SẢN XUẤT BIODIESEL TỪ TẢO BIỂN
Những kết quả nghiên cứu cho thấy tảo biển Chlorellacó nhiều triển vọng ứng dụng tại Việt Nam, là nguồn sản xuất biodiesel phong phú mà không xâm hại an ninh lương thực như những loại cây trồng lấy dầu biodiesel khác. Đặc biệt, tảo có thể tồn tại ở bất cứ nơi nào có đủ ánh sáng, kể cả vùng hoang hoá, nước mặn, nước thải, lại có khả năng làm sạch môi trường nước thải.
THÖ VIEÄN ÑAÏI HOÏC COÂNG NGHIEÄP TP. HCM
----------
TRÍCH BAÙO TAÏP CHÍ
KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ
BAÛN TIN VIEÄT NAM
THAÙNG 12/2008
http://lib.hui.edu.vn
MUÏC LUÏC
THÔNG TIN THÀNH TỰU
1. Sản xuất biodiesel từ tảo biển.
2. Hoàn thiện công nghệ sản xuất biodiesel từ dầu thực vật Việt Nam.
3. Sản xuất chỉ xơ dừa.
4. Công nghệ mới bảo quản dừa tươi.
5. Thiết kế Chip SG-8V1 tại Việt Nam.
6. Chế tạo máy gieo lạc.
7. Chế tạo thành công máy nông cụ đa chức năng .
8. Máy bơm chạy bằng sức nước.
9. Thiết bị thái thức ăn xanh cho gia súc.
10. Máy sấy sạch nông sản.
11. Chế vắcxin H5N1 cho gia cầm từ men bánh mì.
12. Chế phẩm chữa bệnh từ nước thải muối.
13. Lần đầu tiên nuôi cá ngựa gai sinh sản thành công.
14. Bể phốt kiểu mới của Việt Nam đoạt Huy chương vàng quốc tế.
15. Những đột phá mới trong Công nghệ sinh học Việt Nam năm 2008.
SÁNG CHẾ VIỆT NAM
1. Dụng cụ chụp đường mật.
2. Quy trình sản xuất thuốc bổ dưỡng chiết xuất từ bã men bia.
3. Phương pháp sản xuất điện từ khí sinh vật.
4. Thanh ray hộp dẫn hướng cửa cuốn, cửa nâng, cửa trượt.
5. Cơ cấu điều chỉnh lượng gió vào bình xăng con.
6. Thiết bị tháo lốp xe cỡ lớn.
7. Cơ cấu xoay quạt.
2
8. Hố ga thu nước của hệ thống thoát nước thải.
3
SẢN XUẤT BIODIESEL TỪ
TẢO BIỂN
TS. Trương Vĩnh và các cộng sự ở Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM vừa
có những kết quả nghiên cứu cho thấy tảo biển Chlorella có nhiều triển vọng
ứng dụng tại Việt Nam, là nguồn sản xuất biodiesel phong phú mà không xâm
hại an ninh lương thực như những loại cây trồng lấy dầu biodiesel khác. Đặc
biệt, tảo có thể tồn tại ở bất cứ nơi nào có đủ ánh sáng, kể cả vùng hoang hoá,
nước mặn, nước thải, lại có khả năng làm sạch môi trường nước thải.
Để nuôi tảo, chỉ cần ánh sáng, CO2, nước và dinh dưỡng có thể là phân
hoá học hoặc phân chuồng. Tảo giống thường nuôi trong phòng thí nghiệm, về
sau có thể chuyển qua bể hoặc ao để nuôi.
Ngoài việc dùng vi tảo để sản xuất nhiên liệu, có thể dùng bụi tảo khô để
đốt trong các động cơ diesel thay thế cho than bụi. Đặc biệt, tảo có hàm lượng
dầu cao có thể dùng để chiết tách lấy dầu.
Nghiên cứu sử dụng nguồn tảo giống Chlorella trong nước, được cung
cấp từ Khoa Thuỷ sản Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, Khoa Thuỷ sản Trường
ĐH Cần Thơ và Trung tâm Quốc gia giống Hải sản Nam Bộ.
Thí nghiệm cho thấy tảo Chlorella cho dầu có màu vàng sậm, năng suất
chuyển đổi dầu thành biodiesel là 97% sau 2 giờ phản ứng.
Trên thế giới, tảo Chlorella đã được nhiều tác giả nghiên cứu để sản xuất
nhiên liệu biodiesel sinh học. Ý tưởng sản xuất Biodisel từ vi tảo có từ lâu
(Chisti Y, 1980). Năm 1994, Roessler và cộng tác viên đã nghiên cứu sản xuất
biodiesel từ vi tảo, sau đó nhiều tác giả khác đã nghiên cứu.
Theo tính toán của các nhà khoa học Mỹ, dùng vi tảo lợi hơn các loại cây
có dầu khác do năng suất dầu cao gấp 19 - 23 lần trên cùng một diện tích đất
trồng. Hàm lượng dầu trong tảo tính trung bình trên thế giới, theo Chisti từ 15 -
77% tuỳ loài. Qua thí nghiệm của nhóm nghiên cứu Trường ĐH Nông Lâm cho
thấy, hàm lượng dầu ở tảo tại Việt Nam còn thấp, cần có những bước cải tiến để
nâng hàm lượng dầu lên.
TS. Trương Vĩnh đề nghị, nên nhập các giống tảo hàm lượng dầu cao để
các đơn vị thuỷ sản nghiên cứu triển khai nuôi trồng các vùng ngập mặn, hoang
hoá. Đồng thời cần nghiên cứu ứng dụng các thiết bị nuôi quang hợp, chiết tách
dầu để tự chế tạo, giảm giá thành sản xuất biodiesl trong tương lai.
4
Việc sản xuất biodiesl từ tảo không cạnh tranh với đất trồng cho thực
phẩm và góp phần giảm thiểu khí nhà kính làm sạch môi trường. Theo nhóm
nghiên cứu, đây là một hướng đi triển vọng mà nhiều nước trên thế giới đã làm.
Theo http://vietnamnet.vn, 20/12/2008
***************
HOÀN THIỆN CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIODIESEL TỪ
DẦU THỰC VẬT VIỆT NAM
Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng vừa hoàn thành xuất sắc đề tài “Hoàn
thiện công nghệ sản xuất biodiesel từ dầu thực vật Việt Nam ở quy mô pilot có
công suất 100kg/ngày”. Nét mới mà nghiên cứu lần này đã đưa ra là dây chuyền
công nghệ đầu tiên “ngốn” được hầu hết dầu ép từ các loại hạt có dầu tại Việt
Nam để cho ra loại nhiên liệu sạch có cùng tính chất và đạt chuẩn châu Âu.
PGS-TS Hồ Sơn Lâm, Viện trưởng Viện KH Vật liệu Ứng dụng cho biết,
ở nông thôn, các hạt trẩu, sở… rụng đầy sân mà người dân chỉ quét bỏ, không
xài được gì. Nhận thấy đây là loại hạt có thể làm được nhiều việc như võ sừng
làm ván ép, nhân ép lấy dầu và còn có thể biến chúng thành dầu sinh học...
PGS-TS Hồ Sơn Lâm đã nghiên cứu công nghệ chiết dầu và sản phẩm phụ từ
các loại hạt, rồi tiếp tục nghiên cứu khả năng lấy dầu làm nhiên liệu sản xuất
biodiesel trong phòng thí nghiệm. Và bây giờ là hoàn thiện dây chuyền công
nghệ sản xuất biodiesel vào thực tế.
Dựa trên một loạt nghiên cứu thành công về hạt chứa dầu, năm 2007,
PGS-TS Hồ Sơn Lâm cùng các cộng sự thực hiện đề tài nghiên cứu cấp Viện
KH-CN Việt Nam “Hoàn thiện công nghệ sản xuất biodiesel từ dầu thực vật
Việt Nam ở quy mô pilot có công suất 100kg/ngày”.
Nghiên cứu chỉ số hóa lý của các mẫu dầu theo các tiêu chuẩn quốc tế về
biodiesel: độ nhớt, tỷ trọng, nhiệt lượng, nhiệt chớp cháy, hàm lượng etyleste;
động học và cơ chế phản ứng transeste hóa; tỷ lệ các chất tham gia phản ứng,
hàm lượng và thành phần xúc tác, nhiệt độ phản ứng, thời gian phản ứng; tìm
phụ gia chống oxy hóa; phối trộn thành các mẫu tiêu chuẩn…
Sau khi sản xuất thử thành công trong phòng thí nghiệm, nhóm nghiên
cứu bắt đầu mua máy móc, vật liệu lên lắp ráp tại vườn cao su ở Bình Dương để
sản xuất. Vừa tận thu nguồn hạt cao su phế phẩm làm nguyên liệu đầu vào, vừa
lấy biodiel thành phẩm chạy máy cày, máy kéo. Giám đốc Sở KH-CN Bình
Dương Nguyễn Văn Rua đánh giá cao hiệu quả của công nghệ này: “Lâu nay,
nhiều nhà khoa học ngại chế biến biodiesel từ dầu hạt cao su là cực khó nhưng
công nghệ này đã làm được điều đó. Pha biodiesel với dầu diesel theo tỷ lệ 1-9
như chuẩn của châu Âu, máy móc chạy tốt”.
5
Lợi ích “n trong 1”
Công nghệ sản xuất Biodiesel được bắt đầu bằng công đoạn bơm dầu
thực vật vào nồi tham gia phản ứng este hóa. Sau đó, dầu được lắng, làm sạch
bằng nước muối, nước sạch rồi chưng cất chân không. Kết quả cuối cùng là cho
ra thành phẩm có màu vàng sáng có độ nhớt và hàm lượng este đáp ứng tiêu
chuẩn Việt Nam, thậm chí là châu Âu.
GS-TSKH Nguyễn Công Hào, Viện Công nghệ hóa học, đánh giá cao
hiệu quả này: “Chúng ta có thể sản xuất ra biodiesel từ rất nhiều loại dầu khác
nhau cho ra cùng tính chất, chất lượng và có thể trữ được lâu. Thêm nữa, tốc độ
phản ứng nhanh, ít phản ứng phụ gây độc hại cho môi trường”.
GS-TSKH Hồ Sỹ Thoảng, Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng, cho rằng
cách tiếp cận khoa học đã chọn nguyên liệu từ tất cả dầu thực vật từ các loại hạt
Việt Nam là ưu điểm vượt trội của công nghệ này. Hiện tại trong nước và quốc
tế có nhiều công nghệ sản xuất biodiesel nhưng công nghệ nước ngoài thì không
phù hợp với tính chất dầu thực vật của Việt Nam, còn công nghệ trong nước lại
thường xuyên thiếu nguyên liệu đầu vào như dầu ăn cặn, mỡ cá…Công nghệ
này đã khắc phục được 2 điểm yếu lớn đó. Thêm nữa, sản xuất bằng dầu thực
vật rất có lợi cho môi trường vì số cây trồng để lấy hạt sẽ hấp thu khí CO2, giúp
giảm hiệu ứng nhà kính. GS Thoảng cho rằng, hạn chế lớn nhất để phát triển
ngành này là chi phí sản xuất biodiesel còn cao lại phụ thuộc vào giá dầu trên
thị trường nên sẽ khó cạnh tranh khi đem ra bán.
Tuy nhiên, theo tính toán của PGS-TS Hồ Sơn Lâm, nếu chỉ tính riêng lẻ
biodiesel thì không có lời nhưng nếu tính cả những thành phẩm phụ như ván ép,
thức ăn gia súc, phân bón… thì đã giải được bài toán kinh tế lớn cho người dân.
Đây còn là bài toán bảo vệ môi trường và xu thế tất yếu mà ngành năng lượng
Việt Nam phải hướng đến.
Giáo sư Viện sĩ Khoa học Nguyễn Văn Hiệu, Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam, làm bài toán: Chỉ cần đầu tư thêm 1 nồi phản ứng nữa, chúng ta
sẽ sản xuất 250 tấn biodiesel mỗi năm. Nhưng vấn đề tồn tại là chưa được phép
bán ra thị trường, anh có thể biếu tặng nhau để dùng nhưng chưa được phép tiêu
thụ trên thị trường. Nhà khoa học đã hoàn thiện xuất sắc dây chuyền sản xuất
biodiesel và vấn đề còn lại là của nhà quản lý, cần phát triển tiềm năng này
thành lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế, đồng thời giải quyết bài toán bảo
vệ môi trường và mang về lợi ích kinh tế không nhỏ.
Theo www.sggp.org.vn, 24/12/2008
***************
6
SẢN XUẤT CHỈ XƠ DỪA
Trung tâm Khuyến công (Sở Công thương Bến Tre) đã tổ chức hội nghị
giới thiệu mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất chỉ xơ dừa suông. Đây là mô
hình áp dụng thiết bị công nghệ mới cho ra sản phẩm có giá trị và hiệu quả kinh
tế cao.
Năm 2008, Trung tâm Khuyến công Bến Tre đã phối hợp với Công ty
TNHH Thanh Bình, chi nhánh tại xã An Hóa, huyện Châu Thành tổ chức xây
dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất chỉ xơ dừa suông với nguồn vốn 400
triệu đồng xây dựng nhà xưởng, mua thiết bị, công nghệ như máy cán, máy tước
chỉ suông, máy tước chỉ phế phẩm, máy sàng và hệ thống điện. Quy trình sản
xuất chỉ xơ dừa suông được thực hiện từ nguyên liệu vỏ dừa, sau khi phun nước
tạo ẩm, vỏ dừa được cán dẹp định hình, tiếp theo đưa vào máy tước chỉ suông.
Sản phẩm này được phơi khô và trở thành thành phẩm. Trong quá trình tước chỉ
suông, máy sẽ đưa ra một phần chỉ rối, sau khi được sàng, phơi khô sẽ trở thành
sản phẩm phụ.
Sản phẩm chỉ xơ dừa suông là tập hợp các cọng chỉ xơ dừa được xếp theo
1 chiều, dài từ 20 đến 30 cm, có đặc tính to, cứng và bền chắc. Đây là sản phẩm
hoàn toàn mới và có nhu cầu tiềm năng rất lớn trên thị trường trong và ngoài
nước. Hiện nay, chỉ xơ dừa suông có giá trị kinh tế cao gấp 4 lần so với chỉ xơ
dừa rối (chỉ xơ dừa suông có giá 8,5 triệu đồng/tấn, trong khi chỉ rối có giá 2
triệu đồng/tấn). Sử dụng chỉ xơ dừa suông sẽ tạo ra những mặt hàng thủ công
mỹ nghệ cao cấp được thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông
và một số nước Châu Âu tiêu thụ mạnh.
Theo lãnh đạo công ty TNHH Thanh Bình, với tổng số vốn đầu tư 1,9 tỷ
đồng, mỗi năm Công ty đạt doanh thu 1,8 tỷ đồng. Trong đó, sản phẩm chỉ xơ
dừa suông đạt giá trị trên 1,2 tỷ đồng, chỉ xơ dừa rối 576 triệu đồng, lợi nhuận
trên 100 triệu đồng/năm. Dự kiến, Công ty sẽ thu hồi vốn của dự án sau 30
tháng. Ngoài ra, Công ty còn giải quyết trên 40 lao động có cuộc sống ổn định.
Theo www.tchdkh.org.vn, 9/12/2008
***************
7
CÔNG NGHỆ MỚI BẢO QUẢN DỪA TƢƠI
Hội đồng KH&CN tỉnh Bến Tre vừa tổ chức nghiệm thu kết quả và đánh
giá khả năng tính khả thi đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện công nghệ bảo
quản trái dừa tươi uống nước phục vụ xuất khẩu” của Viện Nghiên cứu dầu và
cây có dầu (Bộ Công thương) do ThS. Trần Thị Yên Thảo làm chủ nhiệm.
Mục tiêu của đề tài là hoàn thiện công nghệ để có thể bảo quản được trái
dừa tươi trong 6 tuần, tỷ lệ hao hụt dưới 10% và không có hóa chất lạ trong
nước dừa nhằm đưa trái dừa tươi, một trong những thế mạnh của Bến Tre và
vùng ĐBSCL xuất khẩu ra nước ngoài đưa lại nguồn lợi lớn.
Nhóm tác giả đã tập trung đi sâu nghiên cứu, thử nghiệm tổng hợp từ các
khâu thu hái, thời gian, phương pháp, hóa chất dùng trong bảo quản để đưa ra
một qui trình công nghệ bảo quản trái dừa tươi đạt hiệu quả cao nhất. Theo qui
trình công nghệ bảo quản này thì thời điểm thu hái tốt nhất là khi trái dừa được
8 tháng tuổi rồi đem vào xử lý bề mặt và xử lý hóa chất.
Với trái dừa gọt vỏ, nhóm nghiên cứu đề xuất sử dụng các hợp chất Sulfit
và Meta bisulfit natri, Meta bisulfit kali và Bisulfit natri.
Đối với dừa nguyên vỏ, chất bảo quản thích hợp là Hydroxit canxi 1% và
Benzoat natri 0,5%. Thang nhiệt độ từ 1 đến 4oC đối với dừa gọt vỏ và 8oC đối
với dừa nguyên vỏ là điều kiện tối ưu giúp kéo dài thời gian bảo quản tới 6 tuần
liền mà vẫn đảm bảo chất lượng.
Các thông số kỹ thuật từ kết quả liên kết giữa nhóm đề tài với Công ty
xuất nhập khẩu Bến Tre xuất khẩu thử một số lô hàng sang thị trường Hàn Quốc
cho thấy tính khả thi cao và lợi nhuận thu được tăng 14 lần số tiêu thụ nội địa.
Theo khuyến nghị của Hội đồng KH & CN, nhóm tác giả tiếp tục chỉnh sửa, bổ
sung và hoàn thiện qui trình công nghệ để sớm chuyển giao cho các đơn vị phục
vụ sản xuất và xuất khẩu.
Theo www.vista.gov.vn, 9/12/2008
***************
8
THIẾT KẾ CHIP SG-8V1 TẠI VIỆT NAM
Trung tâm nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch (ICDREC) ĐH Quốc
gia TP.HCM vừa công bố sản xuất thử nghiệm 1 loại chip vi xử lý thương mại
kiến trúc Pipeline 5 tầng cho phép tăng tốc độ xử lý và dung lượng bộ nhớ lên 4
lần so với vi xử lý thông dụng hiện có trên thị trường.
Trường ĐH Quốc gia TP.HCM đã tổ chức họp báo giới thiệu dự án: thiết
kế và sản xuất thử nghiệm chíp vi xử lý 8 bít RISC thương mại SG-8V1 (Sài
Gòn- 8bits- Version1) vào ngày 20/12.
Thạc sỹ Ngô Đức Hoàng, giám đốc Trung tâm ICDREC- chủ nhiệm dự
án cho biết, đây là dự án sản xuất chíp thương mại đầu tiên của Việt Nam.
Chip SG-8V1 cho phép tăng tốc độ xử lý lên 4 lần. Bên cạnh đó, dung
lượng bộ nhớ chương trình (nơi lưu giữ mã lệnh” cũng tăng gấp 4 lần so với vi
xử lý thông dụng hiện có trên thị trường.
Chủ nhiệm dự án, ThS Ngô Đức Hoàng cho biết thêm, dự án này xuất
phát từ đề tài “Nghiên cứu thiết kế lõi IP và chế tạo thử nghiệm chíp 8 bít RISC
SigmaK3”. (ĐH Quốc gia TP.HCM đã công bố chip SigmaKa3 là chíp vi xử lý
đầu tiên của Việt Nam vào ngày 18/1/2008). SG-8V1 được nâng cấp và hoàn
thiện tính năng từ SigmaKa3 để sản xuất với số lượng lớn cho mục đích thương
mại.
Dự án sản xuất thử nghiệm SG-8V1 sẽ được thực hiện trong vòng 2 năm
(2009-2011) có nhiệm vụ sản xuất 150.000 chíp SG-8V1 và các công cụ hỗ trợ
cho người dùng trong việc nghiên cứu và phát triển ứng dụng chip SG-8V1.
Đây là dự án kinh phí có thu hồi với tổng kinh phí đầu tư gần 12 tỷ đồng
(9,5 tỷ từ ngân sách thành phố và 2,5 tỷ đồng do Trường ĐH Quốc gia TP.HCM
đầu tư). Sau khi kết thúc dự án, ICDREC sẽ tiến hành sản xuất kinh doanh đại
trà sản phẩm và hoàn trả lại 60% kinh phí ngân sách đã đầu tư.
SG-8V1: Thiết kế tại Việt Nam, sản xuất ở nước ngoài
So với chíp AT90S8515 (Atmel- Mỹ) và chip PIC 18F4320 (Microchip-
Mỹ) thì SG-8V1( ICDREC-Việt Nam) có ưu thế vượt trội hơn hẳn về mặt kỹ
thuât. Cụ thể, SG-8V1 có thể tăng tốc độ xử lý lên 4 lần, có dung lượng bộ nhớ
tăng gấp 4 lần bởi kiến trúc Pipeline 5 tầng, trong khi đó AT90S8515 (Atmel-
Mỹ) và PIC 18F4320 (Microchip- Mỹ) mới chỉ có kiến trúc 2 tầng.
Ngoài ra, chíp vi xử lý thương mại SG-8V1 do ICDREC có giá thành rẻ
hơn 30% nên có nhiều lợi thế để cạnh tranh so với các chíp cùng loại. Được
biết, chíp SG-8V1 thương mại đầu tiên của Việt Nam sẽ có giá từ 3- 4
USD/con.
9
Trước mắt, SG-8V1 sẽ dùng để phục vụ cho thị trường trong nước theo
các hướng cụ thể như: phục vụ trong công nghiệp như sử dụng chíp để xây
dựng những ứng dụng cụ thể cho các thiết bị điện tử dân dụng như máy giặt,
điều hòa, tủ lạnh; phục vụ cho đào tạo bằng việc cung cấp chíp, kít thí nghiệm
phục vụ cho mục đích giảng dạy, nghiên cứu khoa học; phục vụ thị trường với
sản phẩm điện tử chuyên dụng và phục vụ cho các ứng dụng quốc phòng, khai
thác thăm dò…
Hiện tại, Việt Nam chưa có nhà máy nào sản xuất được chip vi xử lý. Vì
vậy, ICDREC đã gửi bản thiết kế SG-8V1 sang Mỹ sản xuất, lô hàng đầu tiên
sẽ hoàn thành và gửi về Việt Nam vào tháng 3/2010.
Với số lượng 150.000 chíp vi xử lý thương mại SG-8V1, ICDREC dự
định, phân khúc thị trường sẽ dành 10% tổng chíp SG-8V1 và Kít De-SG-8V1
làm công tác tiếp thị, tặng cho các trường đại học, tổ chức các lớp huấn luyện,
hướng dẫn sử dụng chip dành cho cán bộ giảng dạy vàn nghiên cứu ở các
trường đại học, tài trợ cho các cuộc thi Robocon, cuộc thi thiết kế trên chip SG-
8V1. Khoảng 20% khác hàng sẽ là các trường đại học, trung tâm nghiên cứu và
70% còn lại sẽ dùng để cung cấp cho khách hàng các khối công nghiệp.
Hiện đã có đơn đặt hàng từ 2 đối tác nước ngoài. Lễ kí kết hợp đồng triển
khai thực hiện dự án giữa chủ đầu tư Sở KHCN TP.HCM và cơ quan chủ trì
thực hiện dự án là Trung tâm ICDREC cũng được thực hiện.
Theo www.nld.com.vn, 21/12/2008
***************
CHẾ TẠO MÁY GIEO LẠC
Anh Lê Thanh Bình ở thị xã Đông Hà (Quảng Trị) đã chế tạo thành công
chiếc máy gieo lạc và sắp được đưa vào sản xuất hàng loạt. Chiếc máy gieo lạc
này mang lại sự tiện lợi, tiết kiệm được thời gian, công sức cho người nông dân.
Chiếc máy gieo hạt do anh Bình chế tạo hoạt động nhờ sức người kéo
hoặc đẩy. Khi chuyển động máy có thể gieo từ 2 hàng trở lên tùy theo từng kiểu
máy. Máy chuyển động dựa theo nguyên lý biến chuyển động quay của bánh xe
chính thông qua trục chính dẫn đến bộ phận chia hạt.
Máy thao tác kéo đẩy theo lối ba trong một (vừa cày luống, thả hạt và san
lấp). Độ sâu của hạt có thể điều chỉnh chính xác theo ý muốn. Sử dụng máy còn
tạo được gờ đất dự trữ hai bên luống để cho cây đẻ nhánh và đâm nụ, góp phần
tăng năng suất khi thu hoạch.
Máy gieo hạt thao tác trên mọi địa hình, phạm vi gieo hạt rộng, trong mọi
điều kiện thời tiết có thể gieo hạt được và gieo sát được bờ từ 20 - 25 cm, tận
10
dụng tốt diện tích đất thừa. Một đặc điểm nữa là dùng máy, chỉ cần 1 - 2 lao
động, năng suất đạt 1 ha/8 giờ so với 5 lao động và sức kéo như gieo hạt theo
lối thủ công hiện nay.
Máy có kích thước nhỏ gọn, trọng lượng 21 kg. Anh Bình cho biết nếu
đưa vào sản xuất đại trà, máy sẽ có giá thành hạ, phù hợp với túi tiền của nông
dân.
Anh Lê Thanh Bình đang gấp rút làm thủ tục để cho ra đời hàng loạt chiếc máy
gieo lạc và đem máy dự triển lãm máy nông cụ tại Đà Nẵng.
Theo www.tienphong.vn, 24/12/2008
***************
CHẾ TẠO THÀNH CÔNG MÁY NÔNG CỤ ĐA CHỨC NĂNG
Cỗ máy đa chức năng lần đầu tiên có mặt trên thị trường Việt Nam đã
ứng dụng trong thực tế mang lại nhiều kết quả tốt. Với 5 tính năng tích hợp, cỗ
máy này cho phép thực hiện được hầu hết công việc trong hộ gia đình nông
nghiệp.
Máy có khả năng: tuốt lúa, nhặt đậu phộng (lạc) ra khỏi thân cây, thái
(băm) rau cỏ phục vụ chăn nuôi, mài củ thành bột cho chế biến và cắt củ thành
lát phơi tích trữ.
Sau khi hoàn thành công tác chế tạo máy tại xưởng cơ khí, máy được đem
khảo nghiệm tuốt lúa, thái cỏ, thái rau tại TPHCM, Long An, Đồng Nai, Tây
Ninh.
Kết quả xử lý cho thấy năng suất bứt lạc đạt 200-300 kg/giờ; Sắt củ sắn,
củ khoai thành lát đạt 500-600 kg/giờ; Tuốt lúa đạt 250-300 kg/giờ; Thái rau, cỏ
đạt 160-250 kg/giờ; Mài củ thành bột đạt 200-300 kg/giờ.
Hiện nhóm nghiên cứu đang tiếp tục nghiên cứu vật liệu cũng như kết cấu
máy để máy có thể nhẹ hơn nữa cũng như nâng cao khả năng linh động và cơ
động của máy. Dự kiến sản phẩm sẽ được đưa đi tham dự Giải thưởng sáng tạo
khoa học kỹ thuật TPHCM năm nay.
Theo www.tienphong.vn, 16/12/2008
***************
11
MÁY BƠM CHẠY BẰNG SỨC NƢỚC
Máy bơm có hình dáng như guồng nước từng được người dân vùng cao
sử dụng để đưa nước lên ruộng, nhưng trên guồng máy bơm gắn thêm các cuộn
ống nước xếp hình xoắn ốc. Đặt xuống suối, guồng tự quay theo sức đẩy của
nước, mỗi vòng sẽ lấy một lượng nước và không khí vào ống cuộn. Cứ theo các
vòng quay của guồng, lượng nước và không khí liên tục đi vào ống sẽ dồn ép
tạo ra áp suất lớn nhất ở vòng quay cuối cùng, đẩy nước phụt qua ống xả lên
cao. So với guồng nước thông thường, máy bơm này giúp đưa nước lên cao
hơn.
Chiếc máy bơm ở bản Đồng Ban là sáng chế của trung tâm Cơ điện nông
nghiệp và ngành nghề nông thôn (Liên hiệp các hội Khoa học & kỹ thuật Việt
Nam). ThS Vũ Đình Phiên, phó giám đốc trung tâm cho biết, máy bơm xoắn ốc,
máy không sử dụng nhiên liệu, nhưng có thể đưa nước lên cao 9m, lưu lượng
bơm 202 - 239m3/ngày đêm (khi tốc độ dòng suối 1,2 - 1,3m/giây, tốc độ quay
của bơm là 4 - 4,8 vòng/phút). Ở các tỉnh miền núi, sông suối mùa khô vẫn có
lưu lượng lớn và tốc độ dòng chảy mạnh (trên 1m/giây), nên máy bơm xoắn ốc
có thể tận dụng sức nước này để vận hành.
Máy có guồng làm bằng thép, được sơn chống gỉ, và được đặt trên phao
nổi hoặc trên bệ cố định, dễ dàng điều chỉnh, tháo dỡ, di chuyển vào mùa mưa
lũ. Độ bền và sự ưu việt của máy đã được chứng minh sau các thử nghiệm tại
Đồng Ban và một số tỉnh miền núi phía Bắc.
KS Phạm Văn Rỡ, tổng thư ký Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Yên
Bái đánh giá máy bơm xoắn ốc rất phù hợp với vùng cao. Do thiết bị vận hành
bằng sức nước, nên người dân sẽ giảm được các khoản chi phí xăng dầu hay
điện năng chạy máy. Không dùng nhiên liệu cũng có nghĩa là máy hoàn toàn
không gây ô nhiễm môi trường, nên cũng góp phần bảo vệ hệ sinh thái đa dạng
ở các sông, suối vùng cao. Chiếc máy bơm tiện lợi này cần được nhân rộng ra
các địa bàn khác để giảm nhẹ gánh nặng trong sản xuất nông nghiệp cho bà con.
Giá máy bơm xoắn ốc hiện vào khoảng 6 - 7 triệu đồng, và một cánh đồng chỉ
cần một máy bơm là đủ. Năm 2009 - 2010, công nghệ máy bơm xoắn ốc sẽ
được chuyển giao cho tỉnh Yên Bái để sản xuất đại trà.
Theo Tạp chí Hiện đại hoá, 12/2008
***************
12
THIẾT BỊ THÁI THỨC ĂN XANH CHO GIA SÚC
Viện cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch vừa nghiên cứu,
chế tạo thành công thiết bị thái thức ăn xanh cho đại gia súc giúp nhà nông cải
tiến quy trình chăn nuôi và tiết kiệm nhân công, thời gian lao động.
TS. Hoàng Tam Ngọc, phòng nghiên cứu cơ giới hóa chăn nuôi cho biết,
thức ăn thô xanh chiếm 70% - 95% số lượng khẩu phần ăn của đại gia súc như
trâu, bò, ngựa và một số loại gia súc gia cầm như dê, cừu, đà điểu, ngỗng…Vấn
đề dự trữ thức ăn cho mùa trái vụ (mùa đông ở miền Bắc và mùa khô ở miền
Nam) là nỗi lo của hầu hết người chăn nuôi. Thiết bị thái thức ăn xanh cho gia
súc không chỉ sơ chế thức ăn mà còn giúp tạo nguồn thức ăn dự trữ cho gia súc
nhờ việc sơ chế, làm dập để ủ chua.
Từ những tác dụng trên, nhóm đã nghiên cứu máy thái cỏ không chỉ thái
nhỏ mà còn chế biến thức ăn cho gia súc để dễ tiêu hóa hơn. Theo đó, máy có
nhiều kiểu, cắt thái các loại cỏ cho gia súc ăn ngày và phục vụ nhu cầu chế biến
thức ăn thô xanh và ủ chua. Viện cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu
hoạch đã thiết kế chế tạo máy thái cỏ năng suất 0.5; 1 ; 2; 5 tấn / giờ, sản phẩm
thái đạt kích thước phù hợp với vật nuôi (5 – 150 mm), làm dập các thân cứng
và phục vụ chăn nuôi trâu bò, đà điểu… có hiệu quả cao. Tùy thuộc vào quy mô
chăn nuôi mà bà con có thể chọn các loại máy phù hợp. Đây được coi là giải
pháp ưu việt trong việc tạo thức ăn cho gia súc khi thời tiết khô hạnh.
Theo Báo Khoa học và đời sống, 11/12/2008
***************
13
MÁY SẤY SẠCH NÔNG SẢN
Đó chính là máy sấy sạch vỉ đứng của cơ sở cơ khí tư nhân Hoàng Thịnh
ở thị trấn Buôn Trấp – H.Krông Ana – Đăk Lăk. Với chiếc máy này, bà con chỉ
chỉ tiết kiệm thời gian, công sức mà nông sản sẽ được sấy khô, sạch và nhanh
chóng.
Chủ nhân của chiếc máy cho biết, máy sấy sạch này được làm bằng sắt
thép, nặng 1 – 1,5 tấn, cao 10 – 12 m và đặt cố định tại nhà xưởng. Chiếc máy
này có cấu tạo khá đơn giản gồm khoan chứa vật liệu được cấu tạo nằm ở hai
bên buồng nhiệt (sử dụng các loại phế phẩm nông nghiệp như củi, trấu, bã
mía…để tạo nhiệt). Theo đó, nông sản tươi được cho đầy vào khoang sấy bằng
gầu tải. Sau một thời gian sấy nhất định, nông sản được cho ra ngoài để bốc hơi
tự nhiên rồi lại đưa vào buồng sấy tiếp. Chu trình này được lập lại nhiều lần cho
đến khi nguyên liệu sấy đạt đến độ khô theo quy định.
Qua các kết quả thử nghiệm, đối với cà phê, chiếc máy sấy sạch này có
thể đạt công suất 10 – 20 tấn/mẻ/16 tiếng. Với lúa, quá trình làm khô còn nhanh
hơn 10 – 20 tấn/mẻ/6 tiếng.
Ông Thịnh cho biết, ưu điểm của chiếc máy sấy này là khắc phục được
tình trạng nguyên liệu sấy bị nhiễm khói. Sản phẩm sấy sẽ đạt độ khô đồng đều,
nên màu sắc đẹp, hạn chế được nấm mốc, hạt đen, vỏ mẻ. Đặc biệt hơn, chiếc
máy này sẽ giúp bà con giảm được nỗi khổ phải phơi phóng mỗi khi thu hoạch
nông sản về, nhất là những ngày mưa ẩm ướt. Hiện chiếc máy này đã nhận được
3 đơn đặt hàng.
Được biết, từ chiếc máy sấy này, ông đã cải tiến thành chiếc máy sấy mới
ở quy mô nhỏ hơn nhưng chất lượng hơn. Sản phẩm nằm trong một đề tài khoa
học của Sở KH & CN tỉnh Đăk Lăk. Trong thời gian tới sản phẩm cũng sẽ được
đưa ra thị trường.
Theo Báo Khoa học và đời sống, 13/12/2008
***************
14
CHẾ VẮCXIN H5N1 CHO GIA CẦM TỪ MEN BÁNH MÌ
Bằng cách ứng dụng công nghệ bề mặt tế bào ở chủng tế bào nấm men
Saccharomyces cerevisiae, kí hiệu là MT8-1 (một loại nấm men quen thuộc,
không độc tố, dùng để làm men bánh mì, lên men rượu), nhóm nghiên cứu do
ThS. Trần Thị Hồng Kim (Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP.HCM)
chủ nhiệm, đã bước đầu thành công trong việc tạo ra dòng nấm men có mang
kháng nguyên của virus H5N1 trên bề mặt tế bào.
Dòng tế bào này có khả năng gây đáp ứng miễn dịch chống virus H5N1
trên chuột bạch, mở ra triển vọng phát triển thành một loại vacxin rẻ tiền nhằm
phòng cúm H5N1 cho gia cầm.
Khác với vacxin phòng bệnh cho gia cầm đang phải nhập khẩu hiện nay,
loại vacxin dùng tế bào nấm men phòng bệnh cho gia cầm này có các ưu điểm
như: an toàn, chi phí sản xuất thấp, dễ dàng thực hiện ở mọi quy mô sản xuất
bằng các hệ thống lên men chìm thông dụng, tính ổn định cao, không cần phải
bảo quản lạnh, dễ dàng sử dụng cho gia cầm qua đường miệng thông qua trộn
với thức ăn gia cầm.
Theo nhóm nghiên cứu, để phát triển thành vacxin, cần thử nghiệm thêm
khả năng bảo vệ của dòng nấm men này đối với chuột, gà được gây nhiễm
virus. Nếu kết quả thử nghiệm có tính bảo vệ tốt thì có thể dễ dàng sản xuất
vacxin thông qua việc lên men nhân sinh khối tế bào nấm men này, mà không
cần phải qua các bước tinh chế tốn kém.
Được biết, Việt Nam đã có đề tài nhằm sản xuất vacxin H5N1 dành cho
gia cầm, tuy nhiên vacxin này chưa khắc phục được các nhược điểm vốn có của
vacxin toàn phần dùng cho gia cầm như: cần bảo quản lạnh, tốn nhiều công sức,
chi phí cao, cần tiêm chủng nhiều lần, nhưng vẫn không đảm bảo tiêm chủng
được cho toàn bộ đàn gia cầm, không thể sử dụng cho động vật hoang dã, chim
di trú...
Dịch cúm đã xảy ra 1 thế kỉ nhưng đến nay vẫn luôn là vấn đề thời sự.
Dịch cúm năm 1918 -1929 đã gây chết trên 20 triệu người trên toàn thế giới;
năm 1957 -1958 đã gây chết trên 70 nghìn người... Gần đây, dịch cúm gia cầm
gây ra bởi chủng H5N1 đang lan tràn các nước châu Á như Trung Quốc, Thái
Lan, Nhật Bản, Indonesia, Hàn Quốc, Hồng Kông... Chủng H5N1 là một trong
những chủng của virus cúm A có khả năng nhiễm từ gia cầm sang người, từ đó
gây bệnh trên người, và có thể gây ra tử vong.
Tại Việt Nam, từ khi xuất hiện dịch cúm đến nay, đã có 41 người tử vong
trong số 91 người nhập viện vì nhiễm cúm. Lượng gia cầm bị chết và tiêu hủy
khoảng 100 triệu con, gây thiệt hại khoảng 4000 tỉ đồng.
15
Theo www.nld.com.vn, 3/1/2009
***************
CHẾ PHẨM CHỮA BỆNH TỪ NƢỚC THẢI MUỐI
Công ty CP Muối và Thương mại Thanh Hóa vừa nghiên cứu thành công
quy trình sản xuất Magnesi Carbonat Bazơ (MCB) chất lượng cao từ nước thải
sản xuất muối.
Sau gần một năm tiến hành nghiên cứu, từ nguồn nước thải đồng muối và
nước thải từ các cơ sở chế biến muối, nhóm cán bộ của công ty CP Muối và
Thương mại đã nghiên cứu thành công quy trình sản xuất MCB có chất lượng
cao (15g thể tích chiếm 80 – 180ml), sử dụng được cho sản xuất thuốc chữa
bệnh. Kết quả này ngoài việc tạo ra một sản phẩm chất lượng cao, mở ra hướng
phát triển sản xuất mới và góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Theo Công ty CP Muối và Thương mại Thanh Hóa, trong thời gian tới sẽ
tiến hành sản xuất thử nghiệm trên quy mô lớn để ổn định công nghệ sản xuất,
đưa sản phẩm ra tiêu thụ trên thị trường. Được biết MCB là một chế phẩm được
sử dụng trong một số ngành sản xuất như công nghiệp cao su, sản xuất xà
phòng, kem đánh răng… Chế phẩm này có chất lượng cao sẽ được sử dụng
trong sản xuất dược phẩm (thuốc chữa bệnh). Hiện sản lượng MCB sản xuất
trong nước chưa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường nước ta nên MCB phải
nhập khẩu nhưng với giá cao. Trước đây Công ty CP Muối và Thương mại
Thanh Hóa cũng đã sản xuất được Magnesi Carbonat Bazơ nhưng chất lượng
chưa cao nên chưa sử dụng được trực tiếp cho sản xuất dược phẩm.
Theo Báo Khoa học và đời sống, 18/12/2008
***************
LẦN ĐẦU TIÊN NUÔI CÁ NGỰA GAI SINH SẢN THÀNH CÔNG
Lần đầu tiên, cá ngựa gai (tên khoa học là Hippocampus spinosissimus)
được sinh sản thành công trong phòng thí nghiệm. Đó là kết quả của đề tài Thử
nghiệm sinh sản cá ngựa gai trong phòng thí nghiệm do KS Hồ Thị Hoa, Phòng
Công nghệ Nuôi trồng thuộc Viện Hải dương học - Nha Trang, thực hiện từ
tháng 4 – 10/2008.
KS. Hồ Thị Hoa cho biết, sau khi bắt cá ngựa gai bố mang bầu từ ngoài
biển, nhóm nghiên cứu đưa vào nuôi trong bể kính có độ sâu 0,5 m có sục khí
và cho ăn ruốc đông lạnh hai lần/ngày. Sau tổng cộng 3 đợt cho sinh sản, nhóm
nghiên cứu thu được khoảng 2.000 con cá ngựa con. Cá con mới đẻ được tách
16
riêng, hai tuần đầu được cho ăn động vật phù du. Sau 15 ngày tuổi, cá con được
thuần dưỡng bằng thức ăn đông lạnh. Kết quả, số cá còn sống hơn 1.000 con, tỉ
lệ sống hơn 50%. Đây được xem là tỉ lệ rất cao vì cá ngựa gai rất khó nuôi, khó
kết đôi và khó sinh sản. Thời gian đầu mới nuôi, cá ngựa gai chết rất nhiều.
Thời điểm cá được một tháng tuổi là giai đoạn khó khăn nhất vì cá hay đớp
phải bọt khí khiến cả cơ thể nổi lềnh bềnh trên mặt nước, không lặn sâu xuống
để bắt mồi nên dễ chết vì đói.
KS. Hoa cho biết, nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục nghiên cứu các bước tiếp
theo như tìm cách sản xuất giống, nuôi thương phẩm... để đáp ứng nhu cầu thị
trường và hạn chế việc đánh bắt cá ngoài tự nhiên.
Ở môi trường tự nhiên, cá ngựa gai sống ở những nơi có độ sâu khoảng
10 m, nơi có nhiều rạn san hô. Theo Sách đỏ Việt Nam, giá trị đặc biệt của cá
ngựa gai là có thể dùng làm thuốc quý trong y học, dùng chế thuốc chữa một số
bệnh hiểm nghèo như hen suyễn, liệt dương... Chính vì vậy, một số nước như
Trung Quốc, Nhật Bản nhập khẩu cá ngựa với giá rất cao. Hiện cá ngựa đang là
đối tượng săn bắt để ngâm thuốc và bán ra nước ngoài lén lút nên số lượng cá
ngoài tự nhiên không còn nhiều, đang được đề xuất bảo vệ nguồn gien quý
hiếm và đưa vào loại nguy cấp cần được bảo vệ lâu dài.
Ngoài ý nghĩa về mặt sinh học và y học, cá ngựa gai còn là loài được ưa
chuộng nuôi làm cảnh ở thị trường châu Âu và Mỹ nên có giá trị kinh tế rất cao.
Những con cá ngựa gai có độ dài từ 60 mm-80 mm rất được ưa chuộng. Giá
xuất khẩu cá cỡ này khoảng 18.000 đồng/cặp. Đối với những con lớn hơn, có
chiều dài từ 120 mm trở lên thì giá khoảng trên 100.000 đồng/cặp.
Theo www.nld.com.vn, 17/12/2008
***************
BỂ PHỐT KIỂU MỚI CỦA VIỆT NAM ĐOẠT HUY CHƢƠNG VÀNG
QUỐC TẾ
Nhờ ưu điểm chủ động kết nối, thu gom, xử lý nước thải và chống ô
nhiễm nguồn nước ngầm, sáng chế "Bể phốt kiểu mới" đã đoạt Huy chương
vàng triển lãm sáng tạo quốc tế vừa diễn ra tại Seoul (Hàn Quốc).
Tác giả của bể phốt kiểu mới là KS Hoàng Đức Thảo và các cộng sự tại
Công ty Thoát nước đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ưu điểm của sáng chế này
là: Chủ động kết nối, thu gom, chuyển tải và xử lý nước thải; chống ô nhiễm
ngồn nước ngầm, nước mặt; chống xâm thực, ăn mòn công trình và phát huy
triệt để công xuất các trạm bơm do Nhà nước đầu tư.
Giá thành sản xuất, lắp đặt trọn gói bể phốt kiểu mới rẻ, chỉ bằng 1/3 so
với hầm vệ sinh truyền thống, tuổi thọ công trình cao hơn và khoảng cách hút
17
cặn giữa hai chu kỳ dài gấp đôi, thuận tiện đối với nhà ở đô thị. Công trình này
đã được Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam trao giải Ba Giải
thưởng sáng tạo KH&CN Việt Nam năm 2007 (không có giải Nhì và giải
Nhất).
Giám đốc Quỹ hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (Vifotec) Lê Duy Tiến
cho biết, công trình trên vừa đoạt Huy chương vàng tại triển lãm sáng tạo quốc
tế lần thứ 4 tại Seoul (Hàn Quốc) vào trung tuần tháng 12. Đây là triển lãm quốc
tế lớn và uy tín trên thế giới được tổ chức 2 năm một lần, với gần 500 tổ chức
khoa học, doanh nghiệp của 38 quốc gia trên toàn thế giới tham dự.
Hai năm qua, công trình trên đã được triển khai phục vụ thoát nước tại TP
Vũng Tàu, với hàng trăm bể phốt loại này được lắp đặt. Tại Việt Nam, công
trình thu gom nước thải đầu vào chủ yếu được người dân làm tự phát, chưa đạt
tiêu chuẩn, dẫn tới gây ô nhiễm nguồn nước và phát sinh ổ dịch bệnh truyền
nhiễm. Mỗi khi tiến hành hút cặn phải kéo ống vào trong nhà, đập phá, tháo dỡ
nền khu vệ sinh gây khó khăn, tốn kém và lãng phí.
Theo www.tchdkh.org.vn, 23/12/2008
***************
NHỮNG ĐỘT PHÁ MỚI TRONG
CÔNG NGHỆ SINH HỌC VIỆT NAM NĂM 2008
Năm 2008, công nghệ sinh học Việt Nam có những bước đột phá mới. Nhiều
công trình khoa học được triển khai ứng dụng trong các lĩnh vực nông nghiệp, y
tế, thủy sản... mang lại hiệu quả tích cực. Hệ thống Viện và Trường đại học
ngày càng có nhiều trung tâm nghiên cứu - phát triển, phòng thí nghiệm được
xây dựng với trang thiết bị tiên tiến, hiện đại phục vụ cho công tác nghiên cứu
khoa học. Chúng tôi xin điểm một số thành tựu nổi bật.
1. Từ một số tế bào gốc của sâm Ngọc Linh, bằng công nghệ sinh khối tế
bào, nhóm nghiên cứu của Học viện Quân y đã thành công trong việc nuôi cấy
thành số lượng lớn. Toàn bộ quy trình chỉ mất 10 - 20 ngày, trong khi bình
thường phải mất khoảng sáu năm sâm mới cho thu hoạch. Ðây là công nghệ
nuôi cấy tế bào thực vật trong môi trường và điều kiện nuôi thích hợp. Kết quả
sẽ cho ra khối lượng lớn tế bào chứa hoạt chất từ một hay một nhóm tế bào ban
đầu. Ngoài ưu điểm vượt trội là thời gian từ khi nuôi cấy đến khi cho thu hoạch
rất ngắn, công nghệ này không bị ảnh hưởng bởi thời tiết, dịch bệnh, mùa
màng... Ðặc biệt, chất lượng nguyên liệu ổn định do quá trình nuôi cấy được
kiểm soát chặt chẽ, vì vậy phù hợp với sản xuất thuốc theo tiêu chuẩn GMP.
2. Cá phát sáng do cấy ghép gien đã được tạo ra ở Việt Nam do nhóm
nghiên cứu Phòng Nghiên cứu Tế bào gốc, Ðại học Khoa học Tự nhiên TP Hồ
Chí Minh. Cá phát sáng được tạo ra là cá ngựa vằn, tên tiếng Anh là Zeabra
fish, tên khoa học Danio rerio. Sau khi được chuyển gien, cá đã phát sáng mầu
18
xanh biển đẹp lạ kỳ trong ánh sáng yếu và càng sáng hơn trong bóng tối. Nhóm
nghiên cứu đã sử dụng gien GFP (Green Fluorescent Protein) lấy từ con sứa
biển để chuyển đổi gien của cá ngựa vằn bằng kỹ thuật bắn gien.
Thông qua kỹ thuật bắn gien, các nhà khoa học đã dùng hóa chất
(Plasmid) pTracer - CMV2 để gắn gien vào tế bào gốc phôi cá (trứng cá).
Những con cá ngựa này sau quá trình chuyển gien nói trên trong điều kiện ánh
sáng bình thường có mầu hồng nâu, nhưng khi ánh sáng chuyển mầu huỳnh
quang nhạt, cá sẽ chuyển mầu xanh sáng. Ðặc biệt, cơ thể chúng sẽ phát ánh
sáng xanh huỳnh quang trong bóng đêm. Lứa cá đầu tiên đã cho ra đời lứa con
đầu, cũng có khả năng tự phát sáng. Trong thời gian tới, nhóm sẽ dùng phương
pháp bắn gien của san hô vào cá ngựa vằn để có thể nhìn được ánh sáng của cá
cả ban ngày, trong ánh sáng thường chứ không nhất thiết sáng trong đêm. Từ thí
nghiệm này, cho phép nghĩ tới tính ứng dụng có ý nghĩa thực tiễn trong y, dược,
môi trường và cả công nghệ thẩm mỹ khi tạo những nét mới cho động vật.
3. Lần đầu tiên, các nhà khoa học đã thành công trong việc nhân giống
trong ống nghiệm đối với Thủy tùng Việt Nam - loài cổ thực vật được xem như
hóa thạch sống của ngành Hạt trần. Thủy tùng có tên trong Sách đỏ Việt Nam
và theo công bố của Quỹ Sinh vật hoang dã thế giới (WWF) thì đây là một trong
những loài bị săn lùng ráo riết nhất. Thủy tùng từng được phân bố ở nhiều tỉnh
thành từ bắc đến nam nhưng hiện chỉ còn chưa tới 150 cây tại hai khu vực nhỏ
hẹp ở Trấp K'sor và Ea H'Leo (Ðác Lắc). Ðiều này mở ra cơ hội tồn tại và phát
triển cho loài cây mà Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) cảnh báo bị
đe dọa ở mức rất nguy cấp. Trong suốt 35 năm qua không hề xuất hiện những
cây non tái sinh hạt mà chỉ có một vài cây tái sinh chồi nên nguy cơ tuyệt chủng
là rất cao.
Ðứng trước nguy cơ loài cây cổ bị tuyệt chủng, nhà khoa học Nguyễn
Thành Sum đã hoàn tất đề tài "Nghiên cứu bảo tồn giống Thủy tùng bằng kỹ
thuật nhân giống In- vitro". Vật liệu để nghiên cứu là những mẫu chồi từ cây mẹ
tại cầu Krông Năng (Ðác Lắc). Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu đồng
thời với bốn loại môi trường và sau khi chọn được môi trường nuôi cấy phù hợp
thì bổ sung chất điều hòa sinh trưởng tạo chồi và tiến hành các thí nghiệm tiếp
theo để tạo rễ từ các chồi non. Sau một năm rưỡi dày công tiến hành nhiều thí
nghiệm phức tạp, mầm rễ đầu tiên bắt đầu nhú ra trong sự vui mừng khôn xiết
của các nhà nghiên cứu. Hiện nay, tỷ lệ cây Thủy tùng trong ống nghiệm ra rễ
đã lên tới 60%, tác giả đề tài đang xúc tiến chọn giá thể phù hợp để đưa cây
Thủy tùng từ ống nghiệm ra vườn ươm chăm sóc, sau đó nghiên cứu tiếp các
biện pháp di thực ra môi trường tự nhiên.
4. Trước nguy cơ tuyệt chủng của nhiều loài lan rừng quý tại tỉnh Lâm
Ðồng, Thạc sĩ Nông Văn Duy và một số cán bộ khoa học của Phân viện Sinh
học Ðà Lạt tiến hành thực hiện đề tài khoa học nhằm bảo tồn và phát triển
những loài lan quý tại rừng của tỉnh Lâm Ðồng.
Nhóm nghiên cứu đã xác định 16 loài đặc hữu quý hiếm có nguy cơ tuyệt
chủng cao; sáu loài vừa được phát hiện chưa kịp đặt tên tiếng Việt nhưng có
19
nguy cơ bị xóa sổ như Paphiopedilum Vilosum, Paphiopedilum Delennati...
Ðồng thời, xác định được 70 loài có hoa đẹp, hương thơm, độ bền, giá trị kinh
tế cao và được nhiều người ưa chuộng, trong đó có một số dòng lan hài
(Delenatii, Denro, Vanda...) mà các nhà sưu tầm trên thế giới chưa tìm thấy ở
đâu trừ Việt Nam. Ðể bảo tồn và phát triển những loài lan quý, Phân viện Sinh
học Ðà Lạt đã xây dựng "Bảo tàng sinh vật ngoài trời" để chăm sóc, gìn giữ
mẫu vật sống của gần 200 loài lan; lưu giữ các nguồn gien quý của hoa lan
trong ống nghiệm để làm nguyên liệu nuôi cấy ban đầu của các loài đặc hữu
như Bạch lan, Thanh đạm, Tuyết ngọc, Bò cạp, Thủy tiên tua, Thủy tiên mỡ gà.
Ðặc biệt, nhóm nghiên cứu đã nhân giống thành công lan hài hồng (môi hài mầu
hồng đậm, cánh hoa và đài mầu hồng nhạt, lá xanh thẫm có vết rằn ri đậm nhạt)
được phát hiện ở khu rừng giáp ranh hai tỉnh Lâm Ðồng và Khánh Hòa. Ðây là
loài lan hài duy nhất trên thế giới có hương thơm, được tổ chức Bảo vệ động,
thực vật hoang dã thế giới đưa vào danh mục cần bảo vệ nghiêm ngặt.
5. Trung tâm quốc gia Giống thủy sản nước ngọt Nam Bộ đã lai tạo thành
công loài cá hô, có trong Sách Ðỏ thế giới, còn Việt Nam thì xếp vào loài "có
nguy cơ tuyệt chủng". Cá hô là loài cá thuộc họ cá chép nhưng to hơn, từ năm
đến sáu tuổi mới trưởng thành và nặng trung bình gần 10 kg. Ở môi trường tự
nhiên, cá nặng 20 kg trở lên. Tuy nhiên, 10 năm trở lại đây, loài cá này gần như
biến mất, thi thoảng mới có người bắt được một con nhỏ bằng ngón tay.
Sau ba năm sưu tầm, lai tạo, thuần chủng cá, đến nay, Trung tâm đang
nuôi giữ 40 con cá hô trưởng thành và đã lai tạo thành công thế hệ cá F1. Trung
tâm cũng đã lai tạo thành công gần 10 nghìn con cá hô bột được gửi nuôi tại các
hộ ở Ðồng Nai và cá đang phát triển tốt. Nếu việc thả nuôi thành công, Trung
tâm sẽ nhân giống và cung cấp đại trà giống cá này cho người nuôi và chương
trình sẽ thành công ngoài mong đợi.
6. Trung tâm Hạt nhân TP Hồ Chí Minh (Viện Năng lượng nguyên tử
Việt Nam) vừa nhân thành công giống lúa thơm đột biến Basmati bằng phương
pháp chiếu xạ. Ðây là loại giống rất thích hợp với các loại đất bị nhiễm phèn,
mặn của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo các nhà nghiên cứu, giống lúa
đột biến Basmati có nhiều ưu điểm: rút ngắn thời gian canh tác; chất lượng
thơm ngon (hàm lượng amylose - chất tạo tinh bột là từ 19 đến 21%, quá lý
tưởng cho giống lúa thơm); thời gian sinh trưởng chỉ còn 90 ngày; có thể thâm
canh ba vụ hoặc hai vụ lúa, một vụ màu; chiều cao của cây là 90 - 95cm; hạt dài
thon, đẹp; năng suất tăng gấp 2 - 2,5 lần so với giống gốc Basmati của Pa-ki-
xtan, một giống lúa nổi tiếng trên thị trường quốc tế, có năng suất 2 - 3 tấn/ha,
thường chỉ gieo một vụ/năm, cây cao khoảng 1,5 - 1,6m và thời gian sinh
trưởng là 140 - 150 ngày. Thành công này đã mở ra triển vọng cho việc nhân
rộng trên vùng đất nhiễm phèn, nhiễm mặn ở đồng bằng sông Cửu Long.
Theo www.nhandan.com.vn, 26/12/2008
20