Phi quốc tế sẽ phi tiêu chuẩn
Các giới hạn trong ISO 14001 -
Công cụ quản lý môi trường hợp tác toàn cầu
Phi quốc tế sẽ phi tiêu chuẩn
Các giới hạn trong ISO 14001 -
Công cụ quản lý môi trường hợp tác toàn cầu.
____________________
Harris Gleckman và Riva Krut.
ISO 14001 là bản phác thảo tiêu chuẩn quốc tế mới cho hệ thống quản lý
môi trường. ISO 14001 ra đời do sự thúc đẩy của một số thay đổi quan trọng của
các chính phủ, các sáng kiến đa ngành và của ngành các nước thương mại, nhưng
nó lại không thúc đẩy hội nhập với các sáng kiến này. thay vào đó, ISO tạo ra một
xu hướng phát triển song song và cho tới nay, đang dần dần đặt tiêu chuẩn này
vào vị trí của cái gọi là "con dấu xanh" cho các hoạt động thương mại hướng môi
trường. Trong khi đó, các ý tưởng vẫn tồn tại trước đây của các chính phủ đang
được coi là quá quan liêu, giáo điều và đưa ra các tiêu chuẩn mâu thuẫn kìm hãm
khả năng cạnh tranh của các ngành.
Mọi người, mọi ngành, nhất là các nhà chức trách, cần phải biết rõ hơn về
ISO 14001 để dánh giá đúng được về nó cũng như nó đã thể hiện trong một số
ngành thương mại riêng lẻ (nhất là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ), với các
chính phủ (gồm cả Tây Âu và các nước đang phát triển ), và với các Tổ chức phi
chính phủ. Bài báo này đưa ra 4 câu hỏi mấu chốt cho một tiền đề về chính sách
chung đảm bảo tính dân chủ trong hoạch định chính sách cho toàn cầu và tốt cho
môi trường.
Cũng như tất cả các cái phức tạp khác, mỗi câu đều có một câu trả lời
ngắn và một câu trả lời dài sau đây.
��������� Bài báo này không phải là một bản phân tích hay giới thiệu
chi tiết về loạt tiêu chuẩn ISO 14000 mà trong đó ISO 14001 chỉ là một loại tiêu
chuẩn. Nó chỉ đưa ra những câu hỏi được công chúng quan tâm nhiều nhất về ISO
14001 và mối liên quan của nó với toàn bộ loạt tiêu chuẩn ISO 14000 (1).
Ý tưởng mới này chỉ hiểu rõ được khi đặt trong bối cảnh là sự hội tụ của ba
dòng lịch sử.
1. Lịch sử của ISO và bối cảnh ra đời của ISO 14001:
��������� ISO - Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế - được thành lập vào
năm 1946 ở Genever với mục tiêu chính là tiêu chuẩn hoá các sản phẩm các nước
và hàng hoá tiêu dùng được đưa qua biên giới các quốc gia: để đảm bảo là các
đường ống dẫn nước có cùng độ dày, các thiết bị đo lường có cùng một cỡ
chuẩn, công nghệ viễn thông dùng cùng một dải tần... Nhiệm vụ của nó là tạo
diều kiện cho việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ, thúc đẩy hợp tác qua lại trong
những lĩnh vực quan trọng của con người như khoa học, công nghệ và kinh tế.
Các quyết định chuẩn hoá về công nghệ là trong nội bộ nghành, và ISO trở
thành cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc tế, hoạt động nhất quán với các cơ quan tiêu
chuẩn hoá quốc gia, các kỹ sư từ các cơ quan chính phủ và người đại diện cho các
ngành và cho người tiêu dùng, đặc biệt là các công ty xuyêh quốc gia vì các tiêu
chuẩn này là tối quan trọng đối với họ.
Trong những năm 1980, ISO đã mở rộng từ những yêu cầu về kỹ thuật và
công nghệ sang hoạt động theo phương thức quản lý " mềm" các hệ thống quản
lý chất lượng. Loạt ISO 9000 là kết quả của sự phát triển này. Là tiêu chuẩn cho
qúa trình xác nhận, một công ty đã thực hiện đúng hệ thống quản lý tiêu chuẩn
(2). Với loạt ISO 14000, ISO một lần nữa đã bước vào lĩnh vực quản lý tổ chức,
lần này là thiết lập cơ sở cho qúa trình xác nhận quốc tế cho các hệ thống hướng
quản lý môi trường, cả về mặt tổ chức và thực hành, Tuy nhiên, có sự khác biệt
về kết quả của ISO 9000 và Iso 14000. Ví dụ: Khi giới thiệu và áp dụng chính
sách " không có nhược điểm" cho nhà cung cấp, thời gian và giá thành sản xuất có
thể giảm, nhưng ISO 9000 thì xét về hiệu quả của doanh nghiệp, chứ không phải
của cộng đồng. Còn với ISO 14000, ISO đã tạo địa thế và mở đường cho các
ngành công thương nghiệp bước vào một lĩnh vực mới vốn là mối quan tâm chung
của công chúng: hoạt động hướng môi trường của các công ty.
��������� Với sáng kiến mới này, một bộ phận lớn trong nghành
thương nghiệp đã không lựa chọn các phương án nhiều cổ đông và chỉ làm viẹc
trong khuôn khổ ISO để đưa ra khái niệm về hệ thống quản lý quốc tế hướng
môi trường dựa trên nền tảng "khối tư nhân�. Làm như vậy, họ sẽ có xu hướng
xoá nhoà dần các ý tưởng quan trọng của các nghành, các chính phủ và các tổ
chức phi chính phủ đang ngày càng nâng cao mức độ quản lý công ty quốc tế (3).
Vì lý do này, việc hiểu rõ các tiêu chuẩn trong ISO 14000 là tối cần thiết, và rõ
ràng, khả năng cạnh tranh về công nghệ mà ISO 14000 mang lại không phải là
ngẫu nhiên.
Theo tài liệu đầy đủ của ISO 14001, ngôn ngữ vừa chính xác, lại vừa không
rõ ràng. [ I ]
��������� Một vấn đề liên quan nữa là thoả thuận đưa ra các tài liệu
liên quan đến " khía cạnh" môi trường chứ không phải chỉ là cái "tác động" tới
môi trường để chọn tiêu đề cho ISO 14001 là "xác nhận" hay " xác minh�, và
thay thế cam kết "không ô nhiễm" (có hậu quả theo luật định) bằng cam kết
"tránh ô nhiễm" ( không có hậu quả theo luật định và gồm cả các giải pháp xử lý
chất thải).
��������� Dịch từ " ISO" sang tiếng Anh cũng có thể gây ra nhầm
lẫn về ngôn ngữ. Từ "ISO" thường được dịch sang tiếng Anh không chính xác là
"Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế" thay vì là "Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế". Cách
dịch sai này không có trong các tài liệu chính thức của ISO hoặc trong các tạp chí
kỹ thuật, nhưng cũng có thể có trong các tạp chí chuyên nghành, báo chuyên
nghành của Tổ chức phi chính phủ và tài liệu chuyên dụng về thương mại. Sự
khác nhau này là vô cùng quan trọng. trong suy nghĩ của các nhà môi trường học,
các tiêu chuẩn hướng môi trường là một hệ nền được đặt ra cho công tác bảo vệ
môi trường. Việc tiêu chuẩn hoá phải làm hài hoà các quy trình và sự sắp xếp
chúng. Sự nhầm lẫn về tên riêng của ISO có thể làm ngươi ta nghĩ rằng tổ chức
này có nhiệm vụ thực thi các tiêu chuẩn này hơn là tiêu chuẩn hoá.
��������� Sự nhầm lẫn giữa khái niệm " tiêu chuẩn � và "tiêu
chuẩn hoá"; sự thay thế "tác động " bằng " khía cạnh" và "thực thi" bằng "thích
nghi" đã có nhiều kết quả. Nó đã dần đưa hệ thống ISO 14001 trở thành phương
tiện có hệ thống và toàn diện nhất để tiến tới quản lý phát triển bền vững và bảo
vệ môi trường trên toàn cầu(5), trong khi đó, nó cũng thực sự thay đổi xu hướng
tăng các tiêu chuẩn về thực hành hướng môi trường trên toàn cầu.
2. Bối cảnh ra đời của Luật thương mại quốc tế mới và Tổ chức
thương mại quốc tế
��������� Tiêu chuẩn thương mại quốc tế mới(WTO) thành lập vào
tháng 1/1995. Thoả thuận của WTO về hàng rào công nghệ trong thương mại
(TBTs) đẫ thay đổi bối cảnh các hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và các tiêu
chuẩn thực hành được thực hiện. Trong khi trước đây, việc thiết lập hệ tiêu
chuẩn quốc tế được các cơ quan chính phủ tiến hành trong một phạm vi lớn công
chúng và được coi là có tính quần chúng cao thì ngày nay, các tiêu chuẩn quốc tế
có thể chủ yếu do các thành phần thương nghiệp tư nhân và quần chúng không có
trách nhiệm đưa ra quyết định.
��������� Trong thoả thuận mới về TBTs, WTO có trách nhiệm làm
hài hoà các điều luật thương mại và tạo ra một môi trường thống nhất và có quy
luật hơn cho các hoạt động thương mại toàn cầu. Các cơ quan sáng lập tiêu chuẩn
thực hành quốc tế nào đạt được một số điều kiện, tiêu chí nhất định sẽ có quyền
tham gia ý kiến xây dựng các tiêu chuẩn hướng môi trường đã được WTO và các
thành viên của nó dùng làm cơ sở để xác định xem liệu các tiêu chuẩn về môi
trường sức khoẻ và an toàn của một quốc gia hay một địa phương có là cản trở
kỹ thuật cho thương mại hay không. Các Tổ chức xây dựng tiêu chuẩn quốc gia bị
buộc phải đi theo đường lối chỉ dạo của các cơ quan quốc tế ban hành cho dù tiến
trình này có làm thu hẹp phạm vi kiểm soát chính trị của quốc gia. Quá trình này
xảy ra là do sự hình thành của tiêu chuẩn ISO 14001. Hơn thế nữa, thoả thuận này
cho biết, nếu một tiêu chuẩn quốc tế "bị đe doạ" phải tuân theo ngay cả khi nó
không có vai trò chính thức nào ở thời điểm đó. Vì vậy mà bản phác thảo vai trò
của tiêu chuẩn quốc tế ISO 14001 cho thấy vị trí thực sự của tiêu chuẩn thương
mại quốc tế.
��������� WTO sẽ có quyền áp đặt các tiêu chí thiết lập, tiêu chuẩn
thực hành mới trong quá trình giải quyết tranh chấp: các nước thành viên có thể
không thừa nhận các tiêu chuẩn mà họ cho là vật cản cho thương mại. Thoả ước
chung về thuế quan và mậu dịch mới (GATT) tạo ra gánh nặng cho các nước
phản đối và có các phương pháp chặt chẽ hơn vê môi trường, sức khoẻ và an
toàn, để bảo vệ tính hợp pháp của các phương thức này, phải có các dẫn chứng
về khoa học và công nghệ, có giải thích điều kiện địa lý và khí hậu dựa trên các
tác động của chúng tới thương mại. Những nước không thể biện minh được
những ứng dụng của một số tiêu chuẩn cao hơn trong một số lĩnh vực cụ thể thì
sẽ phải lựa chọn: Hoặc là thay đổi tiêu chuẩn quốc gia của họ cho phù hợp với
tiêu chuẩn quốc tế và có nguy cơ sẽ bị thiệt hại về mặt tài chính; hoặc là trả
miếng lên các sản phẩm xuất khẩu khác. Không có một cơ chế cạnh tranh nào để
thử thách các tiêu chuẩn thấp hơn, cho dù các tiêu chuẩn này vẫn đật các tiêu chí
thiét lập chuẩn của WTO(7).
3. Bối cảnh ra đời của các ý tưởng quản lý phát triển bền vững cho công
ty và ngành thương nghiệp
Như tất cả các thành viên của quá trình này đều biết rất rõ, việc thiết lập tiêu
chuẩn thực hành hướng môi trường của tập đoàn toàn cầu là vô cùng khó khăn.
Tuy vậy, ngành thương mại quốc tế vẫn đang sẵn sàng đối mặt với vấn đề này
và đồng thời nâng cao chất lượng quản lý môi trường. Một số hiệp hội thương
mại quốc gia và quốc tế lớn ( bao gồm cả Hiệp hội các nhà sản xuất hoá chất
Canada, Văn phòng thương mại quốc tế, Keizai Doyukai Nhật Bản và Uỷ ban tư
vấn về môi trường và ngân hàng của UNEP) đã cam kết cho sử dụng các tiêu
chuẩn của nước bản xứ làm cơ sở cho các hoạt động ở nước ngoài.
��������� Các công ty còn đang đối mặt với vấn đề quản lý môi
trường sẽ phải công nhận một câu hỏi vô cùng khó là: lợi nhuận đến từ đâu trong
một hệ thống quản lý hướng môi trường trong điều kiện thị trường hiện nay.
Thương mại có xu hướng đầu tư hướng môi trường vào những nơi có thể mang
lại lợi nhuận trước mắt
��������� Ðồng thời, các công ty nào quan tâm tới lĩnh vực này sẽ
trải qua một quá trình làm nảy sinh câu hỏi lớn hơn: đó là quan hệ giữa nền công
nghiệp với môi trường là gì? Ví dụ: các nhà lãnh đạo thương nghiệp sẽ thử
nghiệm các phương pháp cải tiến để tạo ra những tiêu chuẩn thực hành hướng
môi trường toàn cầu mà không cần hy sinh tính tự do của khu vực này cũng như
khả năng cạnh tranh của công ty (9). Loạt ISO 14000 sẽ đi ngược lại xu hướng
này và sẽ cản trở thử nghiệm của các công ty đa quốc gia vì nó sẽ đưa ra một
bước đầu " dễ dàng" cho các công ty với ISO 14001, ngay cả khi họ không có các
tiêu chuẩn thực hành hướng môi trường tốt.
I. Câu hỏi I: ISO 14001 có giúp thực hiện chương trình 21 hay bất kỳ Công
ước quốc tế về môi trường hay không?
1.Câu trả lời ngắn:
��������� - Không. Nó làm đảo ngược xu hướng thiết lập tiêu chuẩn
thực hành hướng môi trường trên toàn cầu, từ công cộng thành tư nhân.
1. Câu trả lời dài:
��������� - Cộng đồng quốc tế và đa chính phủ đã bắt đàu xây dựng
những yếu tố ban đầu cho một hệ thống quản lý hướng môi trường toàn cầu,
thống nhất dữ liệu từ các nghành, các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ
(NGOs). Mức độ tham gia của các NGOs trong quá trình xây dựng thống nhất toàn
thế giới chưa từng tồn tại từ trước tới nay đang được coi như một tinh thần dân
chủ mới trong việc đưa ra những quyết định toàn cầu. Mặc dù ISO 14001 khẳng
định chương trình 21 là ý tưởng ban đầu của ISO 10, các cam kết trong ISO 14001
lại có vẻ lạc hậu hơn so với chương trình 21.
��������� Loại tiêu chuẩn ISO14000 không có bất kỳ phần trích dẫn
nào từ Nghị định thư Montreal, Công ước Basel, Công ước về thay đổi khí hậu,
công ước về đa dạng sinh học, nguyên tắc của các công nghệ nguy hiểm OECD
hay bất kỳ một thoả ước quốc tế hướng môi trường nào khác. Khía cạnh tương
đồng duy nhất là chúng đều phù hợp với luật pháp và các quy định pháp lý hiện
hành và mặc dù trong Phụ lục có trích dẫn Công ước 21, các nguyên tắc này cũng
không được nhắc lại trong loạt ISO 14000.
��������� Việc áp dụng hệ tiêu chuẩn này trong quản lý môi trường
toàn cầu có ý nghĩa rất lớn. Nó tạo ra xu hướng thiết lập tiêu chuẩn quốc tế về
thực hành hướng môi trường bằng cách tổng hợp các phương pháp thực hành tốt
nhất hiện có của các nghành và các quốc gia. Ví dụ: Chương trình 21 khuyến cáo
các công ty xuyên quốc gia nên báo cáo hàng năm về mức độ nhiễm độc hoá chất
ngay cả khi nước sở tại không yêu cầu, và phác thảo ra mẫu hình tiêu chuẩn kiểm
soát chất thải của Mỹ. Bên cạnh đó, chương trìmh 21 còn khuyên các công ty
xuyên quốc gia nên có những chính sách và cam kết tương đương hoặc không kém
chặt chẽ hơn các tiêu chuẩn hoạt động của nước bản xứ và khuyến khích đặt ra
các chính sách phát triển bền vững cho các công ty quốc tế. Hơn nữa, chương
trình 21 còn hướng cho các công ty chấp nhận các tiêu chuẩn về tính quần chúng
và đẩy mạnh các hoạt động hướng môi trường. Trong ISO 14001 không hề có các
lời khuyến cáo này mặc dù rất nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế lớn vẫn
đang cố gắng thực hiện chương trình này.
��������� Trong một vài năm qua, càng ngày càng có nhiều cam kết
thực hiện phát triển bền vững của các Ngân hàng phát triển quốc tế như Ngân
hàng thế giới và Ngân hàng tái thiết và phát triển Châu Âu. Sau khi chương trình
21 được chính phủ của một số quốc gia chấp nhận, các chính sách và hoạt động
của Ngân hàng thế giới, theo cách nói của họ, như được trải qua thời kỳ "cải lão
hoàn đồng", Ngân hàng thế giới không chỉ quan tâm tới môi trường khi lên kế
hoạch hành động mà còn mở rộng khái niệm quản lý môi trường sang cả các hoạt
động xã hội và các chi phí, lợi ích văn hoá xã hội(11). Theo một luật sư quốc tế
về môi trường người Mỹ, những ý tưởng mới hướng môi trường trong các Ngân
hàng đa phương đang làm hình thành một số chính sách về môi trường của nước
ngoài cũng như hoạt động hướng môi trường của một số công ty hiện đang thực
thi các dự án nước ngoài với các Ngân hàng này(12). Những người ủng hộ ISO đã
chứng minh rằng việc xác nhận tiêu chuẩn phải là một cam kết về môi trường
với bằng chứng là các công ty này thực hiện đúng ý tưởng thương nghiệp hướng
môi trường như trong chương trình 21. Nghị định thương mại của phòng thương
mại công nghiệp (ICC) về phát triển bền vững và chương trình bảo vệ nghành
công nghiệp hoá chất (13). Họ khẳng định sẽ cho những bằng chứng dễ hiểu về
mức độ tuân thủ theo tiêu chuẩn môi trường của một công ty và chứng minh rằng,
nhờ đó, chứng chỉ về môi trường sẽ giúp giảm chi phí pháp lý.
��������� Có thể chấp nhận phạm vi ảnh hưởng nhỏ hơn của ISO
14001 với những vấn đề tranh luận chỉ nằm trong giới hạn lịch sử của ISO -
nghĩa là chỉ tiêu chuẩn hoá các quy trình kỹ thuật và công nghệ trong công nghiệp.
Các thành viên ISO không muốn xem xét bất kỳ tiêu chuẩn công nghệ quốc tế hay
tiêu chuẩn liên chính phủ nào. Nhưng chính họ lại dang dần thay thế một phần
những hệ thống quản lý môi trường đang đề đạt ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế
bằng ISO 14001.
��������� Trong khi cố gắng tìm kiếm lợi ích với những tiêu chuẩn
môi trường quốc tế, bộ ISO 14000 đã để trượt những mục tiêu và nguyên tắc
pháp lý đã đạt được trong vòng 10 năm qua bằng các thoả thuận và công ước
quốc tế. ISO 14001 đang cố gắng khẳng định tính hợp pháp về chính trị và hợp lý
về khoa học của mình trong cộng đồng quốc tế và cố gắng đề ra các yêu cầu cho
bất kỳ hoạt động nào có tính công nghệ hoặc liên quan tới việc hoạch định chính
sách công cộng trong cộng đồng quốc tế trong các chính sách môi trường cần thiết
(như các yêu cầu trong kế hoạch kiểm toán và quản lý kinh tế (EMAS) của EU ).
II. Câu hỏi II: ISO 14001 có thể trở thành một tiêu chuẩn thương mại quốc
tế mà không cần có sự tham gia của các chính phủ ?
1. Trả lời ngắn:
- Có
1. Câu trả lời dài:
ISO là một cơ quan tiêu biểu về tiêu chuẩn kỹ thuật cho các nghành sản
xuất. Vì vậy việc đưa ra phác thảo và quyết định vẫn chủ yếu do các nghành kỹ
thuật và công nghiệp đảm nhiệm. Tuy nhiên, khi rời lĩnh vực tiêu chuẩn kỹ thuật
và sang lĩnh vực thiết lập các tiêu chuẩn cho quản lý môi trường toàn cầu, ISO đã
bước vào một mảnh đất vốn được công chúng quan tâm nhiều nhất. Thêm vào đó,
theo các đIều luật thương mại quốc tế mới, ISO lần đầu tiên có được quyền lực
pháp lý để thiết lập những tiêu chuẩn thương mại quốc tế sẽ được dùng để đánh
giá mức độ phù hợp của các tiêu chuẩn địa phương và quốc gia được thiết lập
công khai về an toàn, sức khoẻ và môi trường. Nói cách khác, về nguyên tắc, ISO
14001 đã trở thành tiêu chuẩn quốc tế mà không trức tiếp bị chi phối bởi ý kiến
quần chúng. Trên thực tế, người ta có mời các đạI biểu từ chính phủ và từ các
nhóm dân cư, tuy quá muộn mằn nhưng những lời mời này và các thành viên hiếm
hoi có mặt cũng giúp khẳng định tính công khai của công việc, cho dù vai trò thực
sự của họ đã bị bỏ qua.
��������� Ra quyết định trong ISO: Các chính phủ, các tiêu chuẩn phi
chính phủ công ty vừa và nhỏ và các nước đang phát triển đóng vai trò không đáng
kể trong việc dự thảo và ra quyết định với bộ ISO 14000. Chính phủ và nhân dân
có thể được mời tới làm quan sát viên trong các cuộc họp của hội đồng ISO,
nhưng các quyết định trong ISO chủ yếu do các hiệp hội thương mại và đại diện
cho các nghành sản xuất đưa ra. Các thành viên khác, cho dù được mời tới với
danh nghĩa "thành viên danh nghĩa" cũng không có quyền bỏ phiếu quyết định.
ÐIều này đã gây ra một ấn tượng sai lầm là các thành viên có mặt ở buổi họp với
tư cách "thành viên danh nghĩa" chỉ tới dự để khẳng định những khoản mục tiêu
chuẩn đã định từ trước. Các tiêu chuẩn phi chính phủ không được tham gia vào
các buổỉ thảo luận trước về bộ ISO 14000. Do vậy, luôn có một nhóm hoạt động
môI trường giữ liên lạc với TC 207 hoặc tham dự với tư cách quan sát viên trong
các cuộc họp. Nhờ đó, việc phác thảo ISO có thể được hoàn thành với sự giúp đỡ
tích cực của các NGOs.
��������� Một tờ báo ngành đã nhận xét: Công nghiệp, vốn có vai trò
phác thảo tiêu chuẩn, nay phải đối mặt với nhiệm vụ bán ISO 14001 cho các nhà
hành pháp, các nhà môi trường học và các thành viên khác trong lĩnh vực quản lý
môi trường. Các nhà môi trường học và Bộ môi trường của một số quốc gia đã
tìm phác thảo được mức nhu cầu cho lĩnh vực này.
��������� Ðiều này đã làm nổi bật sự khác biệt quan trọng trong quá
trình quyết định dân chủ so với các hệ thống tư nhân đóng. Trong một hệ thống
dân chủ, nếu một nhóm các công dân phản đói một quyết định chính trị nào đó, có
thể họ không thắng lợi về mặt kỹ thuật, nhưng sau đó họ sẽ có một địa vị chính
trị nhất định trong tiến trình chính trị hoặc trong hệ thống pháp luật. Trong một
cuộc tranh luận của ISO, mọi quyết định đưa ra thì không thể rút lại. Nó giảm
thiểu một cách hiệu quả áp lực từ phía công chúng hoặc từ các cơ quan nhà nước.
Trong khi nó không liên quan tơí các kỹ thuật truyền thống của ISO, nó vẫn trở
thành một yếu tó tối cần thiết cho ISO thâm nhập vào lĩnh vực chính sách. Hơn
nữa, vì những luật thương mại mới của WTO, quá trình quyết định được quan
tâm đặc biệt này có thể dẫn đến sự hình thành các tiêu chuẩn quốc tế mới.
��������� Cần phải lưu ý rằng tiến trình ISO cũng có xu hướng loại
trừ nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì trên thực tế họ không thể có đủ
vốn và đủ chuyên gia kỹ thuật để tham gia trực tiếp vào các vòng đàm phán(15).
Tương tự như vậy, các nghành và chính phủ các nước đang phát triển và các nước
chuyển đổi cũng không có cơ hội. Mặc dù ISO tuyên bố rằng các cuộc họp mời
đông đảo các đại diện, nhưng trên thưch tế, chỉ có những người được liên tục
tham gia các cuộc họp và tham giá các công việc dự thảo mới là những người thực
sự quyết định nội dung tiêu chuẩn ISO. ÐIều này có nghĩa là Uỷ ban dự thảo có ít
đại diện hơn nhiều so với uỷ ban kỹ thuật trong số đó có những người điều hành
từ các công ty quốc tế lớn, các hiệp hội tiêu chuẩn quốc gia và các cơ quan tư
vấn. 16 TC 207 bản thần nó đã có thể tư vấn cho các nước đang phát triển ra
nhập tiến trình muộn trong khi thời gian chuẩn bị đã qua rất lâu. Các daonh nghiệp
vừa và nhỏ cũng được mời tham dự muộn. ở Mỹ, có rất nhiều nhóm tư vấn kỹ
thuật tham gia và họ bỏ phiếu cho các vấn đề trước khi nó được trình lên ISO TC
207. Ða số các quyết định quan trọng liên quan tới nội dung và phạm vi đều đã
được hoàn thành. Do đó sự tham gia của họ chỉ có một ảnh hưởng rất nhỏ đến
sản phẩm cuối cùng.
Câu hỏi III: Mọi công ty được cấp chứng nhận ISO 14001 làm thế nào để thể
hiện rằng hoạt động của mình đảm bảo tính an toàn, bảo vệ môi trường và sức
khoẻ?
1. Câu trả lời ngắn:
-Không thể.
1. Câu trả lời đầy đủ:
- Có hai yếu tố liên quan tới nhau trong câu hỏi này.
��������� Thứ nhất: Các tiêu chuẩn về an toàn, sức khoẻ và môi
trường của ISO 14001 là tiêu chuẩn thích úng chứ không phảI là tiêu chuẩn thực
hành hàm chứa đIều gì.
��������� Thứ hai: Cốt lõi của việc quản lý môi trường, sức khoẻ và
an toàn trong dự thảo tiêu chuẩn quốc tế ISO 14001. ISO 14001 là một tiêu chuẩn
đặc định hoá nhằm thích ứng, không phải thực hành và bao quát các khía cạnh của
môi trường chứ không chỉ là ảnh hưởng môi trường, Một hệ thống quản lý môi
trường(EMS) ISO 14001 hoàn hảo sẽ giúp công ty có khả năng dự tính và kiểm
soát được các khía cạnh về môi trường trong hoạt động của mình. Trong bàI phát
biểu tạI MIT, Joe Cascio (chủ tịch nhóm tư vấn kỹ thuật ISO 14001 ) nói rằng ông
không quan tâm xem một công ty đổ bao nhiêu rác thải xuống sông. ÐIều quan
trọng là hệ thống quản lý môi trường (EMS) của công ty đó hiểu rõ đIều gì đang
xảy ra.
��������� Các hoạt động mang tính môi trường chỉ liên quan tới các
hoạt động chính yếu của EMS. EMS có thể được quy định nội bộ và kết quả
hoạt động của hệ thống được giữ bí mật. Người ta yêu cầu chính phủ và công
chúng phảI tin tưởng vào các báo cáo chứng thực mà các công ty được cấp ISO
14001.
1. CảI thiện môi trường hoạt động của họ phù hợp với các chính sách
môi trường.
2. Khi phát hiện các ảnh hưởng môi trường phải có phương thức sửa
chữa tình huống
Tuy nhiên, cần phảI nhớ ngụ ý của ông Cascio về rác thảI trên sông. Thực
hiện tốt các tiêu chuẩn ISO 14001 không cần thiét phảI cải thiện các hoạt động
môi trường của công ty. Hơn nữa, các yếu ttó liên quan tới ảnh hưởng của môi
trường đã dược đưa vào hoàn thiện cam kết kiểm tra các khía cạnh của môi
trường. Các cam kết về hoạt động môi trường đơn giản chỉ là các cam kết tuân
theo các quy chế có thể có.
Cốt lõi của các tiêu chuẩn môi trường, sức khoẻ và an toàn: Không có một
yêu cầu nào về tiêu chuẩn sức khoẻ và an toàn trong loạt ISO 14000 hiện hành.
Các tiêu chuẩn về sức khoẻ và an toàn vẫn bị dặt ra nhoàI các thảo luận về ISO.
Một cuộc họp vào mùa xuân 1996 đã quyết định rằng không cần thiết phải có một
tiêu chuẩn hướng dẫn quốc tế nào về môi trường, sức khoẻ và an toàn.
Tranh luận của doanh nghiệp về hệ thống quản lý hướng về thực hiện:
Thích ứng hơn là thực hiện, việc đánh giá định hướng đầu vào hơn là đầu ra của
ISO 14001 đI ngược lại với lý thuyết hiện tại của các doanh nghiệp. Có một chân
lý kinh doanh là: "Nếu bạn không biết mình đang làm gì.... ".
Cẩm nang quản lý nhấn mạnh tầm quan trọng của một doanh nghiệp trong
việc xác định mục đích và nhiệm vụ của mình và những bước đi chủ yếu để đạt
tới đích. Quan đIểm này đề cao tầm quan trọng của việc nhằm vào hiệu quả của
doanh nghiệp hơn là hiệu quả của quá trình. hệ thống quản lý này và các mẫu Tổ
chức phải tiến hành từ việc xác định các kết qủa cần đạt được tới việc tìm ra các
giảI pháp quản lý và cảỉ tiến hoạt động.
Mặc dù ISO 14001 yêu cầu công ty phải thông báo chính sách môi trường,
nêu ra các dự định và nguyên tắc về môi trường nhưng nó không đòi hỏi phải hợp
tác vì mục đích phát triển bền vững, hoặc, với vấn đề này, vì các giá trị hạn chế
ảnh hưởng môi trường nào khác trong chính sách các công ty.
IV. Câu hỏi IV: Các chính phủ, người làm công và công chúng làm cách nào
để có thông tin về môi trường do một công ty được cấp ISO 14001 chuẩn
bị?
1. Trả lời ngắn:
- Họ không thể. Ðã là bí mật của công ty, việc công ty công bố phải
rất cẩn trọng.
2. Trả lời đầy đủ:
- Theo như ISO 14001, thông tin môi trường được thu thập vì mục đích giúp cho
việc theo dõi và quản lý hệ thống quản lý môi trường của công ty và được coi là
bí mật của công ty.
Ðiều này đi ngược lại tất cả các Công ước quốc tế về môi trường và dẫn
đầu sáng kiến thử ngiệm quản lý môi trường của công ty. Các sáng kiến này đạt
được tiến bộ to lớn nhằm công khai hơn nữa các thông tin về môi trường theo yêu
cầu của công chúng trong các báo cáo của công ty. chương trình 21 đã thành lập
một mục " quyền được biết" và đề xuất một vài loại báo cáo đặc biệt. Từ đó, Tổ
chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đã tài trợ cho các hội thảo của các
chính phủ, các nghành công nghiệp và các Tổ chức phi chính phủ để thực hiện
giảm ô nhiễm của các quốc gia dựa trên tiêu chí kiểm soát chất thải độc của Mỹ.
Ðiều này sẽ tạo ra các phương tiện thông tin đại chúng có thể được sử dụng làm
chuẩn đánh giá của chính phủ và công ty về các hoạt động môi trường trong khi
kích thích và chuẩn bị chuyển sang các nghành sản xuất và sản phẩm sạch hơn.
Giữa các công ty quốc tế, mức độ công khai và số lượng các báo cáo là rất
khác nhau. Tuy vậy các nghành công nghiệp chủ đạo và các công ty quốc tế hiện
nay đang tiến hành báo cáo môi trường theo kỳ. ít nhất họ phải chỉ ra sự đầu tư
vào môi trường trách nhiệm và chi phí bỏ ra. Hơn thế, họ phải có cả các số liệu
về hoạt động và hoạt động có liên quan để giảm độc và nhiễm độc, giảm chất
thải, làm các phân tích chu kỳ sống phù hợp với dự án, mở rộng số lượng các cổ
đông trong và ngoài địa phương.
Ý kiến cốt lõicủa kế hoạch kiểm toán và quản lý kinh tế (EMAS) của liên
minh châu Âu đã từng yêu cầu công khai hoá là ở chổ áp lực của công chúng sẽ
tạo động lực cho các công ty cải thiện hoạt động môi trường. Tuy nhiên, để ý
kiến này có thể thành công, cần phải có sự công khai hoá các hoạt động môi
trường của công ty. Không có kiểm toán độc lập và công khai hoá, tự kiểm soát là
một phép nghịch hợp.
Chú thích:
��������� 1/. Phiên bản đầy đủ của văn bản này được Uỷ ban môi
trường châu Âu (EEB) xét duyệt cho một buổỉ hội thảo: "Thương mại tự do và
môi trường: Hợp tác giữa các tổ chức phi chính phủ (NGOs) của liên minh châu
Âu (EU) và các nước thế giới thứ 3: Một cuộc hội thảo quốc tế ", tổ chức tại
Brussel (Bỉ) ngày 26-28/10/1995. EEB dùng văn bản này làm cơ sở cho các ý kiến
tại cuộc họp " Bộ trưởng môi trường châu Âu" tại Sophia vào tháng 10/1995.
Manuela Soler và Peter Thimme đã giúp đỡ chúmg tôi hoàn thành vă bản này.
��������� (2). Tiền lệ sử dụng các Tiêu chuẩn quản lý chất lượng
làm tiêu chuẩn quản lý môi trường được sử dụng ở nước Anh trong BS 7750 ra
đời sau tiêu chuẩn quản lý chất lượng BS 5750. Xem Caroline Hemenway và
James Gildersleeve. ISO 14000 là gì? Hỏi và đáp (Fairfax, VI, CEEM Information
Service, 1995, trang 5).
��������� (3). Thậm chí nếu các cơ quan thiết lập tiêu chuẩn là các
cơ quan chính phủ chẳng hạn AFNOR của Pháp hoặc DIN của Ðức, họ vẫn là
đại diện của các công ty và nhà tư vấn đến dự họp ISO. Thêm vào đó, mặc dù
NGOs cũng đã tham gia vào tiến trình nhưng tiến trình vẫn diễn ra chậm và với
mức độ rất hạn chế.
��������� (4). Ví dụ từ các nghành: David Van Wie, Giám đốc công ty
dịch vụ môi trường Robert Geeber, Mỹ: "Tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế về hệ
thống quản lý môi trường (EMS) ( trình trước hội nghị quốc tế vùng Caribbe, tại
một cảng TBN, Trinidad, 20-24/3/1995 ), Công ty chiến lược MI, dự án 14000,
ISO 14000: Hỏi và đáp( Boston, mA, ML Strategies, Inc, 7/1995) và báo cáo môi
trường quốc tế, các báo cáo hiện tại, 10/1/1996, trang 1.
��������� (5). Mục "Phát triển bền vững" trong " Tiêu chuẩn: Dự
thảo tiêu chuẩn tư liệu ISO, thông qua, vận hành và khả năng ứng dụng" trong báo
cáo môi trường quốc tế 12/6/1995, trang 527.
��������� (6). Xem " Hiệp định về hàmg rào kỹ thuật đối với thương
mại. Quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn: Chuần bị, thông qua và ứng dụng của quy
định kỹ thuật của các cơ quan trung ương" trong luật cuối cùng trong vòng đàm
phán Urugoay: đàm phán mậu dịch đa biên ( Phiên bản 15/11/1993, MTN/ Pa II
ATA-6), Washington DC: Văn phòng đại diện thương mại Mỹ, Văn phòng điêù
hành của Tổng thống).
��������� (7). Giả sử một chuẩn quốc tế mới có thể khẳng định
rằng nó có một sự đánh giá phù hợp với các mục tiêu môi trường chẳng hạn, " nó
sẽ bị bác bỏ nếu tạo những cản trở không cần thiết cho thương mại quốc tế ".
Xem "Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại ", trang 3.
��������� (8). Xem (UNCTD) Hội nghị về thương mại và phát triển
của Liên Hợp Quốc, Bán quy chế của quản lý môi trường: Một sự phân tích chỉ
dẫn do Hiệp hội quốc tế đặt ra cho các hãng thành viên ( Environment Series no 5,
UNCTAD/ 29, Newyork, NY, UN, 1994).
��������� (9). Xem UNCTAD, quản lý môi trường trong các công ty
chuyển đổi, báo cáo về đánh giá kế hoạch khảo sát môi trường của công ty
( Environment Seris No 4, ST/CTC/149, NY, UN 1993).
��������� (10). Trong bài phát biểu về ISO 14000 cho nhóm làm việc
của MIT về vấn đề doanh nghiệp và môi trường, Boston, 25/7/1995, Joe Cascio,
Giám đóc IBM của EH&S Standasdisation, và chủ tịch của nhóm tư vấn kỹ thuật
Mỹ( US TAG) cho hội đồng kỹ thuật 2C7 ISO về quản lý môi trường, và một
kiến trúc sư hàng đầu của Mỹ nói rằng UNCED là chất xúc tác cho ISO 14000.
ÐIều này, một lần nữa lại được lặp lại trong Dự thảo của hội đồng ISO TC 207
nội địa, hướng dãn các nguyên tắc quản lý môi trường, hệ thống và trợ giúp kỹ
thuật, do ISO/ TC 207/SCI/WG 2 chuẩn bị 2/9/1994, trang 1.
(11). Xem Ngân hàng Thế giới, hướng phát triển của môi trường, Tập đoàn Ngân
hàng Thế giới và môi trường từ Hội nghị cấp cao về môi trường(Tóm lược
(Washington DC: the World Bank, 1995).
��������� (12). David Hackett, luật sư môi trường quốc tế có trụ sở
tại Chicago, phát biểu tại hội nghị môi trường quốc tế hàng năm lần thứ 6,
17/10/1995, trong báo cáo môi trường quốc tế,1/11/1995, trang 826.
��������� (13). Dự thảo uỷ ban ISO TC 207, hướng dẫn các nguyên
tắc quản lý môi trường, hệ thống trợ giúp kỹ thuật, do ISO/ TC 207/ SC1/WO2
chuẩn bị vào 2/9/1994 chỉ ra tất cả 27 nguyên tắc của chương trình 21 và toàn bộ
nghị định thương mại của ICC về phát triển bền vững, trong phần phụ lục trang
51 - 59.
��������� (14). Environment Watch: Westerrn europe, 17/3/1995, trang
8.
��������� (15). Ðặc biệt, ở Mỹ, các công ty vừa và nhỏ không có vai
trò đáng kể, Mory Mc Kiel, Giám đốc của mạng lưới tiêu chuẩn EPA chỉ ra rằng
quy trình bất dân chủ cố hữu này không thể đạt được tiêu chuẩn để sống được
trong nghành. Nêu ra trong " EPA phủ quyết các tiêu chuẩn trong bộ luật" trong hệ
thống môi trường cập nhật, Vol 2, No 6, p 5 - 6, Naomi Roht - Arriaza chỉ rõ trong
khi dự định của mọi cuộc họp trên khắp thế giới là đưa kêt quan trọng của các
cuộc họp đó tiếp cận tới cuộc sống của nhân dân ở đó thì tất cả các chi phí về tài
chính thời gian ở úc, Nam phi và Pháp đều được cộng gộp lại. Xem Naomi Roht
Arriaza, thay đổi quan điểm về Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế và xây dựng luật
Thương mại và môi trường toàn cầu, San Fransisco, 3M và Arco đã có vai trò quan
trọng ( Whitman Bassow, " Sức lôi cuốn của ISO và các tiêu chuẩn quốc tế " trong
" Bảo vệ môi trường", 1994, p 12).
(16). Xem Henmenway và Gildersleeve, op.cit, trang 20.
(17). Hội nghị thương mại và phát triển của LHQ, Qui tắc riêng cho quản lý môi
trường, xem cùng Tiêu chuẩn quản lý môi trường quốc tế, � phiên bản phức tạp
hơn của ISO 9000� trong ASTM Standardisation News, Ap 1994.
��������� (18). Xem Eric Howard � OSCD - Sự thành lập của trung
tâm chuyển giao và hạn chế ô nhiễm quốc gia � trong RECIEL: Tổng kết của
Hội Ðồng Chẩ Âu và Luật quốc tế, Vol 2, No 2, 1995, p 195 - 196.
��������� (19). Báo cáo của Quỹ động vật hoang dã thế giới cho
thấy 130 công ty ở châu Âu và Bắc Mỹ đã có các baó cáo về môi trường. Xem
Irwwin et.al., A. Benchmark Báo cáo về thiết bị công nghiệp và hóa chất
( Baltimore, md, WWF, 1995).
��������� (20). Xem Harris Gleckman, � Phản ứng chiến thuật của
các công ty chuyển đổi với phát triển bền vững trong Green Globe 1995( Oxford,
UK, Oxford Univercity Press, 1995).