Quan điểm và cuộc sống
Tôi tên Nguyễn Hộ, sanh ngày 01 tháng 5 năm 1916 (77 tuổi), tại xã Hạnh Thông (tức
phường 10), quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Lúc còn nhỏ, tôi chỉ học hết cấp 2 (sơ
học yếu lược) thời Pháp thuộc năm 1933. Vì gia đình nghèo, tôi không thể tiếp tục đến trường
mà phải đi học nghề, làm thợ tại xưởng đóng tàu Ba Son (1935) vào lúc 19 tuổi. Tại đây từ
năm 1936 (20 tuổi), tôi bắt đầu tham gia cách mạng, tham gia phong trào đấu tranh dân sinh
dân chủ và được...
Quan Điểm và Cuộc Sống
Nguyễn Hộ
Mấy lời của tác giả
Tôi tên Nguyễn Hộ, sanh ngày 01 tháng 5 năm 1916 (77 tuổi), tại xã Hạnh Thông (tức
phường 10), quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Lúc còn nhỏ, tôi chỉ học hết cấp 2 (sơ
học yếu lược) thời Pháp thuộc năm 1933. Vì gia đình nghèo, tôi không thể tiếp tục đến trường
mà phải đi học nghề, làm thợ tại xưởng đóng tàu Ba Son (1935) vào lúc 19 tuổi. Tại đây từ
năm 1936 (20 tuổi), tôi bắt đầu tham gia cách mạng, tham gia phong trào đấu tranh dân sinh
dân chủ và được kết nạp vào đảng cộng sản Đông Dương (tức đảng cộng sản Việt Nam sau
nầy) năm 1937 (tức 21 tuổi). Sau 5 năm hoạt động, tôi bị bắt vào tháng 4 năm 1940 trên
đường đi vào nhà máy và bị tù 5 năm ở Côn Đảo. Đến cuối năm 1945, tôi được cách mạng
tháng 8 giải phóng về và tiếp tục hoạt động đến sau nầy. Suốt quá trình cách mạng ấy tôi đã
kinh qua các trách nhiệm như sau:
a/ Thời kỳ đấu tranh dân sinh dân chủ (1936-1940).
• Chi ủy chi bộ Ba Son (đảng cộng sản Đông Dương)
• Bị tù đày ở Côn Đảo (1940-1945).
b/ Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
• Phó thư ký kiêm bí thư đảng đoàn liên hiệp công đoàn Nam Bộ, phụ trách công đoàn
Sài Gòn - Chợ Lớn.
• Ủy viên ban kháng chiến hành chánh đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, phụ trách dân quân;
Trưởng ban dân quân Sài Gòn - Chợ Lớn.
• Thành đội trưởng dân quân Sài Gòn - Chợ Lớn.
• Phụ trách thành đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn (cuối năm 1948 đến cuối năm 1950),
kiêm phó chủ tịch ủy ban hành chánh Sài Gòn - Chợ Lớn.
• Ủy viên thường vụ đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, phụ trách cán sự 2 đặc khu, kiêm
phó chủ tịch ủy ban hành chánh Sài Gòn - Chợ Lớn, kiêm chỉ huy phó ban chỉ huy
quân sự đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn (cuối năm 1950 đến cuối năm 1952).
• Đau nặng, nằm bệnh viện (cuối năm 1952 đến cuối năm 1954).
c/ Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (lúc đất nước chia cắt hai miền Nam Bắc).
• Ra Bắc, đau nặng, nằm bệnh viện (1955-1956).
• Ủy viên ban chấp hành, ban thường vụ tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1957-
1960).
• Ủy viên ban thơ ký, ủy viên đoàn chủ tịch tổng công đoàn Việt Nam: đảng đoàn tổng
công nhân Việt Nam (1961-1963).
d/ Về miền Nam công tác (1964-1975)
• Ủy viên thường vụ khu ủy Sài Gòn - Gia Định (T4) phụ trách dân vận, công vận, hoa
vận.
e/ Thời kỳ sau 30/04/75 trở đi (1975-1987)
• Ủy viên thường vụ thành ủy thành phố Hồ Chí Minh phụ trách dân vận.
• Chủ tịch liên hiệp công đoàn thành phố Hồ Chí Minh kiêm phó chủ tịch tổng công
đoàn Việt Nam.
• Chủ tịch mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh kiêm ủy viên đoàn chủ
tịch ủy ban trung ương mặt trận Tổ Quốc Việt Nam.
• Chủ tịch hội Việt - Xô hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh kiêm phó chủ tịch ban chấp
hành trung ương hội Việt-Xô hữu nghị.
• Chủ tịch ủy ban đoàn kết và hữu nghị với nhân dân thế giới thành phố Hồ Chí Minh.
• Chủ tịch ban thiếu niên nhi đồng thành phố Hồ Chí Minh.
• Trưởng ban vận động đồng bào thành phố Hồ Chí Minh ủng hộ xây dựng công trình
thuỷ điện Trị An, xây dựng con đường Nhà Bè - Duyên Hải và xây dựng kinh Đông -
Củ Chi.
• Giữa năm 1987, tôi được cơ quan cho nghĩ hưu lúc tôi 71 tuổi.
Liền sau đó Câu lạc bộ kháng chiến thành phố ra đời. Tôi tham gia hoạt động với tư cách Chủ
nhiệm câu lạc bộ. Kể ra, ngay từ đầu, anh em kháng chiến thiết tha xin lập hội những người
kháng chiến thì bị thành ủy và UBND thành phố từ chối và chỉ cho phép thành lập Câu lạc bộ
những người kháng chiến mà thôi, mặc dù điều 67 của hiến pháp còn ghi rành rành các quyền
tự do của công dân: tự do hội họp, tự do lập hội....Tất nhiên, tổ chức hội và tổ chức Câu lạc bộ
có thực sự khác nhau về nội dung, quyền hạn và phạm vi hoạt động. Tuy vậy, dựa vào nội
dung quyết định của ủy ban nhân dân thành phố về nhiệm vụ, quyền hạn của Câu lạc bộ
kháng chiến:
• Tập họp những người kháng chiến trong hai thời kỳ (chống Pháp và chống Mỹ) nhằm
phát huy truyền thống yêu nước trong nhân dân ta.
• Đóng góp vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam
XHCN.
• Đoàn kết tương trợ giúp đở lẫn nhau trong cuộc sống.
Những người tham gia câu lạc bộ kháng chiến đã tiến hành hoạt động bằng các hình thức: hội
thảo, mít tinh, kiến nghị, viết báo, ra báo nhằm các mục tiêu cụ thể chống tiêu cực, quan liêu,
cửa quyền, ức hiếp trù dập quần chúng, tham nhũng, bè phái, bao che lẫn nhau vì đặc quyền,
đặc lợi trong hàng ngũ cán bộ đảng và nhà nước, ngoài ra xây dựng tổ chức, phát triển hội
viên, thực hiện đoàn kết tương trợ, thăm hỏi chăm sóc gia đình kháng chiến, thương binh liệt
sĩ.
Với tinh thần đấu tranh chống trì trệ, tiêu cực nói trên, câu lạc bộ kháng chiến thành phố đã
kiến nghị:
• Bộ chính trị và Ban bí thư trung ương đảng cần có sự kiểm điểm định kỳ, phê tự phê
về sự lãnh đạo của mình trước ban chấp hành trung ương để qua đó điều chỉnh, kiện
toàn cơ quan lãnh đạo: ai có đủ đức, tài thì tiếp tục phát huy, còn ai không đủ đức, tài
thì cần cho rút lui để đưa người có đức có tài thay thế, chứ không thể cứ "sống lâu lên
lão làng".
• Không nên 'độc diễn' khi quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (1988) mà nên có
một số người ra ứng cử chức vụ nói trên với chương trình hành động cụ thể của mình.
Quốc hội sẽ chọn một chủ tịch hội đồng bộ trưởng trong số các ứng viên ấy bằng lá
phiếu kín của mình.
• Quốc hội cần cách chức một số bộ, thứ trưởng có liên quan không làm tròn trách
nhiệm, dẫn đến hậu quả là có trên 10 triệu người ở miền Bắc bị đói năm 1987, và nhân
dân cả nước sống cơ cực kéo dài...
Thế nhưng đối với lãnh đạo (đảng và nhà nước) các cuộc đấu tranh bằng hình thức nói trên
của câu lạc bộ kháng chiến thành phố là một sự đe dọa. Do đó, lãnh đạo đã tìm mọi cách hạn
chế, ngăn chặn các hoạt động của câu lạc bộ như: không cho hội thảo, mít tinh hoặc có hội
thảo, mít tinh nhưng số người dự ít thôi; tịch thu ấn bản để câu lạc bộ không ra báo được.
Trước khó khăn đó, với tinh thần bám chặt các quyền tự do dân chủ của công dân đã ghi rõ
trong hiến pháp như: tự do ngôn luận, tự do báo chí... anh em câu lạc bộ phải cấp tốc đem bài
vở chạy xuống Mỹ Tho - Tiền Giang để nhờ giúp đở. Tại đây, anh em địa phương rất nhiệt
tình, hì hục suốt ngày đêm làm xong ấn bản lần thứ hai thì lại được lệnh của ban tuyên huấn
tỉnh uỷ là không được in báo cho câu lạc bộ kháng chiến thành phố. Thế là anh em câu lạc bộ
phải chạy xuống Cần Thơ - Hậu Giang cầu cứu với ấn bản có sẳn. Nhờ sự thông cảm và tận
tình của anh em địa phương, chỉ trong vài ngày, 20 ngàn tờ báo 'truyền thống kháng chiến' đã
được in ra. Sở văn hóa thông tin ra lệnh tịch thu tờ báo số 03 nầy đang được phát hành và sau
cùng cơ quan chính quyền đóng của vĩnh viễn báo 'truyền thống kháng chiến'. Tờ báo được
nhiều cảm tình của đông đảo bạn đọc luôn luôn chờ đón.
Ngay lúc ấy, trung ương đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
và bí thư thành uỷ Võ Trần Chí cùng nhiều cán bộ khác kể cả Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng
đã họp bàn kế hoạch tỉ mỉ nhằm đàn áp câu lạc bộ kháng chiến thành phố và nhiều nơi khác.
Ý kiến phát biểu, lên án, buộc tội câu lạc bộ kháng chiến thành phố của Trần Văn Trà, Trần
Bạch Đằng trong cuộc họp nói trên được in ra và phát hành khắp cả nước. Thế là, liền sau đó
CLBKC/TP bị cấm hoạt động. Một câu lạc bộ kháng chiến mới với ban chủ nhiệm mới - như
một thứ 'kiểng' trang trí, hình thành nhằm vô hiệu hóa, tê liệt hóa phong trào đấu tranh chống
tiêu cực, suy thóai trong hàng ngũ đảng và nhà nước vừa mới dâng lên và cũng nhằm củng cố
chế độ độc tài, phản dân chủ.
Trước không khí ngột ngạt ấy, tôi đã quyết định rời bỏ thành phố về sống ở nông thôn để tiếp
tục cuộc đấu tranh vì dân chủ tự do, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân đến hơi thở cuối cùng.
Ngày 21/03/1990, tôi rời khỏi Sài Gòn cũng là ngày tôi ly khai đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng mà sau 54 năm đeo đuổi cách mạng (với tư cách đảng viên) của tôi, nay đã trở thành vô
nghĩa. Sau cái ngày đáng ghi nhớ ấy khoảng hơn một tháng, một số anh em CLBKC/TP gồm:
Tạ Bá Tòng (Tám Cần), Hồ Văn Hiếu (Hồ Hiếu), Đổ Trung Hiếu (Mười Anh) bị bắt, cả Lê
Đình Mạnh - người ủng hộ tích cực CLBKCTP cũng bị bắt sau đó.
Vào cuối tháng 08/90, Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt đi gặp tôi ở vùng Phú
Giáo - miền Đông Nam Bộ, cách Sài Gòn khoảng 60 cây số, tại cái chòi sản suất của nông
dân. Ông Kiệt hỏi tôi: "Thế nầy là sao? ". Tôi trả lời: "Thành phố ngột ngạt quá, tôi về nông
thôn ở cho khỏe". Ông Kiệt nói: "Anh cứ về thành phố ai làm gì anh". Tôi đáp: "Rất tiếc, phải
chi anh gặp tôi sớm hơn độ hai tháng thì tốt quá, tôi trở về thành phố ngay. Còn bây giờ thì đã
muộn rồi, bởi vì dưới sự lãnh đạo của trung ương ĐCSVN lúc bấy giờ đứng đầu là Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh cùng các ông: Mai Chí Thọ, Võ Trần Chí, Trần Trọng Tân, Trần Văn
Trà, Trần Bạch Đằng... cả nước được chỉ đạo, phổ biến rằng tôi (Nguyễn Hộ) là tên phản
động, gián điệp, móc nối với CIA, nối giáo cho giặc, tiếp tay báo chí nước ngoài tuyên truyền
chống đảng, chống nhà nước. Lập tổ chức quần chúng (CLBKCTP) chống đảng, lật đổ chính
quyền, ăn tiền của Mỹ, chủ trương đa nguyên, đa đảng nhằm lật đổ đảng cộng sản Việt Nam.
Tất cả sự quy chụp ấy nói lên rằng đảng cộng sản Việt Nam đã đạp tôi xuống tận bùn đen,
chôn vùi cả cuộc đời cách mạng của tôi trong nhơ nhuốc để tôi không làm sao ngóc đầu dậy
được. Tình hình như vậy tôi trở về thành phố làm gì trừ khi đất nước Việt Nam có dân chủ tự
do thật sự. Do đó tôi quyết sống ở thôn quê cho đến ngày cuối cùng của đời tôi."
Cuộc gặp gỡ giữa tôi và ông Kiệt diễn ra từ 7 giờ 30 phút sáng đến 11 giờ trưa thì kết thúc và
chia tay. Được biết là từ sau lần gặp gỡ đó, ông Kiệt tỏ ra phấn khởi và nhắn muốn gặp tôi lần
thứ hai ở một địa điễm nào đó gần Sài Gòn để tiện việc đi lại. Khi được tin nầy, tôi có viết thư
trả lời cho ông Kiệt rằng cuộc gặp gở lần thứ hai không cần thiết.
Sau đó, khoảng nửa tháng thì tôi bị bắt (07/09/90) trên sông Sài Gòn vào lúc 7 giờ sáng khi
tôi bơi xuồng vừa cặp vào bờ, định bước lên vào đám ruộng cạnh đó để hái rau má, rau đắng
về ăn. Đúng vào thời điểm ấy, một chiếc ghe lớn đang chạy trên sông lại cặp sát xuồng tôi,
trong đó có 6-7 thanh niên khỏe mạnh. Bỗng có tiếng hỏi to:"Bác ơi! bác có thấy một chiếc
ghe nhỏ chạy ngang qua đây không?" "Không!" tôi trả lời. Liền đó có tiếng hét to: "Đúng nó
rồi!".
Lúc bấy giờ, tôi mới biết là ghe của công an và nghe tiếng súng lên cò rốp rốp. Tức thời có
hai công an cường tráng, tay cầm súng đã nạp đạn nhảy xuống mũi xuồng nơi tôi đang đứng.
Tôi bình tĩnh hỏi:"Mấy chú muốn gì?". "Muốn gì về sở thì biết" tiếng trả lời xấc xược của một
công an. Hai công an đồng loạt nắm tay tôi, kéo mạnh ra phía sau rồi còng ngay. Họ điều
động tôi sát chiếc ghe lớn có tấm ván dài bắt từ mũi ghe xuống đáy. Họ xô mạnh tôi chúi mũi
và tuột xuống đáy ghe. Ghe nổ máy chạy dọc con sông lên hướng Tây Bắc độ 15 phút thì rẽ
vào rạch nhỏ đi sâu đến bến. Tại đây có chiếc xe hơi nhỏ đậu sẳn. Tôi được điều lên xe và đổi
còng từ phía sau ra phía trước, với bộ y phục: quần xà lỏn đen và cái áo đen ngắn tay đã
xuống màu, hai bên có hai công an ngồi sát và một công an khác ngồi phía trước. Sau nửa giờ
xe chạy thì đến nơi. Người ta đưa tôi vào một nhà lá trống trãi, không có cửa. Tôi được ngồi
nghỉ trên cái gường gỗ nhỏ có trải chiếc chiếu cũ. Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra rằng chính lực
lượng công an huyện Củ Chi đã săn bắt tôi (tất nhiên theo lệnh của sở công an thành phố và
Bộ nội vụ).
Củ Chi tôi rất quen thuộc và thân thiết - đã gợi lên trong đầu óc tôi biết bao cảm nghĩ: Củ Chi
địa đạo, bom đìa, pháo bầy, Củ Chi tan nát, anh dũng, chịu đựng, gian khổ, hy sinh, nước mắt
đau thương xen lẫn với nụ cười chiến thắng mà bản thân tôi trong một số năm chia xẻ đắng
cay, ngọt bùi cùng đồng bào Củ Chi trong cuộc chiến tranh không cân xứng, vô cùng ác liệt
giữa Mỹ và Việt Nam; hoặc nó gợi nhớ cho tôi bao nhiêu những kỷ niệm tốt đẹp trong hoà
bình (1975-1989): đi thăm và uỷ lạo anh em thanh niên xung phong đang lao động xây dựng
công trình thuỷ lợi Kênh Đông Củ Chi để đưa nước từ hồ Dầu Tiếng về tưới cho hàng ngàn
héc ta ruộng lâu nay thiếu nước của huyện; đi thăm và uỷ lạo các gia đình có công với cách
mạng, gia đình thương binh liệt sĩ trong những ngày kỷ niệm lịch sử; hoặc đi thăm và tặng
quà cho các thiếu nhi, học sinh nghèo của huyện; đi dự lễ trao tặng nhà tình nghĩa của ban,
ngành, đoàn thể, cơ sở kinh doanh, sản suất cho gia đình đối tượng chính sách trong huyện.
Ôi! Ý nghĩ sao mà miên man.
Đúng 4 giờ rưỡi chiều hôm đó, tôi được đưa lên ô tô để về Sài Gòn. Trước và sau xe tôi còn
có mấy xe khác đầy nhân viên công an. Khi đèn đường thành phố rực sáng thì xe tôi đến cơ
quan Bộ nội vụ (tức Tổng Nha Cảnh Sát cũ trước đây). Tôi ngồi ở cơ quan nội vụ hơn 1 giờ
thì được đưa thẳng lên Xuân Lộc (Đồng Nai), có nhiều xe công an hộ tống. Hơn 10 giờ đêm
thì tới Xuân Lộc, tôi được đưa đến một nhà trống (nhà tròn) của k4 với một bán đội công an
võ trang đầy đủ. Được một tuần, người ta đưa tôi trở về thành phố quản thúc tại Bình Triệu, ở
một địa điểm đối diện với cư xá Thanh Đa. Sau hơn bốn tháng sống biệt lập luôn luôn có một
tiểu đội công an canh giữ, tôi được đưa về quản thúc tại gia vào đúng ngày 30 tết nguyên đán
(đần năm 1991) từ đó về sau nầy. Khi gặp tôi tại 3 địa điểm nói trên, các ông: Võ Văn Kiệt
(Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng), Mai Chí Thọ (Bộ trưởng bộ nội vụ), Võ Trần Chí (Bí thư
thanh uỷ), Võ Viết Thanh (Thứ trưởng bộ nội vụ), Nguyễn Võ Danh (Phó bí thư thành uỷ),
Trần Văn Thanh (Thành uỷ viên) ... đều bảo tôi phải làm kiểm điểm (để qua đó lãnh đạo sẽ
xem xét và giải quyết vấn đề của tôi theo cách giải quyết nội bộ). Nhưng tôi nghĩ: tôi không
có tội lỗi gì trong hành động của mình - hoạt động câu lạc bộ kháng chiến, không lẽ đấu tranh
chống tiêu cực (theo chủ trương, nghị quyết của ĐCSVN): chống tham nhũng, chống quan
liêu cửa quyền, ức hiếp, trù dập, hãm hại quần chúng; chống tư tưởng bè phái, bao che cho
nhau, những người đã gây biết bao tác hại cho nhân dân, đất nước, không đức, không tài mà
cứ ngồi lì ở cương vị lãnh đạo; đấu tranh chống tiêu cực, suy thoái như vậy là hành động phản
cách mạng, phản động, nối giáo cho giặc sao? Do đó, tôi không làm kiểm điểm mà chỉ phát
biểu quan điểm của mình về tình hình chung trong nước và sự lãnh đạo của đảng cộng sản
Việt Nam. (trên 20 trang)
Kiểm điểm là mang tính chất nội bộ. Còn đây là việc hoàn toàn khác hẳn: người ta chỉa súng
vào tôi, bắt còng tôi, đem giam và quản thúc. Như vậy, vấn đề đã đi quá xa, còn đâu là nội bộ
nữa, vì tôi bị coi là kẻ thù của ĐCSVN rồi kia mà. Cho nên điều chủ yếu của tôi là chờ được
đưa ra tòa xét xử, xem tôi đã phạm tội gì, nặng cỡ nào với những chứng cớ chính xác của nó.
Khi tôi bị bắt không hề có lệnh của tòa án hay Viện kiểm sát. Hơn nữa, đã trên 2 năm bị quản
thúc, vấn đề của tôi chưa được phơi bày trước ánh sáng công lý. Điều đó cho thấy ở Việt Nam
hiến pháp, luật pháp bị chà đạp cở nào.
Câu lạc bộ kháng chiến thành phố bị đàn áp, tôi bị bắt cũng như một số anh em khác trước đó.
Chúng tôi được nếm mùi còng sắt của ĐCSVN - cũng giống như còng sắt của đế quốc ngày
xưa - rồi bị giam, bị quản thúc, trở thành người hoàn toàn mất tự do, cách ly với thế giới bên
ngoài. Đó là điều bất hạnh.
Tuy nhiên, vì tôi đã ly khai ĐCSVN lúc tôi rời thành phố về sống ở nông thôn (21/03/90), nên
hơn lúc nào hết, về tinh thần và tư tưởng, tôi thấy mình hoàn toàn tự do, hoàn toàn được giải
phóng. Bây giờ, trên đầu tôi không còn bị kẹp chặt bởi cái "kềm sắt" của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, của đảng cộng sản nữa. Do đó, nó cho phép tôi dám nhìn thẳng vào sự thật và dám chỉ ra
sự thật, đặc biệt trong tình hình sụp đổ của Đông Ấu và sự tan rã của Liên Xô. Khác với trước
đây, khi còn là đảng viên của đảng cộng sản Việt Nam - một thứ tù binh của đảng - tôi chỉ biết
nói và suy nghĩ theo những gì mà cấp trên nói và suy nghĩ. Còn hiện nay, tôi suy nghĩ rất
thoải mái, không bị một sự hạn chế nào khi tư tưởng của tôi đã thực sự được giải phóng - tư
tưởng đã bay bỗng. Bởi vậy, tôi tự phát hiện cho mình nhiều điều lý thú mà bạn đọc sẽ có dịp
tìm thấy trong bài viết nầy của tôi.
Tôi làm cách mạng trên 56 năm, gia đình tôi có 2 liệt sĩ: Nguyễn Văn Đảo (anh ruột) - Đại tá
quân đội nhân dân Việt Nam - hy sinh ngày 09/01/66 trong trận ném bom tấn công đầu tiên
của quân xâm lược Mỹ vào Việt Nam (vào Cũ Chi); Trần Thị Thiệt (vợ tôi) - cán bộ phụ nữ
Sài Gòn - bị bắt và bị đánh chết tại Tổng Nha Cảnh Sát hồi tết Mậu Thân (1968), nhưng phải
thú nhận rằng, chúng tôi đã chọn sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt hơn 60 năm
trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá lớn lao,
nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no
hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục.
Giữa tôi và bài viết của tôi là một thể thống nhất dựa trên nền tảng của cuộc cách mạng "lột
xác" đã diễn ra trong đầu óc tôi. Vậy xin mời bạn hãy đọc tiếp. Cám ơn.
Nguyễn Hộ
Quan Điểm và Cuộc Sống - Phần 1
A. Trái Đất Đảo Lộn.
Chịu sự tác động của công cuộc cải tổ toàn diện đất nước Xô Viết vĩ đại bắt đầu từ tháng 04
năm 1985, thế giới đã bước vào một thời kỳ chuyển động khác thường, có thể nói là "chóng
mặt" và vô cùng phức tạp.
Phải thừa nhận rằng trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô (cũ), dân chủ - công khai là động lực
mang tính chất áp đảo đã tạo ra những chuyển biến có tầm vóc quốc tế đáng kinh ngạc.
Những hiện tượng nổi bật của nó là :
- Cuộc đấu tranh đồng loạt cho dân chủ - tự do, chống chuyên chế độc tài, chống tham nhũng,
đòi thành lập một nhà nước pháp quyền của hàng triệu sinh viên, học sinh, trí thức và các tầng
lớp nhân dân thủ đô Bắc Kinh cùng với các thành phố khác của Trung Quốc hồi tháng 05 đã
bị tàn sát đẩm máu tại Thiên An Môn và bị dập tắt ngay sáng ngày 04 tháng 06 năm 1989.
- Trận cuồng phong dân chủ - công khai ở Liên Xô (cũ) tràn vào Đông Ấu đã xoáy mạnh và
làm tan rã các nước xã hội chủ nghĩa ở khu vực này kể từ tháng 10 năm 1989. Các đảng Mác-
Xít cầm quyền bị sụp đổ, các lãnh tụ bị bắt, đưa ra tòa xét xử hoặc bị giết: Honecker (Cộng
Hòa Dân Chủ Đức), Tô-to-gíp-cốp (Bungari), Ceaucescou (Rumani), bức tường Bá Linh cắt
đôi nước Đức suốt mấy mươi năm đã bị đạp bằng, Đông Đức sát nhập vào Tây Đức thành
nước Đức thống nhất.
- Khối Vác-sa-va (Khối quân sự các nước xã hội chủ nghĩa Đông Ấu kể cả Liên Xô cũ) và hội
đồng tương trợ kinh tế Châu Ấu (tổ chức kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa) đều giải thể
(1990-1991).
- Theo sự cam kết của chính phủ Liên Xô (cải tổ) là không can thiệp vào công việc nội bộ của
các nước, hồng quân Liên Xô lần lược rút khỏi các nước Đông Ấu (từ năm 1990 trở đi) sau 45
năm chiếm đóng các nước này.
- Do sức ép mạnh mẽ của phong trào dân chủ, đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô (1990) đã
thông qua quyết định hủy bỏ điều 6 của hiến pháp Liên Xô (cũ) về vai trò độc quyền lãnh đạo
của đảng cộng sản Liên Xô đối với đất nước Xô Viết hơn 70 năm trước đó.
- Cuộc đảo chánh nhằm lật đổ Tổng Thống Liên Xô M.Gorbachov của lực lượng bảo thủ
chống cải tổ trong đảng cộng sản và nhà nước Liên Xô (cũ) nổ ra ngày 19/08/1991, song nó
đã thất bại ngay sau đó (21/08/1991) bởi chiến thắng ngoan cường của của lực lượng dân chủ
Mockba và Lê-nin-grát.
- Đảo chánh bị thất bại, M.Gorbachov trở lại vị trí Tổng Thống của mình (21/08/1991), sau đó
tuyên bố từ chức Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô và yêu cầu Uỷ ban trung ương đảng nên
tự giải thể, đồng thời Tổng Thống Liên Xô đã ký sắc lệnh buộc đảng cộng sản Liên Xô ngưng
hoạt động. Ở một số nước Cộng Hòa, đảng cộng sản bị cấm hoạt động (Cộng Hòa Liên Bang
Nga), có nơi đảng cộng sản đã giải thể hoặc đổi tên khác để tiếp tục hoạt động.
- Chủ nghĩa dân tộc cực đoan bộc phát dữ dội, chưa từng thấy ở các nước Cộng Hòa thuộc
Liên Xô (cũ): tuyên bố độc lập và ly khai với Mockba (Liên Bang Xô Viết) đã làm rung
chuyển đến cội rễ bộ máy nhà nước Liên Xô, cắt xén và làm suy yếu nó một cách nghiêm
trọng đến độ nó chỉ còn là một Liên Bang lỏng lẻo, tự do và rất yếu đuối.
Tuy nhiên sự kiện làm chấn động dư luận thế giới là "cộng đồng các quốc gia độc lập" gồm 3
nước : CHLB Nga, U-cơ-ren-na Bê-la-rút ra đời (08/12/1991) đã thu hút hầu hết các nước
Cộng Hòa thuộc Liên Xô (cũ) còn lại than gia vào cộng đồng nói trên.
Mặc dù, M.Gorbachov thấy rõ trách nhiệm nặng nề của mình là phải đưa đất nước Liên Xô
vượt qua thảm họa của cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng, sắc tộc, thậm chí đang có nguy cơ đảo chánh, nội chiến với quyết tâm kiên
trì chủ trương ký kết hiệp ước Liên Bang mới (Liên Bang lỏng lẻo, tự do), nhưng tất cả tình
hình diễn biến dồn dập, đột ngột, nhanh chóng kể trên đã tạo nên sức ép nặng nề đến độ buộc
M.Gorbachov phải tuyên bố từ chức Tổng Thống Liên Xô đêm 25/12/1991 khi ông phát biểu
ý kiến với nhân dân Liên Xô trên đài truyền hình Mockba về tổ chức "cộng đồng các quốc gia
độc lập".
Thế là Liên Bang Xô Viết chấm dứt tồn tại và Tổng Thống Liên Xô M.Gorbachov cũng
không còn, đi liền với sự ra đời của 15 nước Cộng Hòa độc lập, tự do trên mãnh đất Xô Viết
cũ- 15 thành viên của Liên Hiệp Quốc.
Vì vậy nhiều câu hỏi đã được đặt ra: "thế giới sẽ đi về đâu ? Chuyển động theo xu thế nào ?
Trước đây hùng mạnh như Phát Xít Hitler mà không làm gì nổi Liên Xô, còn ngày nay tại
Liên Bang Xô Viết và đảng cộng sản Liên Xô lại dễ dàng tan rã như vậy ?".
Đúng! Chỉ trong mấy năm gần đây (1989-1991), thế giới biến đổi kỳ lạ và chưa từng có trong
lịch sử. Sau năm 1945, cuộc chiến tranh lạnh với trên 40 năm tồn tại đã không ngừng thúc đẩy
nhịp độ căng thẳng trên thế giới giữa Đông (xã hội chủ nghĩa) và Tây (TBCN) đến bờ vực
thẳm của cuộc chiến tranh nóng thật sự, với qui mô toàn cầu đã vĩnh viễn chấm dứt (1990-
1991), mở ra một kỷ nguyên mới trong xã hội loài người- chuyển đối đầu sang đối thoại, hợp
tác, hòa bình, dân chủ và phát triển.
Loài người đã thở phào nhẹ nhõm vì đã vượt qua được cơn ác mộng triền miên nguy cơ chiến
tranh thế giới thứ 3, chiến tranh hạt nhân hủy diệt, chiến tranh không có kẻ thắng người bại
khi nó kết thúc chỉ có loài người (người nghèo khổ, vua chúa, quan lại, triệu phú, tỉ phú, quân
đội, tướng lĩnh, công nhân, tư sản, người có đạo hay không có đạo...) sẽ bị tiêu diệt sạch sành
sanh trên trái đất.
Hãy nghe Tướng Colin Powell - Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ- khi
đến thăm Liên Xô (cũ) hồi tháng 7 năm 1991 đã tuyên bố tại Mockba rằng: "Trong điều kiện
có hiệp ước Start- ký kết giữa Liên Xô và Mỹ trước đó: hai bên cam kết cắt giảm 30% vũ khí
hạt nhân chiến lược- Liên Xô vẫn có khả năng tiêu diệt nước Mỹ chúng tôi trong vòng 30
phút" (Liên Xô cũ có tất cả 11.000 vũ khí hạt nhân chiến lược được bố trí ở mọi hướng, nhắm
thẳng vào mọi kẻ thù của mình và trong tư thế sẵn sàng tiêu diệt chúng) và ngược lại, với sự
cân bằng chiến lược cân bằng lực lượng quân sự giữa đôi bên (Liên Xô - Mỹ), Mỹ cũng có đủ
khả năng tiêu diệt Liên Xô và đồng minh của Liên Xô (các nước xã hội chủ nghĩa) trong vòng
30 phút. Cho nên mọi chiến tranh thế giới 3- chiến tranh hạt nhân huỷ diệt- nổ ra và kết thúc
sẽ không có kẻ thắng người bại như mọi cuộc chiến tranh thông thường khác là trong ý nghĩa
khủng khiếp đó.
Mặc dù thế giới vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp sau khi Liên Xô (cũ) tan rã: xung đột võ trang,
chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, phe phái đối nghịch nhau giành quyền lãnh đạo (ở Nam Tư cũ,
giữa A-déc-bai-gian và Ác-mê-ni, ở Gờ-ruđi-a, ở Ác-ga-ni-xtan, Ắ-gô-la, Xô-ma-li...v...v..),
cả sự nổi dậy của bọn tân phát xít ở Đức, Ý, Tây Ban Nha... vẫn không thể làm đảo ngược
được xu thế lớn, dòng chảy của thời đại: đối thoại hợp tác, hòa bình, dân chủ và phát triển. Cụ
thể là trong thời gian xảy ra những cuộc xung đột kéo dài nói trên, Trung Quốc với dân số 1
tỷ người, từng giành thắng lợi lớn trong 14 năm cải cách kinh tế và mở cửa, đã tích cực đẩy
mạnh hoạt động ngoại giao nhằm tạo ra một môi trường thế giới thuận lợi cho yêu cầu phát
triển toàn diện đất nước Trung Hoa- đất nước có vị trí, vai trò to lớn góp phần ổn định hòa
bình ở Châu Á và thế giới. Do đó, từng những năm 1990 đến 1992, các đoàn đại biểu cao cấp
của Trung Quốc đã có nhiều cuộc đi thăm hữu nghị các nước Đông Nam Á (Asean), Đông Ấu
cũ, Châu Phi, Tây Ấu, Châu Mỹ la tinh, thăm Cộng Hòa Liên Bang Nga và một số nước thuộc
Cộng Hòa Liên Xô cũ, thăm Ần Độ, Nhật Bản, mời vua Nhật sang thăm hữu nghị Trung
Quốc (cuối năm 1992) đặc biệt đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng Hòa Triều Tiên
(Nam Triều Tiên) hồi tháng 08/1992 điều tối kỵ đối với nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa đã
từng hy sinh hàng triệu người trong cuộc chiến tranh kháng Mỹ viện Triều năm 1951, và hiện
nay đã và đang phát triển quan hệ buôn bán với Nam Triều Tiên gấp bội so với Bắc Triều
Tiên xã hội chủ nghĩa : ngoài ra, Trung Quốc cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng
Hòa I-xra-en từ lâu được coi là "kẻ thù không đội trời chung".
Theo xu thế đó, Trung Quốc cũng đã khôi phục lại quan hệ với nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa VN đã từng là kẻ thù của chính họ, vào cuối năm 1991.
Ngoài ra những cuộc xung đột võ trang, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, phe phái thù địch giành
quyền lãnh đạo diễn ra nơi này, nơi khác trên thế giới cũng không thể ngăn cản được nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN hòa nhập vào cộng đồng các nước trên thế giới nói chung và
khu vực Châu Á Thái Bình Dương nói riêng. Nhiều đoàn đại biểu cấp cao của VN đã đi thăm
hữu nghị các nước Asean- vùng cấm kỵ lâu nay đối với VN, và theo yêu cầu của mình, VN đã
được tham gia hiệp ước Ba-li, trở thành thành viên (dự bị- quan sát viên) của hiệp hội các
nước Asean (Đông Nam Á), đi thăm Ần Độ, Cộng Hòa Liên Bang Nga và một số nước Cộng
Hòa thuộc Liên Xô cũ, thăm một số nước Tây Ấu, Bắc Ấu, cải thiện quan hệ với Nhật, thiết
lập quan hệ ngoại giao với Nam Triều Tiên (12/1992), đặc biệt đã cố gắng quên đi dĩ vãng
không mấy tốt đẹp, khôi phục lại quan hệ láng giềng thân thiện với nước Cộng Hòa nhân dân
Trung Hoa thông qua chuyến đi thăm hữu nghị nước này của đoàn đại biểu cấp cao của đảng
và chính phủ VN do các ông Đỗ Mười và ông Võ Văn Kiệt hồi đầu cuối năm 1991. Quan hệ
bình thường giữa Trung Quốc và VN được khôi phục lại đã góp phần quan trọng vào việc ổn
định tình hình khu vực Châu Á Thái Bình Dương và thế giới. Qua các chuyến thăm hữu nghị
các nước nói trên của VN, các hiệp định tay đôi về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật đã
được ký kết; đó là những điều kiện tối cần thiết cho sự phát triển toàn diện của đất nước VN.
Hơn một năm qua, hội nghị hòa bình Trung Đông đã gặp nhiều khó khăn, tiến triển rất chậm
nhưng phải thừa nhận rằng nó có những tiến bộ nhất định kinh qua 8 vòng đàm phán (thảo
luận về khu vực tự trị của người dân Palestine ở vùng bị chiếm đóng).
Công cuộc thương lượng hòa bình giữa Nam và Bắc Triều Tiên tuy có nhiều trở ngại, khó
khăn lớn thậm chí có lúc bế tắc nhưng nó cũng đã đạt được những kết quả quan trọng: 2 miền
Nam, Bắc triều Tiên cùng một lúc đã là thành viên của Liên Hiệp Quốc, hai bên đã ký kết
hiệp ước bất tương xâm lược và thống nhất chủ trương phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Công cuộc thanh sát cơ sở hạt nhân giữa hai miền đã và đang trở ngại lớn của tiến trình hòa
đàm và thống nhất đất nước Triều Tiên. Song sự nghiệp hòa bình thống nhất Triều Tiên và
nguyện vọng sâu xa và là mục tiêu cấp bách không thể đảo ngược được của nhân dân ở hai
miền Nam Bắc.
Mặc dù Khơ-me-đỏ ra sức phá hoại hiệp định hòa bình Pari về Cam-pu-chia, trắng trợn thách
thức với Liên Hiệp Quốc và dư luận thế giới, nhưng bọn chúng nhất định sẽ thất bại, không
thể đảo ngược được xu thế đi lên của đất nước Cam-pu-chia: chấm dứt chiến tranh, hòa bình,
hòa hợp dân tộc, kiến thiết đất nước, thực hiện kinh tế thị trường và dân chủ đa nguyên.
Công cuộc giải trừ quân bị nói chung và giải trừ vũ khí hạt nhân chiến lược nói riêng vẫn
được tiếp tục thương lượng để thi hành giữa Nga và Mỹ (đầu năm 1993) và cả thế giới đã nhất
trí thủ tiêu vũ khí hóa học (12/1992) mặc dù đang có tình hình chuyển động mới về mua bán
vũ khí các loại kể cả chất Pluto-nium trên thế giới gần đây vì lợi ích củng cố quốc phòng, phát
triển kinh tế của mỗi nước.
Mỹ bắt đầu đóng cửa nhiều căn cứ quân sự ở Châu Ấu, rút hết quân khỏi căn cứ hải quân
Subic lớn nhất ở Châu Á Thái Bình Dương (12/1992) sau khi bỏ căn cứ không quân Clark
khổng lồ ở Pli-líp-pin (do tác động của núi lửa Pinatubo).
Tất cả tình hình diễn biến phức tạp trên vẫn là nổi bật lên xu thế của thời đại, dòng thác chính
của thế giới ngày nay sau khi chiến tranh lạnh đã chấm dứt: đối thoại, hợp tác, hòa bình, dân
chủ và phát triển.
B. Con Người Của Lịch Sử.
Có được một bước ngoặc lịch sử vĩ đại của thế giới như vậy, đối với những người có hiểu
biết, phải công tâm mà nói: đó là cống hiến lớn lao của cựu Tổng thống Liên Xô (cũ)
M.Gorbachov người đã dám vượt lên bức trường thành của ý thức hệ cộng sản, làm cho toàn
thế giới hòa nhập vào nhau để tiến lên, chứ không phải bám chặt quan điểm và hành động đối
đầu nhau, thậm chí sẵn sàng tiêu diệt lẫn nhau bằng chiến tranh hạt nhân hủy diệt.
Cho nên khi sang thăm nước Mỹ vào đầu năm 1992 sau lúc từ chức Tổng Thống Liên Xô rồi
M.Gorbachov đã nói ở Chicago rằng: " Tôi đi đến đâu người ta cũng hỏi kỷ nguyên
Gorbachov đã chấm dứt chưa ? - và tôi trả lời: kỷ nguyên Gorbachov mới bắt đầu."
Đúng vậy, sự diễn biến của thế giới sau khi Liên Xô tan rã như kể trên đã khẳng định câu trả
lời của M.Gorbachov là rất chính xác, vì kỷ nguyên Gorbachov: hòa bình, đối thoại, hòa giải,
hợp tác, dân chủ và phát triển đã và đang không ngừng tiến triển rất khả quan. Do đó, người ta
không thể cường điệu (thổi phồng) các cuộc xung đột võ trang, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo,
phe phái thù địch trong một nước hoặc giữa hai nước láng giềng nào đó trên thế giới giống
như cuộc xung đột võ trang hoặc chiến tranh về ý thức hệ với qui mô toàn thế giới giữa Đông
và Tây (giữa xã hội chủ nghĩa), giữa Liên Xô (cũ) và Mỹ, giữa phe đế quốc chủ nghĩa và phe
xã hội chủ nghĩa như trước đây, đặc biệt trong điều kiện Liên Hiệp Quốc ngày nay lại có ý
thức và tiềm lực cho phép có thể dập tắt các cuộc xung đột cục bộ, địa phương nói trên.
Từ ý nghĩa đó, chúng ta cần chú ý đến sự đánh giá của dư luận thế giới đối với M.Gorbachov:
- Cựu bộ trưởng ngoại giao Liên Xô (cũ) E. Shevardnaze nói: "M.Gorbachov đã làm một số
việc đi vào lịch sử như là một sự nghiệp vĩ đại, là một người đổi mới và một nhà cách mạng".
- Báo Express News (18/12/1991) viết: " Nếu Abraham Lincoln được nhớ ơn bởi việc giải
phóng nô lệ thì M. Gorbachov cần được ghi công bởi người dân Liên Xô và Đông Ấu bị xiềng
xích. Cả hai nhân vật này đều đã làm thay đổi số phận hàng triệu người. Cả hai đều phải được
công nhận là những nhà giải phóng vĩ đại."
- Trong thông điệp Giáng Sinh (24/12/1991), Tổng thống Mỹ G.Bush tuyên bố: "Nhân danh
quốc dân Mỹ, tôi xin tỏ lòng tri ân của tôi tới Tổng thống Gorbachov vì trong bao nhiêu năm
qua ông đã kiên quyết bảo vệ hòa bình thế giới, và ông là bậc thức giả rất dũng cảm và nhìn
xa trông rộng. Các chánh sách của ông đã cho phép nhân dân Nga và các nước Cộng Hòa
khác xóa bỏ hàng thập kỷ bị đàn áp và thiết lập nền tảng tự do. Di sản của ông đảm bảo cho
ông một chỗ đứng danh dự trong lịch sử và tạo nền tảng chắc chắn cho Mỹ cộng tác một cách
xây dựng với những người thừa kế ông."
- Ngoại trưởng Đài Loan F. Chien nói: "Những nổ lực của M. Gorbachov nhằm thúc đẩy
Đông Ấu và Liên Xô tiến tới sự nghiệp giải phóng đã mang lại cho ông một chỗ đứng thích
hợp trong lịch sử."
- Paul Keating - Thủ tướng Úc- đã nhận xét : "Vai trò của Gorbachov trong những năm cuối
thế kỷ 20 là có tính chất quyết định và không nghi ngờ gì nữa ông sẽ được là một trong những
nhân vật vĩ đại của thời hiện đại."
- Charles Fiterman - đứng đầu phái cải tổ trong đảng cộng sản Pháp - đã ca ngợi sự sáng suốt
và dũng cảm của Gorbachov và nhận xét rằng: "ông (Gorbachov) sẽ được lưu danh trong lịch
sử thời đại chúng ta một thời gian dài."
- Tổng thống Pháp- F.Mitteranđ đã dành những lời ca ngợi nồng nhiệt nhất cho M.Gorbachov
và đánh giá Gorbachov là một trong những nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ này".
- Thủ tướng Anh J.Major nói với các phóng viên rằng: "Có rất ít người có thể thay đổi được
xu thế lịch sử. Nhưng Gorbachov làm được , cho dù điều gì đang xảy ra hiện nay, nhưng vị trí
của ông trong lịch sử đã được khẳng định".
- Bà Thatcher- cựu thủ tướng Anh- đã khẳng định: "Gorbachov là một vĩ nhân".
- Một nhà nghiên cứu về Liên Xô (cũ) tại Sơ-un (thủ đô Nam Triều Tiên) nói rằng:
"Gorbachov có thể đi vào lịch sử như một con người vĩ đại, người đã chuyển sự đối đầu thế
giới thành hòa giải."
- Ông Đớp-Đắc-Chaim- chuyên viên của quỹ "di sản" (Mỹ) đã nhận xét : "Gorbachov không
thất bại mà là bị nhận chìm trong thành công của chính mình... về 7 năm cầm quyền của ông,
người ta sẽ viết và phân tích suốt nhiều thế kỷ."
Trong lịch sử đối với các bậc vĩ nhân, không chỉ có sùng bái, ca ngợi một chiều mà có cả
phản bác, phản đối, lên án, thậm chí đòi đưa ra xử tội. Có bậc vĩ nhân được phụng thờ trong
nhiều thập kỷ nhưng càng về sau càng bị quần chúng nhân dân phải đối mạnh mẽ dẫn đến
hành động đập phá tượng đài, lăng tẩm, di chuyển hài cốt vĩ nhân, đóng cửa thư viện, nhà bảo
tàng... vì các học thuyết, quan điểm, giáo huấn của vĩ nhân trong thực tiễn đã gieo rắc biết bao
nhiêu thảm họa cho nhân dân.
Độ dài và chiều sâu của sự tôn sùng của đông đảo quần chúng nhân dân đối với các bậc vĩ
nhân hoàn toàn lệ thuộc vào sự kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử. Vả lại, sự kiểm nghiệm ấy
có khi phải kéo dài 50-70 năm thì mới khẳng định được đúng, sai. Vì vậy khi chưa thông qua
quá trình kiểm nghiệm cần thiết, nghiêm túc nói trên, nếu có ý kiến tán thành hoặc phản đối
đối với các vĩ nhân thì vẫn chưa có cơ sở để coi đó là những ý kiến chính xác, có giá trị được.
Giải đáp cho câu hỏi thứ nhất có thể tạm ngưng ở đây. Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang thảo
luận, trao đổi với nhau về câu hỏi thứ hai đã nêu trên.
C. Lòng Dân Quyết Định Tất Cả.
Rất đúng, trước đây Hitler đã từng tung ra trên 200 sư đoàn quân tinh nhuệ của chủ nghĩa phát
xít Đức bất ngờ tấn công đất nước Xô Viết vĩ đại nhằm tiêu diệt Liên Xô (cũ)- thành trì của
chủ nghĩa cộng sản thế giới- trong một thời gian chớp nhoáng; nhưng nó đã thất bại hoàn toàn
vì những người cộng sản và nhân dân Xô Viết anh hùng bao gồm các dân tộc trong Liên Bang
đã đứng lên bảo vệ nó với bất cứ giá nào (đã phải hy sinh trên 27 triệu người); còn ngày nay,
chính những người cộng sản từ Tổng bí thư, các uỷ viên trung ương, uỷ viên bộ chính trị đến
các uỷ viên tỉnh uỷ, thành uỷ về những đảng viên cộng sản trung thực khác cùng với nhân dân
Xô Viết, các dân tộc trong Liên Bang đã đứng lên thực hiện sự phủ định đối với đảng cộng
sản và Liên Bang Xô Viết thì không có sức mạnh nào có thể ngăn cản nổi. Dòng thác cách
mạng dữ dội ấy của quần chúng nhân dân mạnh gấp trăm, ngàn lần so với sức mạnh quân sự
của Hitler trước đây.
Liên Xô (cũ)- trung tâm của phong trào cộng sản thế giới- bị sụp đổ không phải do sức tấn
công từ bên ngoài mà chính là do sức mạnh nổi dậy từ trung tâm ấy sản sinh ra.
Cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Liên Xô M.Gorbachov (đồng thời l2 tổng bí thư đảng cộng
sản Liên Xô) nổ ra ngày 19/08/1991 là sự phản ứng tột đỉnh của bọn bảo thủ, ngoan cố, phiêu
lưu trong đảng cộng sản và nhà nước Liên Xô, muốn chấm dứt công cuộc cải tổ, trào lưu dân
chủ - công khai, sự chuyển hướng theo kinh tế thị trường, sự hòa hoãn giữa Đông và Tây
(giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) nhằm kéo Liên Xô trở về con đường cũ Xtalin;
nhưng đảo chánh thất bại đã đưa đến hậu quả tất nhiên: hồi chuông kết thúc vai trò lãnh đạo
của đảng cộng sản và sự tồn tại của Liên Bang Xô Viết - Liêng Bang áp bức đối với các dân
tộc Xô Viết hơn 70 năm qua và các dân tộc khác ở Đông Ấu.
Thật ra đã hiểu khi nói rằng cái gì không hợp với lòng dân, với trào lưu lịch sử thì cái đó
không thể tồn tại được dù đó là đảng cộng sản Liên Xô, là Liên Bang Xô Viết đã từng giữ vai
trò lớn lao trong lịch sử đất nước Xô Viết và thế giới, đã từng lãnh đạo nhân dân quần chúng
các dân tộc Liên Xô làm cách mạng, đánh bại phát xít Hitler, giải phóng đất nước Xô Viết và
nhiều dân tộc khác trên thế giới: nhưng ngày nay lại trở thành đối tượng cách mạng mà quần
chúng nhân dân phải vùng lên lật đổ.
Điều này càng cắt nghĩa rõ bài học ở Đông Ấu vừa qua: không phải quân đội Mỹ kéo vào để
lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đảng cộng sản tại đây mà chính là nhân dân -
những người đã từng chịu sự lãnh đạo của các đảng cộng sản suốt 45 nằm dài đã qua, trong
tay không có một thứ vũ khí nào, đã đứng lên thực hiện sự lật đổ ấy, do lòng căm phẩn cao độ
của họ đối với chế độ và sự lãnh đạo của các đảng cộng sản đã trở nên lỗi thời, không còn phù
hợp nữa.
Nguyên nhân cơ bản của tình hình trên là vì các đảng cộng sản, sau khi giành được chính
quyền rồi thì ngày càng quan liêu, xa rời quần chúng, độc đoán chuyên quyền, độc tài tàn bạo,
coi thường tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của quần chúng, thậm chí chà đạp lợi ích của họ,
đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, liên tục, kéo dài, rất bảo thủ, ngoan cố nên không thể
không bị quần chúng lật đổ.
Rõ ràng, các đảng cộng sản tuy có vai trò lãnh đạo, nhưng lại không tiến kịp với đà phát triển
của lịch sử và nghiễm nhiên trở thành chướng ngại đối với sự tiến hóa của xã hội. Do đó, đến
lượt các đảng cộng sản không thể tránh khỏi qui luật đào thải - bị quần chúng gạt ra bên lề
lịch sử. Bài học đắt giá của các đảng cộng sản Đông Ấu, Liên Xô là như thế đó.
D. Bám Chặt Cái Đã Lỗi Thời : Chủ Nghĩa Xã Hội Đói Nghèo, Lạc Hậu Và
Đẫm Máu.
Nó hoàn toàn đúng khi có người nói: " Sau hơn 70 năm thể nghiệm ở Liên Xô (cũ), chủ nghĩa
cộng sản đã hoàn toàn thất bại" "chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng cao đẹp nhưng khi thực
hành thì đầy thảm họa".
Chủ nghĩa xã hội ở Đông Ấu, Liên Xô sụp đổ (1990-1991) sau hơn 70 năm thực nghiệm cho
phép người ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lenin, chủ nghĩa cộng sản đã lỗi thời, phá sản,
không còn là niềm tin, hy vọng đông đảo của quần chúng nhân dân nữa.
Chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn của nhiều thập kỷ đã phơi bày đầy đủ bản chất của nó : độc
tài về kinh tế và độc tài về chính trị - bằng độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản, tước đoạt
tất cả sở hữu về tư liệu sản xuất của cá thể, tư nhân. tư bản chủ nghĩa và tước đoạt mọi quyền
dân chủ tự do của nhân dân như: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội,
tự do biểu tình, đình công. Từ đó, chế độ xã hội chủ nghĩa tồn tại chủ yếu dựa trên cơ sở bạo
lực (công an, quân đội và công cụ của đảng cộng sản, chứ không phải là công cụ của nhân
dân), để đàn áp, bắt bớ giam cầm những ai không "ăn cánh" với đảng, thậm chí bắn giết tàn
bạo, diệt chủng dã man (ở Liên Xô cũ trước đây, trong những thập kỷ 30-40-50, Xtalin đã
từng giết hại, tra tấn tù đầy hàng triệu người dân Xô Viết và cán bộ đảng viên vô tội; ở Trung
Quốc trong những năm 50-60, khi tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông
nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, thành lập xã hội nhân dân ( đại nhảy vọt), cách
mạng văn hóa vô sản. Mao Trạch Đông - Giang Thanh và lũ tay sai khát máu đã giết hại, tra
tấn, tù đày hàng chục triệu người dân Trung Quốc lương thiện và cán bộ đảng viên vô tội. Đặc
biệt càng kinh ngạc là nhiều nhà lãnh đạo kỳ cựu của đảng cộng sản Trung Quốc, cùng hoạt
động cách mạng một thời với Mao Trạch Đông như : Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, La
Thụy Khanh, Hạ Long... cũng bị hành hình, giết hại một cách thê thảm, và càng kinh khủng
hơn nữa là cuộc tàn sát đẫm máu đối với cuộc biểu tình đòi dân chủ, chống tham nhũng của
hàng ngàn, hàng vạn sinh viên, trí thức và các tầng lớp nhân dân Trung Quốc ngày
04/06/1989 tại Thiên An Môn (Bắc Kinh);đó là điển hình của một chế độ Phát-xít tàn bạo.
Cũng như ở Campuchia trong những năm 70, Pôn-Pốt, Iêng-Sarry nhân danh những người
lãnh đạo đảng cộng và nhà nước Campuchia đã bắt bớ, giam cầm, tra tấn, giết hại bằng nhiều
cách rất dã man hàng triệu người dân Campuchia và cán bộ đảng viên vô tội.
Rõ ràng, chính bản chất độc tài cả về kinh tế và chính trị, đi ngược qui luật khách quan mà
chế độ xã hội chủ nghĩa tự bản thân nó tất nhiên đã giam hãm đất nước, nhân dân trong cảnh
đói nghèo, lạc hậu triền miên, do đó không tạo ra được một năng xuất lao động cao, một sự
phồn vinh sống động và ấm no hạnh phúc cho nhân dân (thu nhập bình quân đầu người rất
thấp :Việt Nam 200 đôla, Trung Quốc 360 đôla... trong khi ở các nước tư bản chủ nghĩa :Nam
Triều Tiên 5.500 đôla, Đài Loan trên 10.000 đôla, Singapo 12.000 đôla, Nhật Bản 23.000
đôla, Thủy Sĩ 27.000 đôla...)
Do đó, người ta không thể kinh ngạc khi nghe nói rằng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa
"ưu việt"- thực tế thì yếu kém, trì trệ - lại sẽ "thay thế" phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
rất hoàn thiện, có đầy đủ sức mạnh áp đảo cả về kinh tế và chính trị hiện nay trên thế giới.
Sở dĩ có chuyện ngược đời như vậy là vì trong chủ nghĩa xã hội, lợi nhuận được hiểu một
cách lệch lạc, trở thành đối tượng bị lên án và tiêu diệt; trong khi đó lịch sử thực tiễn đã cho
thấy rằng lợi nhuận chính là động lực vô cùng quan trọng, nó thúc đẩy sản xuất, kinh tế phát
triển phi mã, xã hội không ngừng phát triển toàn diện và thực tế chính lợi nhuận đã đưa đến
xã hội loài người đạt đến trình độ văn minh ở đỉnh cao ngày nay.
Khác với thuyết "thặng dư giá trị" và " đấu tranh giai cấp", lợi nhuận đã tạo dựng nên sự
nghiệp lớn lao, chói lọi cho loài người ngày nay. Điều đó có nghĩa là không có nó sẽ không có
tất cả.
Tóm lại chủ nghĩa xã hội trên hai mặt có tính chất quyết định - kinh tế và chính trị - là một
chế độ xã hội không hợp lòng dân và trào lưu tiến hóa của lịch sử, nên nó đã bị bác bỏ ở khắp
mọi nơi.
Tuy nhiên, hiện đang có nhiều ý kiến khẳng định rằng "chủ nghĩa Mác Lenin - chủ nghĩa cộng
sản - không thể phá sản, lỗi thời mà nó đang phát triển mạnh ở Trung Quốc và VN. Sự sụp đổ
ở Đông Ấu và Liên Xô chẳng qua là những hiện tượng khó khăn tạm thời trong quá trình phát
triển của xã hội loài người. Trong tương lai xã hội chủ nghĩa sẽ được khôi phục ở các nước
nói trên vì chủ nghĩa xã hội là nguyện vọng thiết tha của quần chúng nhân dân các dân tộc".
Do đó, đối với những ý kiến quan điểm nêu trên không thể khác được là cần phải trao đổi,
thảo luận, phân tích một cách nghiêm túc: "Chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng, phát triển
ở Trung Quốc và Việt Nam ra sao ?
E. Chủ Nghĩa Xã Hội Hay Là Chủ Nghĩa Tư Bản ? Khôn Ngoan Và Trung
Thực.
Trung Quốc và VN - hai nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Á- đã có nhận thức sớm là phải cải
cách, đổi mới kinh tế, vì nếu cứ làm ăn theo lối cũ mãi thì sẽ không bao giờ có chủ nghĩa xã
hội - một xã hội phồn vinh, giầu có, ấm no hạnh phúc.
Cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở VN nói chung có nhiều điểm giống nhau: phục hồi kinh
tế cá thể, kinh tế tư nhân (tư bản trong nước) thậm chí mở cửa cho phép các nhà tư bản nước
ngoài đầu tư, khai thác, kinh doanh tại nước mình tuy vẫn duy trì chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất (sơ hữu toàn dân, tập thể- xí nghiệp quốc doanh, nông trang tập thể); thực hiện một
nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần, có lợi nhuận, có cạnh tranh.
Điều có ý nghĩa quan trọng là kinh tế cá thể, tư nhân (tư bản trong nước) được phục hồi cùng
với những hoạt động, kinh doanh của các công ty tư bản nước ngoài thì nền kinh tế ở mỗi
nước (Trung Quốc, Việt Nam) trở nên sôi động với nhịp độ phát triển nhanh và cao, có một
bộ mặt mới hẳn về kinh tế và đời sống, được dư luận rộng rãi trên thế giới hoan nghinh- điều
mà trước đây chưa hề xảy ra.
Từ thực tiễn đó đã bắt đầu có ý kiến trong cơ quan lãnh đạo của đảng cộng sản Trung Quốc
rằng: "có thể sử dụng những yết tố, hình thức, khía cạnh của chủ nghĩa tư bản để phục vụ cho
chủ nghĩa xã hội" và đến năm 1992 nhà lãnh đạo kỳ cựu của đảng cộng sản Trung Quốc Đặng
Tiểu Bình lại nhấn mạnh: "Trung Quốc cần học tập chủ nghĩa tư bản,làm theo mô hình tư bản
chủ nghĩa", "không nên câu nệ mèo đen hay mèo trắng miễn là nó bắt được chuột".
Tuyên bố này được phổ biến rộng rãi khi Tổng bí thư Giang Trạch Dân phát biểu ý kiến với
sinh viên Bắc Kinh giữa năm 1992. Lời tuyên bố ấy của ông Đặng Tiểu Bình có ý nghĩa rất
quan trọng ở chỗ là từ trước tới nay, trong phong trào cộng sản quốc tế chưa hề có những ý
kiến phát biểu như vậy, vì nó trái hẳn với chủ nghĩa Mác Lenin và tất nhiên nó sẽ được coi là
"hành vi phản bội" chủ nghĩa Mác Lenin. Bởi lẽ, theo tư tưởng Mác Xít, Lê-Nin-Nit, chủ
nghĩa xã hội có thể tồn tại trên cơ sở phải tiêu diệt chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (sở hữu
cá thể, tư nhân) - môi trường sản sinh ra chủ nghĩa tư bản, ra giai cấp người bóc lột người, để
thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân, tập thể)- "nền tảng vững
chắc của chủ nghĩa xã hội". Cho nên sự tồn tại và phát triển của kinh tế cá thể, tư nhân, tư bản
chủ nghĩa với lợi nhuận, cạnh tranh và giai cấp người bóc lột người - đối kháng của chủ nghĩa
xã hội thì không thể gọi là chủ nghĩa xã hội được.
Sở dĩ Trung Quốc đạt được thành quả lớn lao về kinh tế như ngày nay sau 14 năm cải cách và
mở cửa là nhờ có trên 80 tỉ đôla đồng vốn của tư bản nước ngoài đổ vào Trung Quốc và hàng
năm (1991-1992) Trung Quốc có được số vốn nước ngoài 10 tỉ đôla - điều mà trước đây đảng
cộng sản Trung Quốc nằm mơ cũng không hề có.
Thị trường chứng khoán cổ máy cái của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa - được mở ra và phát
triển mạnh mẽ ở Thẩm Quyến rồi lần lượt ở nhiều nơi khác của Trung Quốc; những đặc khu
kinh tế được xây dựng ở Quảng Đông, các vùng ven biển càng làm cho nền kinh tế Trung
Quốc mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa tư bản.
"Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" là "chủ nghĩa xã hội" không theo tư tưởng
Mác Lenin, đảo ngược hoàn toàn chủ nghĩa Mác Lenin. "Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc
Trung Quốc" là chủ nghĩa tư bản đích thực ở Trung Quốc. Như vậy chủ nghĩa tư bản được
xây dựng ở Trung Quốc chính là thông qua sự lãnh đạo vòng vèo đầy mưu lược của đảng
cộng sản Trung Quốc - đảng của chủ nghĩa Mác Lenin(?). Phải chăng đây là nghịch lý, ngược
đời ?
Tuyên bố:
"Học tập chủ nghĩa tư bản Làm theo mô hình tư bản chủ nghĩa"
là lời tuyên bố dũng cảm, đầy tinh thần cách mạng sáng tạo cầu thị của nhà lãnh đạo cao niên
(88 tuổi) Đặng Tiểu Bình. Lời tuyên bố ấy bao hàm ý thức thừa nhận rằng phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa là phương thức sản xuất hoàn thiện nhất của xã hội loài người ngày nay;
nó có sức thu hút, quyết rũ lạ thường và đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu của nhân dân, của xã
hội.
Cho nên nói chung phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa "ưu việt"(?) "sẽ thay thế" phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa " đã lỗi thời"(?) là điều rất ảo tưởng. Nó "ưu việt" nhưng đã
tan rã đồng loạt kể cả Trung Quốc và VN thì lấy gì để thay thế cái "đã lỗi thời" đang rất hùng
mạnh kia ?
Đại hội lần thứ 14 của đảng cộng sản Trung Quốc (12-18/10/1992) vừa qua đã mở ra chân trời
sáng lạn cho sự phát triển tư bản chủ nghĩa của Trung Quốc mà không sợ bị cản ngăn, làm
đảo ngược bởi lực lượng bảo thủ, vì nó được nhân dân Trung Quốc trên 1 tỉ người ủng hộ, bảo
vệ. Trong một tương lai không xa, Trung Quốc sẽ trở thành một trong những nước tư bản chủ
nghĩa hùng mạnh nhất ở Châu Á Thái Bình Dương.
Còn đối với Việt Nam thì sao ? quyết tâm vẫn là "con đường xã hội chủ nghĩa". Vậy nội dung,
thực chất của định hướng xã hội chủ nghĩa ở VN cụ thể là như thế nào ?
Từ phương thức sản xuất chủ nghĩa xã hội giáo điều: tập trung, quan liêu, bao cấp dẫn đến
hậu quả đói nghèo, lạc hậu triền miên, VN buộc phải đổi mới : xây dựng một nền kinh tế thị
trường với nhiều thành phần khác nhau trong đó điều quan trọng là khôi phục kinh tế cá thể,
kinh tế tư nhân (tư bản trong nước) và mở cửa cho tư bản nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh,
khai thác.
Đối với kinh tế tập thể, quốc doanh, cái nào làm ăn thừa lỗ (phần nhiều thừa lỗ), khó tồn tại
được thì cho phá sản, giải thể. Cạnh tranh là thách thức lớn đối với hai loại hình kinh tế này.
Trong mấy năm gần đây (90-91-92), hàng năm có trên 3.000 đoàn nước ngoài (năm sau cao
hơn năm trước) mà đại bộ phận là các nhà kinh doanh tư sản vào thăm VN.
Ngược lại, với hoạt động ngoại giao nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước,
các đoàn đại biểu chính thức của nhà nước VN đã đi thăm chủ yếu các nước tư bản ở Châu Á,
Châu Ấu, Châu Úc, Châu Mỹ cụ thể các nước như : Thái Lan, Ma-lai-si-a, Xin-ga-po, Phi-lip-
pin. Indonesia, Bơ-ru-nây, Ần Độ,... Pháp, Đức, Thụy Điển, Hà Lan,... Mỹ, Úc...
Trong 5 năm từ khi có luật đầu tư của người nước ngoài tại VN (1988-1992), nhà nước đã cấp
555 giấy phép cho các công ty với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 4 tỷ 527 triệu USD gồm :
- 500 xí nghiệp liên doanh.
- 66 xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- 59 hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- 23 dự án dầu khí theo hình thức phân chia sản phẩm.
Các tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp từ 40 nước đã tham gia đầu tư tại VN vào các ngành
như :công nghiệp dầu khí, nông lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải và bưu điện,
khách sạn, du lịch, dịch vụ, tài chánh, ngân hàng,... Có trên 15 công ty nước ngoài đang thăm
dò, khai thác dầu mỏ ở thềm lục địa Việt Nam.
Công cuộc xây dựng đất nước VN ngày nay, qua đổi mới, chủ yếu dựa vào các yếu tố như
sau:
- Đồng vốn của tư bản nước ngoài (gần 5 tỷ đôla Mỹ)
- Công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại của các nước tư bản tiên tiến.
- Kinh nghiệm quản lý kinh tế tiên tiến của các nước tư bản.
- Công tác đào tạo cán bộ toàn diện rất hoàn thiện của các nước tư bản tiên tiến.
Tất cả tình hình nói trên cho thấy định hướng chiến lược của VN không phải là định hướng xã
hội chủ nghĩa mà thực chất là định hướng tư bản chủ nghĩa :không phải là cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản mà là sự thỏa hiệp, đề huề, hợp tác giai cấp
thậm chí liên minh giai cấp được thể hiện khi VN xin tham gia hiệp ước Ba-li và hiệp hội
Asean - một tổ chức trước kia được coi là "công cụ xâm lược của Mỹ" ở Đông Nam Á Châu-
và được Asean chấp thuận với tư cách quan sát viên. Sở dĩ có được kết quả tốt đẹp như vậy
không phải chỉ do sự khéo léo trong hoạt động ngoại giao của phía VN mà điều quan trọng có
tính quyết định là Asean nhận thấy sự diễn biến ở VN, đặc biệt là về kinh tế trong vài ba năm
gần đây (90-91-92) đi ngoài dự đoán của họ, nghĩa là về tính chất, nó có cái gì đó giống nền
kinh tế của họ, nếu chưa phải 100%, thì cũng đã đạt tới 85-90% rồi, và nó sẽ không thể nào
đảo ngược được mặc dù VN vẫn tuyên bố mình là "nước xã hội chủ nghĩa". Chớ có lẽ Asean
lại kết nạp một nước kẻ thù đích thực muốn tiêu diệt họ như trước đây vào tổ chức hiệp hội
Đông Nam Á của họ sao?
Rõ ràng thuyết đấu tranh giai cấp và ý thức hệ Mác Xít trong điều kiện kể trên của ngày nay
từ đó đã lỗi thời và phá sản.
Hiện nay đang diễn ra hiện tượng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới tức giữa nền kinh tế các
nước có sự tác động xen kẻ lẫn nhau: nền kinh tế của một nước chịu sự tác động của nhiều
nước ngược lại, một nước có thể tác động vào nền kinh tế của nhiều nước (nước Mỹ, nước
Nhật tác động vào nền kinh tế của nhiều nước, ngược lại, nhiều nước khác lại tác động vào
nền kinh tế của nước Mỹ, nước Nhật.)
Hiện tượng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ấy xuất hiện từ sau chiến tranh thế giới thứ 2
(1945-1946) và phát triển chủ yếu trong phạn vi từng khối riêng biệt :tư bản chủ nghĩa, xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt (1990-1991) hiện tượng quốc tế hóa
nền kinh tế thế giới mang tính chất tư bản hóa, thực dân hóa càng có điều kiện phát triển rộng
khắp và mạnh mẽ hơn, vì vậy, cải cách và mở cửa một nước xã hội chủ nghĩa nào đó là điều
kiện tất yếu dẫn đến quốc tế hóa tức tư bản hóa, thực dân hóa nền kinh tế của nước đó.
Nếu trước đây VN đã từng đấu tranh chống thực dân cũ và thực dân mới bằng võ trang suốt
mấy mươi năm để bảo vệ độc lập, tự do và chủ quyền toàn vẹn của đất nước mình thì ngày
nay, VN với chính sách đổi mới và mở cửa lại sẵn sàng đón nhận hàng chục (hiện đã có 40
quốc gia) thậm chí hàng trăm nước tư bản, thực dân (sau khi Mỹ bỏ cấm vận) vào nước mình
để khai thác, kinh doanh kiếm lời. Vả lại, khi nền kinh tế của VN được quốc tế hóa tức tư bản
hóa, thực dân hóa thì hai chữ độc lập của VN cũng cần được hiểu khác đi, linh hoạt hơn so
với trước đây (ngay với nền độc lập của nước Mỹ cũng phải hiểu như vậy).
Tất nhiên, "định hướng xã hội chủ nghĩa " của VN lúc bấy giờ được ví như cái mũ mà người
ta đội lên đầu đất nước mình; còn thực tế toàn bộ sự vận hành của nền kinh tế thị trường VN
vẫn phát triển theo qui luật của nó theo con đường tư bản chủ nghĩa hay còn được gọi là mô
hình tư bản chủ nghĩa - dẫn đến phồn vinh, giàu có, ấm no, hạnh phúc, dân chủ tự do, văn
minh hiện đại.
Điều mà ai nấy cũng có thể thấy rõ là sau khi Mỹ hủy bỏ cấm vận đối với VN thì sẽ có hàng
trăm, hàng ngàn công ty nước ngoài kéo vào làm ăn với VN. Các đặc khu kinh tế tự do, các
thị trường chứng khoán, các chi nhánh ngân hàng các nước, các xí nghiệp 100% vốn nước
ngoài, các xí nghiệp liên doanh trên các lĩnh vực : công nghiệp, nông lâm nghiệp, thủy sản,
giao thông, vận tải và bưu điện..v..v.. sẽ được mở ra hoạt động kinh doanh xây dựng và phát
triển mạnh mẽ. Hoạt động của các công ty xí nghiệp nói trên sẽ góp phần quan trọng làm biến
đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế và đời sống VN, đưa VN mau lẹ thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu
kéo dài, đạt đến phồn vinh, giàu có, thậm chí có thể trở thành một trong những con rồng thần
kỳ của Châu Á: nhưng những kết quả hoạt động ấy tất nhiên không phải là để củng cố phát
triển chủ nghĩa xã hội mà chính là để củng cố phát triển chủ nghĩa tư bản ở VN.
Chớ không lẽ, bằng chính sách đổi mới và mở cửa, đảng cộng sản VN lại có thể lãnh đạo cả
thế giới tư bản (gồm hàng trăm nước) như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Canada (G7- giàu
nhất), Nam Triều Tiên, Đài Loan, Malaisia, Xingapo, Hồng Kông, Indonesia, Thái Lan, Úc,
Hà Lan, Thụy Điện, Ần Độ, Mehico,... đến VN xây dựng chủ nghĩa xã hội cho mình sao ?
Như vậy có ngược đời không ?
Phải chăng đảng cộng sản VN lại có ý định cho các nước tư bản vào làm ăn một thời gian có
tính chất "vỗ béo" để rồi sau đó, với chiến lược "xã hội chủ nghĩa"- đấu tranh giai cấp quyết
liệt ai thắng ai giữa hai con đường :tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa- của mình sẽ tiến
hành cải tạo, tước đoạt tất cả tài sản của "bọn họ" (bọn tư bản) và đuổi họ về nước như đã
từng làm trước đây ? Nhưng liệu đảng cộng sản VN có khả năng làm nổi công việc đầy tính
mạo hiểm ấy không ? Bài học: ngạo nghễ, thách thức, phiêu lưu của Sađam Hussein đã buộc
nhân dân Iraq phải trả một giá quá đắt cho cuộc chiến tranh vùng vịnh : đất nước đẩm máu,
tan tành, hy sinh quá lớn lao và vô nghĩa, đói khổ, chết chóc và tủi nhục kéo dài.
Hay phải trung thực nhìn nhận rằng chính chánh sách đổi mới và mở cửa của đảng cộng sản
VN đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản giành toàn thắng trên đất nước mình;
đồng thời phủ định cái "chủ nghĩa xã hội" nghèo đói, lạc hậu và lỗi thời mà lâu nay vẫn được
ấp ủ tại đây.
Trước tình hình cả thế giới xã hội chủ nghĩa (Liên Xô, Đông Ấu, Mông Cổ) sụp đổ, bên cạnh
thế giới tư bản chủ nghĩa hùng mạnh đang tồn tại và quay tít về phía trước, VN tình nguyện
"hòa nhập" vào cộng đồng thế giới tức cộng đồng tư bản chủ nghĩa thì VN cũng phải quay tít
theo guồng máy tư bản chủ nghĩa nói trên, tuy VN còn thích đội cái mũ "xã hội chủ nghĩa".
Ngoài ra không có sự chọn lựa nào khác cả.
Rõ ràng hiện nay, VN thực tế đang chuyển từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản- tự quay
180 độ. Đó là điều không thể đảo ngược được. Vấn đề còn lại là phải có một tinh thần thật sự
cầu thị, dám nói thẳng, nói thật. Đáng lẽ phải nói: Thưa các ngài tư bản,
Từ lâu, đi theo chủ nghĩa Mác Lenin, chúng tôi đã tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm
tiêu diệt chủ nghĩa tư bản của các ngài và thật sự, chúng tôi - phe xã hội chủ nghĩa - đã tiêu
diệt được chủ nghĩa tư bản của các ngài trên qui mô rộng lớn của thế giới trong một thời gian
khá dài. Thế nhưng chúng tôi đã thất bại do không tuân thủ qui luật khách quan trong việc xây
dựng một phương thức sản xuất mới nhưng rất yếu đuối, trì trệ, không đem lại một năng suất
lao động cao, một sự phồn vinh và cuộc sống tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân, xã hội và
do đó, nó không có khả năng gì để thay thế phương thức hấp dẫn, thu hút mạnh mẽ của các
ngài, và nó đã sụp đổ. Vì vậy, giờ đây chúng tôi thấy phải học tập các ngài, học tập chủ nghĩa
tư bản, mà theo mô hình tư bản chủ nghĩa của các ngài và tất nhiên phải từ bỏ chủ nghĩa Mác
Lenin - chủ nghĩa cộng sản - đã quá lỗi thời để tiến kịp theo các ngài trên con đường tiến hóa
của lịch sử.
Đối với VN chúng tôi hiện nay: Tổ Quốc giàu có, hùng mạnh, nhân dân tự do, ấm no hạnh
phúc là trên tất cả.
(viết xong ngày 19/01/1993 lúc còn đang bị quản thúc tại gia từ 07/09/1993 đến 19/01/93 ở
TP Hồ Chí Minh)
Phần 2
Tư Bản Chủ Nghĩa Con Đường Không Thể Đảo Ngược
Được
A.- Mác-Lênin Với Chủ Nghĩa Tư Bản.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời cách đây khoảng trên 300 năm (thế kỷ 17) là
đối tượng nghiên cứu của Các-Mác và Ắn-ghen - hai nhà thủy tổ của chủ nghĩa cộng sản. Do
đó bản tuyên ngôn của Đảng cộng sản mà Mác và Ắn-ghen là đồng tác giả đã được ông bố
vào năm 1848, cách nay 145 năm, phân tích những mâu thuẩn, những mặt tiêu cực, yêú kém
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và bản chất áp bức, bóc lột thậm tệ của giai cấp tư
sản lúc bấy giờ. Mác và Ắn-ghen đã đi đến kết luận xã hội rằng chũ nghĩa tư bản nhất định
diệt vong, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa sẽ thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, cản ngại lớn của lịch sử tiến hoá của xã hội loài người. Vả lại, trên thực tế, chủ nghĩa tư
bản đã bị tiêu diệt ở nhiều nước mà nên kinh tế còn rất lạc hậu, nghèo nàn (kinh tế tư bản
chưa phát triển cao) như các nước Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Mông Cổ, An-ba-ni, Ru-ma-
ni, Hung-ga-ri,...Đến khi Lê Nin với thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917,
càng khẳng định chủ nghĩa tư bản phát triển đến thời kỳ đế quốc chủ nghĩa là đêm trước của
cách mạng vô sản và xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Thế nhưng kể từ khi có
Tuyên Ngôn của đảng cộng sản (của Mác, Ắm-ghen) và quan điểm của Lê Nin về chủ nghĩa
đế quốc đến nay (145năm) lại chưa hề có cuộc cách mạng vô sản bằng bạo lực nào xảy ra ở
các nước tư bản phát triển nhất (thành đế quốc chủ nghĩa) như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật,
Canada...bởi vì tại đây, các Đảng cộng sản đều không tán thành cách mạng vô sản - cách
mạng bạo lực - và chuyên chính vô sản, độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản, mà chủ
trương đấu tranh bằng phương thức hoà bình: đấu tranh nghị trường với sự liên minh của
nhiều đảng phái, lực lượng cấp tiến, đấu tranh bằng đình công, biểu tình... cho lợi ích dân
sinh, dân chủ của nhân dân lao động; cho hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc, cho tiến bộ xã
hội: và cũng vì tính chất ấy mà Đảng cộng sản Anh đổi tên thành Đảng dân chủ xã hội; Đảng
cộng sản Ý đổi thành Đảng dân chủ cánh tả vào những năm 1990 - 1991,...
B.- Tại Sao Chủ Nghĩa Xã Hội Hiện Thực "Tan Rã" ?
Còn chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở các nước nông nghiệp, phong kiến lạc hậu như đã nói
trên trong suốt 45 năm hoặc trên 70 năm tuy có đạt được những thành quả nhất định về các
mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, giáo dục, ý tế, đời sống vẫn lâm vào tình trạng trì trệ.
Khủng hoảng kéo dài thậm chí đưa đến sự sụp đổ của "chủ nghĩa xã hội hiện thực" hồi năm
1990-1991 (Đông Ấu, Liên Xô, Mông Cổ...) do sự vận động của nó trái với qui luật khách
quan (chuyên chế toàn diện: độc tài về kinh tế, độc tài về chính trị và các mặt khác; tiêu diệt
kinh tế cá thể, tư nhân, bóp nghẹt dân chủ tự do là nguyên nhân chính yếu của sự sụp đổ ấy.
"Chủ nghĩa xã hội hiện thực" tan rã và việc không hề xảy ra cách mạng vô sản, xã hội chủ
nghĩa ở các nước tư bản tiên tiến nhất theo như dự đoán của Mác, Ắn-ghen, Lê Nin; đồng thời
kinh tế cá thể tư nhân (tư bản) được phục hồi ở các nước XHCN đã tan rã và chưa tan rã, thì
lấy phương thức sản xuất nào để thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang là
phương thức sản xuất hoàn chỉnh nhất, hùng mạnh nhất của xã hội loài người ngày nay ? và
dựa vào cơ sở thực tiễn nào để nói rằng chủ nghĩa tư bản nhất định diệt vong ? (nếu nói theo
cảm tính, quán tính hoặc theo sách vở, giáo điều thì có giá trị gì ?)
C.- Chủ Nghĩa Tư Bản Tồn Tại Như Thế Nào ?
Người ta biết rằng trên 300 năm tồn tại và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa là một quá trình đầy thử thách; khủng hoảng kinh tế định kỳ rất trầm trọng (hàng hoá dư
thừa, ế ẩm do bán không được phải đem ra biển đổ hoặc đốt đi), nhân dân lao động sống lầm
than, đói rách do bị áp bức bóc lột nặng nề phải vùng lên đấu tranh tự cứu lấy mình bằng đình
công, biểu tình nhiều lúc có cả bạo lực; hai lần chiến tranh thế giới (1914-1918 và 1940-1945)
bùng nổ giữa các nước tư bản mất đi một số nước (trở thành nước xã hội chủ nghĩa). tất cả
tình hình ấy làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội- chủ nghĩa cộng sản càng có sức
hấp dẫn mạnh mẽ đối với nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới.
Tuy nhiên, các nhà thủy tổ của chủ nghĩa cộng sản chỉ thấy chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn máy
hơi nước (thế kỷ 19) và máy điện (đầu thế kỷ 20-hồi Lê Nin), chớ không hề thấy chủ nghĩa tư
bản ở giai đoạn của vũ khí hạt nhân, nguyên tử, của tin học, máy vi tính, rô-bốt (người máy),
vệ tinh nhân tạo, con tàu vũ trụ bay vào không gian và lắp ghép với nhau, con người lên mặt
trăng thám hiểm và dự định sẽ sinh sống tại đó,...Các nhà kinh điển của chủ nghĩa cộng sản
chủ yếu nhìn thấy sâu sắc những mặt tiêu cực, khuyết tật của chủ nghĩa tư bản để từ đó rút ra
kết luận và không bao giờ nghĩ rằng chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển đầy thử thách
ấy, nó lại có nhiều khả năng tự điều chỉnh mình, tự cải tạo, thậm chí "lột xác" để tiến lên bằng
tiềm năng kho học kỹ thuật, bằng trình độ tổ chức quản lý, bằng sức sáng tạo và nhiều chính
sách xã hội hợp lý khác. Cho nên, trái hẳn với dự đoán của Mác-Lênin, chủ nghĩa tư bản đã
tồn tại cho đến ngày nay (1993) trên 300 năm và chưa bao giờ chủ nghĩa tư bản phát triển
hùng mạnh như bây giờ, và nhờ vậy nó đã đưa xã hội loài người đến đỉnh cao của nền văn
minh. Với tuổi tác đó, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không những không già nua mà
trái lại, nó giống như một lực sĩ còn rất sung sức với đầy đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu
toàn diện và phức tạp của loài người. Như vậy, chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở hùng mạnh có
một không hai và chưa từng có trong lịch sử, có thể tiếp tục tồn tại và phát triển lâu dài hơn so
với thời gian tồn tại và phát triển đã qua. (trên 3 thế kỷ) của nó.
D.- Chủ Nghĩa Tư Bản Đi Đến Diệt Vong Dưới Dạng Nào ?
Câu hỏi được đặt ra là chủ nghĩa tư bản có diệt vong không và bao giờ? Như mọi sự vật trong
thế giới tự nhiên, chủ nghĩa tư bản cũng không thể đứng ngoài qui luật của nó: có sanh, có tử,
có phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhưng có điều có thể khẳng định là chủ nghĩa tư bản sẽ
không diệt vong bởi cuộc cách mạng vô sản- bạo lực của Đảng cộng sản, vì điều đó đã từng
diễn ra và đã thất bại rồi ("chủ nghĩa xã hội hiện thực" sụp đổ trên phạm vi thế giới năm 1990-
1991). Tuy nhiên đến lúc nào đó, chủ nghĩa tư bản cũng sẽ tiêu vong bởi những mâu thuẩn
nội tại do phương thưc sản xuất của nó tạo ra, chứ không phải bằng một áp lực từ bên ngoài,
giống như khi trái chín, nó rụng, chứ không phải nó bị người ta hái đi trước thời gian nó chín.
Sự phát triển của xã hội loài người đã trãi qua nhiều giai đoạn với những thay đổi lớn lao:
"văn minh nông nghiệp (làng, xã), "văn minh công nghiệp" (thành phố và hiện nay đang bước
vào giai đoạn của "văn minh trí tuệ" (chất xám) " - theo nhận định của nhà tương lai học
người Mỹ Alvin Toffler. Do đó những năm cuối của thế kỷ 20 này và đầu thế kỷ 21 tới đây,
mọi vấn đề trong xã hội sẽ được giải quyết bằng máy tính điện tử, máy vi tính. Không những
trong lĩnh vực sản xuất mà cả trong lĩnh vực kinh doanh, công tác, phục vụ, dịch vụ cũng đều
sử dụng máy tính điện tử, máy vi tính. Chính thời đại bùng nổ thông tin - thời đại của máy
tính điện tử, máy vi tính - đã giúp chúng ta (người Việt Nam) có thể ngồi tại nhà mình và
thông qua vệ tinh nhân tạo và máy truyền hình màu mà xem được "Thế vận hội" ở Mockba,
Mehico, Bắc Kinh, Xê-un, Bác-xê-lô-na... và các trận đá bóng ở thủ đô các nước trên thế giới,
hoặc như người dân Nga ngồi tại Mockba có thể đối thoại với người dân Mỹ đang ngồi tại
Hoa-Thạnh-Đốn cũng thông qua các phương tiện thông tin nói trên. Thật là kỳ diệu nền "văn
minh trí tuệ" (chất xám,khoa học kỹ thuật).
Với nền văn minh ấy, nhà máy, xí nghiệp không tổ chức đại qui mô như trước đây mà tổ chức
theo qui mô vừa và nhỏ trong đó máy móc điện tử, máy vi tính giữ vai trò quyết định. Những
xí nghiệp được rô-bốt hoá (toàn người máy) là những xí nghiệp sản xuất ra hàng hóa dồi dào
chủ yếu do máy móc, chớ không có người lao động (công nhân). Như vậy, vấn đề mới đã phát
sinh, xí nghiệp vẫn sản xuất nhưng lại không có công nhân - một hiện tượng chưa từng có
trong lịch sử.
Tin học hoá, rô-bốt hoá dần dần sẽ trở thành phổ biến trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
công tác, phục vụ (dịch vụ) của xã hội loài người với nền "văn minh trí tuệ" ngày nay. Theo
tin tức được biết: Nhật Bản chiếm 70% người máy (rô-bốt) trên thế giới, là nước đi đầu trong
lĩnh vực rô-bốt hoá.
Từ "văn minh trí tuệ", những thay đổi lớn lao ấy không thể không ảnh hưởng đến các quan hệ
xã hội, quan hệ giai cấp, quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, giữa chủ và thợ.
Chắc chắn quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, giữa chủ và thợ sẽ dần dần lu
mờ đi bởi những hiện tượng mới kể trên. Vì vậy, học thuyết về "thặng dư giá trị", về "đấu
tranh giai cấp" của Các-Mác tất nhiên không thể không rơi vào tình trạng lãng quên. Nhưng
sự tiêu vong của quan hệ giai cấp người bóc lột người, quan hệ chủ, thợ là một quá trình diễn
biến lâu dài dưới nhiều dạng cụ thể khác nhau đến khi không còn giai cấp nữa. Sự tiêu vong
của quan hệ giai cấp ấy không phải được giải quyết bằng một cuộc cách mạng vô sản - bạo
lực đẫm máu của Đảng cộng sản, mà bằng một cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật - cách
mạng của "văn minh trí tuệ" - rất hoà bình, nhân hậu, không hề đổ máu.
Hoà bình và khoa học kỹ thuật - "văn minh trí tuệ" - nhất định sẽ đưa cả loài người đi đến một
thế giới văn minh tột đỉnh: phồn vinh, tự do, ấm no hạnh phúc, công bằng xã hội và đầy tình
người.
E.- Những Điều Nghịch Lý.
Như mọi người đều biết, khi trên thế giới xuất hiện hai hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội: tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa song song tồn tại và đối đầu nhau quyết liệt thì đồng thời
cũng bộc lộ khá rõ nét những hiện tượng nghịch lý:
- Chủ nghĩa tư bản xuất phát từ của riêng, lợi ích cá nhân, lợi nhuận - từng bị lên án là "thối
nát", phản động và "phải bị tiêu diệt" - nhưng trong tác động thực tiễn của nó lại dẫn đến
những hậu qủa kinh tế, xã hội kỳ diệu, không lường trước được: năng suất lao động cao, hàng
hóa dồi dào có thể thỏa mãn mọi nhu cầu của xã hội, làm cho đất nước phồn vinh, giàu có,
hùng mạnh, nhân dân ấm no hạnh phúc, xã hội phát triển đạt đến đỉnh cao của nền văn minh
hiện đại ngày nay.
- Ngược lại chủ nghĩa xã hội được coi là "ưu việt", xuất phát từ của chung (sở hữu công
cộng), luôn luôn vì lợi ích của xã hội (tức không có của riêng, không có lợi nhuận, không có
giai cấp người bóc lột người) nhưng trong tác động thực tiễn lại dẫn đến những hậu quả hoàn
toàn khác hẳn: kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng bởi chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa, năng
suất lao động thấp kém, hàng hoá đơn điệu, thiếu thốn không đáp ứng nổi các yêu cầu cấp
bách của xã hội (tem phiếu, xếp hàng,quầy hàng trống rỗng...), đất nước lâm vào cảnh nghèo
nàn lạc hậu triền miên, nhân dân sống cơ cực, lầm than, đói rách và không hề có dân chủ tự
do.
- Rõ ràng, các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, dân chủ tự do, ấm no, hạnh phúc, văn minh,
hiện đại lại không được tạo ra bởi chính phương thức sản xuất của nó mà ngược lại được tạo
ra bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó, các nước xã hội chủ nghĩa như Việt
Nam, Trung Quốc ngày nay phải thực hiện cải cách, đổi mới, tức là thông qua phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa - tức kinh tế thị trường - để đem lại phồn vinh, giàu có, ấm no hạnh
phúc cho nhân dân.
G.- Hiểu đúng kinh tế hàng hoá.
Rất đúng khi nói rằng kinh tế hàng hoá ra đời trước chủ nghĩa tư bản tức kinh tế hàng hoá có
trước, kinh tế tư bản có sau. Tuy nhiên nó không mâu thuẫn khi nói rằng kinh tế hàng hoá -
kinh tế thị trường - là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Bởi vì kinh tế tư bản phát sinh trên cơ sở của
kinh tế hàng hoá. Vả lại, kinh tế hàng hoá trong chủ nghĩa tư bản mang những nét đặc thù
(riêng biệt) của nó: phát triển vượt bực về qui mô, số lượng và chất lượng so với kinh tế hàng