quản lý là việc cung cấp thông tin quản lý phù hợp cho những người có thể tham gia vào một công đoạn nào đó của chu trình sống. Những ví dụ về quản lý sản phẩm thường được tìm thấy trong ngành sản xuất và trên thị trường với thương hiệu và phân cấp sản phẩm cao, như trang sức và công nghệ cao. Một ví dụ về nguyên tắc này trong thực tế là quy trình cho thuê và thu hồi thiết bị văn phòng, như QUẢN LÝ 5 thu hồi và tái sản xuất ống mực in hoặc thậm chí là toàn bộ máy photocopy (xem nghiên cứu tình huống Xerox ở Phần 4.1). Khi cân nhắc hiệu quả sinh thái, Hội đồng Thương mại Thế giới về Phát triển Bền vững đã xác định bảy thành phần để có thể tạo ra giá trị kinh doanh: giảm mức độ sử dụng vật liệu cho sản phẩm và dịch vụ; giảm mức độ sử dụng năng lượng cho sản phẩm và dịch vụ; giảm mức độ phát tán chất độc hại; tăng cường khả năng tái chế của vật liệu; tăng cường tối đa việc sử dụng các nguồn tài nguyên có thể phục hôi; kéo dài thời gian sử dụng của sản phẩm và tăng cường mức độ khai thác dịch vụ cho hàng hóa và dịch vụ (WBCSD, 2000). Các công ty hàng đầu sẽ không coi bền vững là một vấn đề về tuân thủ quy định mà là một yếu tố hình thành các quá trình, sản phẩm, dịch vụ và mối quan hệ trong tương lai của họ. Áp dụng tính bền vững như một chiến lược kinh doanh sẽ dẫn tới tập trung vào đổi mới và tạo nên giá trị. Do đó, đây chính là công cụ đầy quyền năng để thôi thúc giới quản lý và nhân viên hướng tới phương thức quản lý đúng đắn cho các chu trình vật liệu phức tạp và củng cố hoạt động kinh doanh của họ, theo phạm vi rộng hơn là củng cố cả xã hội. Hoạt động một cách bền vững nghĩa là có tầm nhìn lâu dài và tổng thể cho hoạt động kinh doanh. Điều này có thể giúp các công ty tái thiết mô hình cho chu trình sống của các hoạt động. Tạo ra sự cân bằng giữa phát triển kinh doanh và những tác động thực sự và được ghi nhận bao gồm hiểu biết thời điểm có thể có cản trở và thời điểm có lợi ích. Nghiên cứu tình huống: Quản lý urani—đương đầu thách thức Giấy phép xã hội của ngành mỏ để hoạt động, tiếp cận thị trường và phát triển đang ngày càng chịu nhiều áp lực, khi nhận thức và trình độ văn hóa của cộng đồng tăng lên. Một áp lực khác đang dần hình thành từ đối tượng người dùng hạ nguồn của sản phẩm ngành khai thác mỏ. Những công ty nhà máy chế biến, sản xuất, người dùng và tái chế đang chịu áp lực từ các bên liên quan để xác định nguồn tài nguyên chính cho hàng hóa. Người ta dự báo thị trường urani toàn cầu sẽ trải qua một thời kỳ mở rộng to lớn do nhu cầu toàn cầu về urani đã được nhận định sẽ tăng cao, khiến tăng giá urani và nâng cao nhận thức về lợi ích nhà kính tiềm ẩn của năng lượng hạt nhân. Úc đang nắm giữa khoảng 36% nguồn urani chi phí thấp của thế giới (dưới 40USD một kilogam) và nằm ở vị trí thuận lợi để tận dụng lợi thế khi thị trường toàn cầu của urani mở rộng. Tháng 8 năm 2005, Nghị sĩ Danh dự Hon Ian Macfarlane, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp, Du lịch và Tài nguyên đã khởi xướng việc xây dựng một Khung cơ cấu cho Ngành Urani (UIF). Mục tiêu của UIF là xác định những cơ hội và cản trở đối với quá trình phát triển bền vững của ngành khai thác urani Úc trong giai đoạn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. UIF đang được phát triển với sự hợp tác của nhiều chính quyền tiểu bang và vùng lãnh thổ cũng như các ngành và những bên liên quan khác. Nhận thức được vai trò của quản lý trong động lực hướng tới tính bền vững, UIF đã thành lập ra Nhóm Công tác về Quản lý Urani. Một trong những khuyến nghị của Nhóm Công tác là: 6 CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ “Ngành urani của Úc hình thành một môi trường quản lý urani làm nền tảng để phối kết hợp với các chương trình quản lý urani toàn cầu hiện đang được Hiệp hội Hạt nhân Thế giới xây dựng”. Hiệp hội Hạt nhân Thế giới (WNA) là tổ chức toàn cầu hướng tới tăng cường sử dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hòa bình trên toàn thế giới như một nguồn năng lượng bền vững cho những thế kỷ tới. Đặc biệt, WNA quan tâm tới việc tạo ra năng lượng hạt nhân và mọi khía cạnh trong chu trình nhiên liệu hạt nhân bao gồm khai thác, chuyển hóa, làm giàu, sản xuất nhiên liệu, xây dựng nhà máy, vận chuyển và thải loại an toàn nhiên liệu đã sử dụng. Hiện nay, các thành viên WNA có trách nhiệm đối với khoảng 90% lượng điện tạo ra từ năng lượng hạt nhân của thế giới bên ngoài nước Mỹ và 90% sản lượng làm giàu và chuyển hóa urani thế giới. Phiên họp khai mạc của Nhóm Công tác về Quản lý Urani WNA được tổ chức tại London vào tháng 6 năm 2006 và mọi khu vực trong chu trình sống của hạt nhân đều có đại diện là thành viên sáng lập của nhóm công tác. Định nghĩa về quản lý urani của Nhóm Công tác về Quản lý Urani WNA là: “một chương trình hành động để thể hiện urani được sản xuất, sử dụng và thải loại theo cách thức an toàn và chấp nhận được. Chương trình áp dụng một phương pháp tiếp cận cho cả chu trình sống và khuyến khích áp dụng những phương thức hàng đầu trong lĩnh vực y tế sức khỏe, an toàn, môi trường và xã hội cùng với dây chuyền giá trị và tập trung giảm thiểu chất phế thải và khuyến khích tái chế”. Việc hình thành phương thức hàng đầu, hiệu quả nhất cùng với phương pháp tiếp cận chia sẻ trách nhiệm hướng tới hai kết quả quan trọng căn bản sau: • tăng cường tính cạnh tranh của ngành qua việc xây dựng một phương pháp tiếp cận tổng hợp và quá trình “học tập qua chia sẻ” • đảm bảo phương thức “hàng đầu” trở thành phương thức “tiêu chuẩn” trong cả chu trình sống. Quản lý dài hạn đối với chất thải hạt nhân là một vấn đề quản lý yêu cầu ngành, chính phủ và cộng đồng phải đạt được thỏa thuận về những kỹ thuật xử lý thích hợp và khu kho chứa. Những thỏa thuận này cho tới này đã đạt được ở một số, nhưng chưa phải tất cả các quốc gia liên quan. Chu trình nhiên liệu hạt nhân Chuy n hóa Khai m Làm giàu Ch t th i Tái x lý Nhà máy đi n nguyên t Nguồn: Hiệp hội Hạt nhân Thế giới QUẢN LÝ 7 2.3 Ai sẽ tham gia trong công tác quản lý? Những người sẽ tham gia vào công tác quản lý bao gồm bất cứ đối tượng nào có công việc cần làm với vật liệu từ thời điểm tìm kiếm tới khai thác, chế biến, sản xuất, sử dụng và khôi phục hoặc tái chế. Tuy nhiên, xét ở góc độ rộng hơn, chúng ta cần định nghĩa những người tham gia vào công tác quản lý bao gồm cả những người quản lý và những người có đại diện quản lý. Cả nhà sản xuất, đối tượng sử dụng tài nguyên ở mức độ tập trung và người tiêu dùng năng lượng thường tham gia vào giai đoạn trước khi sử dụng trong chu trình sống của sản phầm và họ thường đóng vai trò quản lý. Một tình huống khác cũng nảy sinh với các hệ thống trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đã được áp dụng trong một số thể chế pháp luật như Châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc. Theo cơ chế EPR, trách nhiệm quản lý các tác động môi trường hoặc xã hội của một sản phẩm hay dịch vụ được giao cho riêng một người tham gia trong chu trình sống, thông thường đó là người đưa sản phẩm vào thị trường. Đặc điểm xác định chương trình EPR là bản chất bắt buộc khi so sánh với chương trình quản lý sản phẩm tự nguyện. Phần lớn đều có một yêu cầu pháp lý cho các nhà sản xuất phải thu hồi sản phẩm ở cuối chu trình sống hoặc chịu trách nhiệm về sản phẩm theo một hình thức nào khác vào cuối chu trình sống, ví dụ như trả tiền cho các chương trình tái chế. Ưu thế được tuyên bố khi chỉ định một cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm là khi mọi người chơi tham gia, sẽ xuất hiện khả năng không có ai thực sự tham gia vì các bên đều trông chờ người khác sẽ hành động. Nói chung, hiện tượng này được hiểu là “cha chung không ai khóc”. Một phương pháp tiếp cận được ưu chuông hơn đối với công tác quản lý là phương pháp chia sẻ với nỗ lực xây dựng sự hợp tác trong suốt chu trình sống, bao gồm các nhà cung cấp và khách hàng. Trong khuôn khổ chương trình trách nhiệm sản phẩm hay còn gọi là quản lý rộng hơn, người ta nhấn mạnh đặc biệt tới việc hợp tác và cộng tác giữa các bên tham gia (đối tác) khác nhau cùng chia sẻ trách nhiệm. Điều này có nghĩa là không chỉ người tiêu dùng (đối tượng được kỳ vọng sẽ có trách nhiệm trong việc sử dụng và thải loại vật liêu) mà các công ty tái chế hoặc quản lý chất thải cũng phải có trách nhiệm trong giai đoạn cuối của chu trình sống. 2.4 Đồng điều tiết Những hành động của ngành để quản lý chất thải và các tác động môi trường khác do sản phẩm của ngành tạo ra có thể rất khác nhau liên tục từ những phương thức tự nguyện tới hoàn toàn được điều tiết. Trong khi các chương trình quản lý sản phẩm tự nguyện có thể nhận được phần lớn sự tham gia của ngành cho các phát kiến của họ thì luôn có một số công ty không tự nguyện tham gia, vì phải trả chi phí để tham gia chương trình, do đó những công ty này có thể đạt được ưu thế không công bằng trên thị trường. Những yếu tố này đã thúc đẩy sự ra đời một phương pháp tiếp cận được ngành hỗ trợ tích cực tại Úc, có tên là những phát kiến tự nguyện của ngành được một mạng lưới điều tiết an toàn củng cố để xác định những đối tượng hưởng lợi mà không đóng góp. Phương thức này được biết đến với tên gọi đồng điều tiết. Một ví dụ về chương trình đồng điều tiết là chương trình Quản lý Sản phẩm Dầu để thu hồi dầu và dầu nhờn, được tiến hành theo Đạo luật Quản lý Sản phẩm (Dầu) 2000 với mục đích thu hồi và tái chế dầu và dầu nhờn đã qua sử dụng. 8 CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ Những khu vực truyền hình và săm lốp đã tìm tới chính quyền Úc để xây dựng một “mạng lưới điều tiết an toàn” để đảm bảo một sân chơi công bằng khi yêu cầu kết quả tương tự từ những đối tượng không tham gia vào các chương trình tự nguyện. Động cơ tương tự dẫn tới việc xây dựng Biện pháp Bảo vệ Môi trường Quốc gia (NEPM) cho Vật liệu Đóng gói Đã Sử dụng giúp củng cố Cam kết Đóng gói Quốc gia. Những mối quan tâm về việc sử dụng natri xyanua trong thị trường vàng quốc tế đã dẫn tới việc xây dựng một bộ quy tắc tự nguyện của ngành để quản lý loại chất có độc tố cao này. Quy tắc Quản lý Xyanua Quốc tế để Sản xuất, Vận chuyển và Sử dụng Xyanua trong Sản xuất Vàng đã được một nhóm đa thành phần xây dựng với sự hậu thuẫn của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc và ICMM. Bản Quy tắc, có tại địa chỉ , được Viện Quản lý Xyanua Quốc tế quản lý. Viện này quảng bá bản Quy tắc này tới mọi bên liên quan và khuyến khích ngành áp dụng để bảo vệ con người và môi trường. Trong phần lớn các quốc gia, quản lý xyanua là chủ đề của các quy định về môi trường, và cùng với phát kiến của ngành sẽ tạo ra sự đồng điều tiết. Những khu vực khác đã ủng hộ các chương trình đồng điều tiết, nổi bật nhất là thông qua công tác của Hội đồng Kinh doanh Thế giới để Phát triển Bền vững (WBCSD). Một ví dụ trong khu vực khoáng sản là Dự án Khai thác, Khoáng sản và Phát triển Bền vững. Dự án này tiếp tục hình thành bản tuyên bố bền vững của ngành khai thác mỏ. WBCSD được thành lập để điều phối đóng góp của hoạt động kinh doanh toàn cầu theo Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất vào năm 1992. Hội đồng này hỗ trợ quá trình phát triển bền vững và lồng ghép các thành phần quản lý vào trong những lĩnh vực hiệu quả sinh thái, phối hợp trách nhiệm xã hội, trách nhiệm giải trình và tính minh bạch. 2.5 Sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ Các cơ quan của ngành hoặc các công ty đơn lẻ có thể thành lập các nhóm tư vấn để chỉ dẫn cho những dự án cụ thể, liên tục cung cấp ý kiến tư vấn, đánh giá phê bình một báo cáo thường niên về môi trường hoặc trong nhiều trường hợp, xác nhận với vai trò là một bên thứ ba về hoạt động của công ty. Trao đổi ý kiến với các tổ chức phi chính phủ (NGO) sẽ đảm bảo lấy được ý kiến từ bên ngoài cộng đồng chuyên môn. Nhìn chung, các tổ chức phi chính phủ cẩn trọng hơn trong việc đánh giá rủi ro của họ và ít lạc quan hơn về lợi ích. Thông qua sự tham gia của họ vào quá trình trao đổi tư vấn chi tiết, các công ty sẽ được cảnh báo trước về những phản ứng của cộng đồng sẽ xảy ra đối với hoạt động hiện tại và tương lai của họ. Để đổi lại sự tham gia và đóng góp của họ, các tổ chức phi chính phủ sẽ cập nhật được nhiều thông tin hơn và có động lực tiếp tục tham gia (nhìn chung dưới hình thức tự nguyện và không tính phí) đại diện cho cộng đồng của họ, khi các công ty lắng nghe lời khuyên của họ. Các tổ chức trong ngành và các công ty khai thác mỏ đơn lẻ cũng có thể thành lập những nhóm tư vấn hoặc hợp tác với các tổ chức phi chính phủ theo nhiều hình thức khác. Ví dụ, Hội đồng Khoáng sản Úc cũng có một đại diện của NGO trong Ban Tư vấn Bên ngoài của họ. Các cơ quan điều tiết và phòng ban trong Chính phủ Úc luôn duy trì liên tục hoạt động trao đổi tư vấn với các tổ chức phi chính phủ. Các tổ chức phi chính phủ trong cộng đồng thường quan tâm đặc biệt tới môi trường, trong khi các tổ chức phi chính phủ của ngành thường là hoạt động theo lĩnh vực. QUẢN LÝ 9 2.6 Động lực điều tiết quốc tế Úc đã phê chuyển tất cả các công ước quốc tế có yêu cầu giảm nhẹ hoặc loại bỏ những hóa chất nhất định cùng phế thải đi kèm để hạn chế tác động tới sức khỏe con người và môi trường. Những công ước này, được nhiều cơ quan khác nhau của Liên hợp quốc thực hiện, là các động lực điều tiết cho công tác quản lý hóa chất tại Úc. Có lẽ, công ước có tầm quan trọng nhất đối với ngành khai thác mỏ là Công ước Basel với mục tiêu hướng tới thực hiện những điều kiện pháp lý, thể chế và kỹ thuật tại một bên để đạt được mức độ quản lý toàn diện về mặt môi trường cho các chất thải nguy hiểm, từ giai đoạn tạo ra tới loại bỏ. Công ước này thể hiện mức độ quản lý càng sâu sát càng tốt đổi với nguồn khai thác và ngăn chặn việc vận chuyển qua biên giới. Có́ một ranh giới rõ ràng giữa sản phẩm và chất thải, do đó ngành cần hiểu rằng những chất thải bao gồm kim loại (antumon, asen, berili, catmi, crom (VI), đồng, thủy ngân, selen, telua, tali và kẽm) hoặc các hợp chất của chúng đều phải thuộc đối tượng phải tuân theo công ước. Tiếp theo đó là Công ước Rotterdam với mục tiêu giám sát và kiểm soát hoạt động thương mại các chất nguy hiểm. Công ước này đem lại cho các quốc gia nhập khẩu quyền quyết định loại hóa chất nào họ muốn nhận và loại bỏ những loại nào mà họ không thể quản lý an toàn. Điều này có nghĩa là xuất khẩu một hóa chất có thể chỉ diễn ra khi có thỏa thuận được thông báo trước của bên nhập khẩu. Nếu diễn ra hoạt động thương mại, những yêu cầu về nhãn mác và cung cấp thông tin về các ảnh hưởng tiềm ẩn đối với sức khỏe và môi trường sẽ tăng cường việc sử dụng an toàn những hóa chất này. Phần lớn các chất được nêu trong công ước đều là hóa chất hữu cơ, nhưng cũng có cả thủy ngân và các hợp chất, amiăng và các hợp chất thiếc tributyl. Phương pháp tiếp cận Chiến lược đối với Quản lý Hóa chất Quốc tế (SAICM) cũng là một khung chính sách cho hành động quốc tế về nguy hiểm hóa chất, được thống nhất trong phiên họp đa quốc gia được tổ chức với sự hậu thuẫn của Liên hợp quốc vào tháng 2 năm 2006. Định nghĩa về “hóa chất” rất rộng và có thể bao hàm cả một số sản phẩm khoáng sản. Hai công ước khác ít liên quan trực tiếp hơn tới ngành khai thác mỏ là Hiệp ước Montreal (tới Công ước Vienna) để bảo vệ tầng ozon và Công ước Stockholm về Chất hữu cơ Tồn lưu Gây ô nhiễm. Cả hai công ước để đề cập tới hóa chất hữu cơ và việc thực hiện tại Úc đang được thực hiện. Phần lớn mọi người đều quen với việc rút bỏ chất CFC và những chất liên quan theo Công ước Montreal. Ít phổ biến hơn là Công ước Stockholm. Hoạt động phát tán ngoài chủ tính những chất như polychlorodibenzo-dioxins và –furans, cũng như hexachlorobenzene trong quá trình chế biến khoáng sản được đề cập trong công ước (và Kế hoạch Thực hiện Quốc gia Úc) với yêu cầu giảm thiểu hoặc loại bỏ. Liên kết Internet tới những công ước được cung cấp ở cuối cuốn sổ tay này. 10 CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỚI PHƯƠNG THỨC HÀNG ĐẦU TRONG NGÀNH MỎ 3.0 ĐỊNH NGHĨA VỀ CHU TRÌNH SỐNG CỦA KHOÁNG SẢN Hiểu biết về một chu trình sống của ngành là yêu cầu bắt buộc đối với nhiệm vụ quản lý. Một đánh giá về chu trình sống có thể vô cùng giá trị trong việc góp phần hỗ trợ ra quyết định. Để thực hiện một đánh giá như vậy, một công ty cần kiểm tra từng bước trong cả chu trình sống của một sản phẩm, trong đó có những bước rất dễ bị bỏ qua, ví dụ như tình trạng của sản phẩm sau thời gian đem lại lợi ích sử dụng. Các bước này thông thường sẽ bao gồm việc khai thác và chế biến vật liệu; sản xuất, vận chuyển và phân phối; sử dụng, tái sử dụng, bảo trì, tái chế và thải loại cuối cùng. Công đoạn thải loại cuối cùng có thể được chia nhỏ thành bồi đất, ngăn chặn an toàn, đốt hoặc phát tán vào môi trường. Khi xác định từng bước theo kiểu này, tiêu điểm sẽ tập trung vào việc sử dụng các tài nguyên kèm theo (trong đó có nước, không khí và năng lượng), tác động thực sự hoặc tiềm ẩn về môi trường và những yếu tố như tính hiệu quả và an toàn/sức khỏe nghề nghiệp. Một đánh giá chu trình sống (LCA), đôi khi còn được gọi là phân tích chu trình sống, theo định nghĩa của Hiệp hội Hóa học và Chất độc Môi trường là: “...một quá trình khách quan để đánh giá những gánh nặng đối với môi trường đi kèm theo một sản phẩm, quá trình hoặc hành động bằng cách xác định và định lượng năng lượng và vật liệu sử dụng cũng như chất thải phát tán vào môi trường, để đánh giá tác động của những hoạt động sử dụng và phát tán năng lượng và vật liệu đó đối với môi trường và để đánh giá, thực hiện những cơ hội cải thiện môi trường. Đánh giá bao gồm toàn bộ chu trình sống của sản phẩm, quá trình hoặc hoạt động …’ (Fava et al.,1991, p. 1). Do đó, LCA là một quá trình định lượng các tác động đối với môi trường của một sản phẩm “từ khi chào đời tới lúc nhắm mắt xuôi tay” và cso thể cung cấp những kết quả định lượng mà theo đó có thể tính toán được quá trình như giảm năng lượng sử dụng trong quá trình sản xuất. Chu trình sống của một sản phẩm có thể được thể hiện trong một sơ đồ, giống như trong chương trình Green Lead (xem nghên cứu tình huống ở Phần 3.1). Những thành phần cơ bản của một chu trình sống bao gồm: • Những khu vực chính trong chu trình sống của sản phẩm – mỗi khu vực chịu trách nhiệm quản lý khu vực của chính mình và quan tâm tới công tác quản lý sản phầm khi sản phẩm di chuyển theo chu trình sống. • Mỗi khu vực này được liên kết với nhau bằng một liên kết vận chuyển – dây chuyền giám sát giữa các khu vực cần được đưa vào lịch quản lý sản phẩm (xem nghiên cứu tình huống RightShip). • Mỗi khu vực đều có quan hệ qua lại tiềm ẩn (có thể là duy nhất) với mọi người và hành tình, và đồng thời là một phần của mối liên kết chúng với các khu vực khác trong chu trình sống của sản phẩm. • Những đầu ra (mũi tên chỉ từ chu trình sống tới trái đất) tại mỗi khu vực và giữa các khu vực của chu trình sống thể hiện tác động sản phẩm có thể tạo ra đối với bầu sinh quyển. QUẢN LÝ 11
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net