PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Việt Nam có vị trí địa kinh tế - chính trị đặc biệt quan trọng trong khu vực Đông Nam á. Biển Việt Nam giữ vai trò quan trọng về môi trường, sinh thái của khu vực, là vùng chuyển tiếp đặc biệt giữa Thái Bình Dương và ấn Độ Dương về mặt địa lý, sinh thái và hàng hải. Sự phát triển của nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chắc chắn phải gắn kết với lợi thế và tiềm năng to lớn của biển. Thế nhưng, vùng biển Việt Nam đang phải...
1
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Việt Nam có vị trí địa kinh tế - chính trị đặc biệt quan trọng trong khu vực Đông Nam á. Biển Việt
Nam giữ vai trò quan trọng về môi trường, sinh thái của khu vực, là vùng chuyển tiếp đặc biệt giữa
Thái Bình Dương và ấn Độ Dương về mặt địa lý, sinh thái và hàng hải. Sự phát triển của nền kinh tế đất
nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chắc chắn phải gắn kết với lợi thế và tiềm năng to lớn
của biển. Thế nhưng, vùng biển Việt Nam đang phải chịu nhiều áp lực, đứng trước nhiều nguy cơ, đòi
hỏi phải thực hiện một loạt giải pháp cần thiết để phát triển thực sự bền vững.
Lợi thế
Bờ biển Việt Nam dài trên 3.200 km với 114 cửa sông lớn nhỏ. Hàng năm, các sông đổ ra biển khoảng
880 tỷ mét khối nước và 250 triệu tấn bùn cát (tập trung chủ yếu ở hai cửa sông lớn là sông Hồng và sông Mê
Kông), cung cấp cho biển nguồn dinh dưỡng to lớn và mở lấn ra biển gần 1.000 ha đất bồi. Đất ngập nước
ven biển có vai trò to lớn về sinh thái và môi trường, có giá trị sử dụng cho khai hoang phát triển nông nghiệp,
nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng cơ sở hạ tầng... Việt Nam có trên 3.000 hòn đảo ven bờ với diện tích hơn
1.600 km2, có nhiều giá trị quý như đất sinh cư, du lịch sinh thái, xây dựng cơ sở hạ tầng khai thác biển...
Vùng ven bờ biển với các vùng cửa sông, đầm phá, vũng vịnh, đảo, bãi cát biển, hang động... có tiềm
năng lớn đối với phát triển du lịch - dịch vụ. Hệ thống bãi biển (với 125 bãi có giá trị cao, đẹp nổi tiếng như Trà
Cổ, Cửa Lò, Lăng Cô, Đà Nẵng...) đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước mỗi năm. Hiện cả
nước có trên 40 cảng biển lớn nhỏ (theo quy hoạch đến năm 2010 là 104) là lợi thế về vận tải và giao thương
trong nước cũng như quốc tế. Biển còn ẩn chứa trong mình nhiều nguồn lợi về khoáng sản như dầu khí, than
đá, sa khoáng titan, zircon, monazit, cát thuỷ tinh... Vùng ven biển có khoảng 100 mỏ khoáng sản, đặc biệt vật
liệu xây dựng rất phong phú về chủng loại và giàu về trữ lượng. Dầu khí thềm lục địa có trữ lượng khoảng 3 tỷ
tấn, trữ lượng công nghiệp được xác định khoảng 1, 2 tỷ tấn, sản lượng khai thác đạt khoảng 20 triệu tấn
/năm. Các hệ sinh thái ven biển như cửa sông, đầm phá, vũng vịnh, rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ
biển... có năng suất và đa dạng sinh học cao. Hệ sinh thái nước trồi tạo nên các ngư trường nổi tiếng ngoài
khơi như Bình Thuận, tây nam Cà Mau, Bạch Long Vỹ. Có tới 11.000 loài sinh vật thuỷ sinh và 1.300 loài sinh
vật trên đảo đã được biết đến ở biển Việt Nam, trong đó có khoảng 6.000 loài động vật đáy và 2.000 loài cá.
Có 83 loài sinh vật biển được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam (37 loài cá, 6 loài san hô, 5 loài da gai, 4 loài tôm
rồng, 1 loài sam, 21 loài ốc, 6 loài động vật hai mảnh vỏ và 3 loài mực). Biển Việt Nam có 110 loài cá kinh tế
thuộc 39 họ, tổng trữ lượng cá biển khoảng 3-3, 5 triệu tấn và khả năng khai thác cho phép là trên một triệu
tấn mỗi năm. Ngoài cự, còn có nguồn lợi động vật thân mềm (hơn 100 loài) với trữ lượng đáng kể, có giá trị
kinh tế cao. Rong biển có 90 loài (sử dụng cho chế phẩm công nghiệp 24 loài, dược liệu 18 loài, thực phẩm 30
loài, thức ăn gia súc 10 loài và phân bón 8 loài). Tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ trong các vùng
cửa sông, đầm phá và vũng vịnh rất lớn. Nuôi trồng sinh vật biển cũng đã đóng góp một sản lượng lớn thuỷ
sản cho thực phẩm, dược phẩm, vật liệu công nghiệp, mỹ nghệ phục vụ nội tiêu và xuất khẩu.
Áp lự c
Vùng ven biển là nơi phát triển kinh tế năng động và có mật độ, tốc độ phát triển dân số cao. Dọc bờ
biển có tới 12 đô thị lớn, 40 cảng, hàng trăm bến cá và khoảng 238.600 cơ sở sản xuất công nghiệp. Hoạt
động du lịch, dịch vụ và quá trình đô thị hoá đang gia tăng mạnh. Sản lượng khai thác cá biển, mà 80% là từ
vùng nước ven bờ đã vượt mức cho phép. Diện tích đầm nuôi thuỷ sản nước mặn, lợ tăng từ 230.000 ha
(năm 1998) lên 592.000 ha (năm 2003). Phương tiện giao thông thủy ngày càng nhiều, sản lượng khai thác và
vận chuyển dầu khí trên biển không ngừng tăng, gây nên tình trạng ô nhiễm dầu trên diện rộng. Tràn dầu là tai
biến đáng báo động, đến nay đã có trên 40 vụ, điển hình như tai nạn tàu Neptune Aries làm tràn 1.865 tấn dầu
vào năm 1994 tại cảng Sài Gòn. Trong số các nguồn ô nhiễm dầu, lớn nhất là nguồn từ tuyến hàng hải quốc
tế. Khai thác khoáng sản ven biển như than, vật liệu xây dựng, sa khoáng đã làm biến dạng cảnh quan, gây ô
nhiễm môi trường và làm tăng xói lở bờ biển. Riêng mỏ than Quảng Ninh mỗi năm đã thải ra khoảng 13-19
triệu mét khối đất đá và khoảng 30-60 triệu mét khối chất thải lỏng.
Rừng bị tàn phá nặng nề do chiến tranh, thiên tai và khai thác quá mức của con người. Ngoài ra, hệ
thống đập - hồ chứa trên lưu vực cũng làm thay đổi lớn lượng tải, phân bố nước và trầm tích đưa ra biển. Sự
mất đi một lượng lớn nước ngọt, trầm tích và dinh dưỡng do đắp đập ngăn sông đã gây ra những tác động
lớn cho vùng ven biển như xói lở, xâm nhập mặn, thay đổi chế độ thủy văn, mất nơi cư trú và bãi giống, bãi đẻ
2
của sinh vật, suy giảm sức sản xuất của vùng biển ven bờ, gây thiệt hại về đa dạng sinh học, nguồn lợi thủy
sản đánh bắt và nuôi trồng. Việt Nam có trên 650 đập - hồ chứa cỡ lớn, vừa và hơn 3.500 đập - hồ chứa cỡ
nhỏ, tổng sức chứa các đập - hồ thuỷ điện trên hệ thống sông Hồng bằng 20% tổng lượng dòng chảy năm của
hệ thống này. Trên thượng lưu sông Mê Kông, Trung Quốc đang phát triển mạnh các đập - hồ chứa, dự kiến
đến 2010 sẽ có 8 đập - hồ chứa lớn với tổng dung tích trên 40 km3 và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến vùng ven
biển Việt Nam. Với diện tích nông nghiệp trên 7 triệu héc ta (60% là lúa), hàng năm, một dư lượng đáng kể
phân bón hoá học và hoá chất bảo vệ thực vật theo sông chảy ra gây ô nhiễm môi trường biển. Dân số gia
tăng, tốc độ đô thị hoá nhanh, hoạt động công nghiệp và giao thông đã phát thải một lượng lớn các chất thải,
chủ yếu chưa được xử lý, gây ô nhiễm môi trường vùng ven biển. Hoạt động du lịch cũng gây áp lực lớn cho
môi trường (chỉ riêng hoạt động này trong năm 2003 đã thải ra 32.273 tấn rác và 4.817.000 m3 nước thải)...
Thiên tai, thậm chí khả năng xuất hiện động đất và sóng thần, ảnh hưởng lớn đến khả năng phát triển
bền vững vùng biển. Mực nước dâng cao dẫn tới ngập lụt ven biển, nhiễm mặn, xói lở, sa bồi làm đảo lộn cân
bằng tự nhiên và sinh thái. Phân bố mưa và bão thất thường, có xu hướng giảm dần ở Bắc Bộ, tăng lên ở
Trung Bộ và dịch về phía Nam.
Xói lở bờ biển tăng cả về quy mô và tính chất nguy hiểm. Có đến 397 đoạn bờ đã và đang bị xói lở với
tổng chiều dài 920 km, tốc độ phổ biến 5-10 m/năm, cá biệt 30-50 m/năm. Sa bồi là tai biến phổ biến, có tác
động tiêu cực đến cảng biển. ở ven biển miền Trung, sa bồi làm lấp các cửa sông và đầm phá, làm các vực
nước ven biển bị ngọt hoá, ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ, mất lối ra biển và gia tăng ngập
lụt.
Như vậy có thể thấy, sự phát triển kinh tế, dân số, diễn biến bất thường của khí hậu và thiên tai đã tác
động lớn đến tài nguyên và môi trường biển. Vùng biển Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phát triển thiếu
bền vững.
Giải pháp cho phát triển bền vững
Để hướng tới phát triển bền vững, trước hết phải có sự đánh giá đầy đủ về điều kiện tự nhiên, tiềm
năng phát triển, hiện trạng và những biến động về tài nguyên và môi trường biển. Vì vậy, cần tiến hành điều
tra, nghiên cứu có hệ thống về biển, xây dựng cơ sở dữ liệu và thường xuyên cập nhật thông tin, kết quả điều
tra, nghiên cứu mới. Tiến hành định kỳ các hoạt động quan trắc, giám sát tài nguyên và môi trường biển. Xây
dựng các trạm cảnh báo thiên tai (động đất, sóng thần, núi lửa, nước dâng, ngập lụt, sa bồi, xói lở, xâm nhập
mặn, tràn dầu, hoá chất, thuỷ triều đỏ...). Giám sát và đánh giá mức độ suy thoái của tài nguyên các hệ sinh
thái biển. Quyết định (số 47/2006/QĐ-TTg ngày 1.3.2006) của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án tổng
thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn 2020” với danh mục
20 nhiệm vụ - đề án là một mốc quan trọng đối với công tác điều tra và nghiên cứu biển, thể hiện quyết tâm
theo định hướng phát triển bền vững của Việt Nam.
Chúng ta đã có một hệ thống cơ sở pháp lý làm nền tảng cho quản lý và phát triển vùng biển, đã tham
gia các công ước quốc tế. Đã có các tuyên bố về chủ quyền trên biển, các chiến lược và kế hoạch quốc gia,
Luật Bảo vệ môi trường và nhiều văn bản dưới luật. Tuy nhiên, cần có sự phân cấp, định rõ trách nhiệm về
quản lý tài nguyên - môi trường và kinh tế biển, ứng cứu sự cố môi trường. Chúng ta cần củng cố và cải tiến
cơ cấu tổ chức quản lý và bảo vệ theo các vấn đề như các nhân tố gây tác động từ trên lưu vực, xuyên biên
giới - lãnh thổ; chất lượng môi trường; nơi sinh cư và các hệ sinh thái; đất ngập nước; phòng chống thiên tai
và ứng cứu các sự cố môi trường, an ninh và tìm kiếm cứu nạn trên biển... Tiếp tục xây dựng, bổ sung và
hoàn chỉnh các văn bản pháp quy liên quan đến phát triển bền vững vùng biển và dải ven bờ biển. Xây dựng
chiến lược và các chương trình, kế hoạch hành động, các dự án ưu tiên để kiểm soát ô nhiễm, ngăn ngừa suy
thoái, phát triển tài nguyên, cảnh báo thiên tai và ngăn ngừa sự cố môi trường trên biển. Phát huy thế mạnh
của nền kinh tế thị trường đối với khai thác tiềm năng và bảo vệ môi trường vùng biển. ưu tiên đầu tư phát
triển kinh tế biển. Ngoài việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, Nhà nước cần giữ vai trò điều hành và
quản lý một số lĩnh vực kinh tế chủ chốt, an ninh - quốc phòng và chủ quyền quốc gia trên biển.
Tăng cường xây dựng tiềm lực cho các cơ quan nghiên cứu, quản lý tài nguyên - môi trường biển.
Từng bước khắc phục tình trạng lạc hậu, thiếu đồng bộ về phương pháp, thiết bị khảo sát và phân tích. Chú
trọng đào tạo cán bộ khoa học, chuyên gia và lao động chuyên nghiệp biển từ các trường đại học, dạy nghề
và thông qua các dự án phát triển. Xây dựng một hệ thống các cơ quan chuyên trách điều tra nghiên cứu cơ
bản và ứng dụng công nghệ về biển đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế biển và đảm bảo an ninh -
3
quốc phòng, đảm bảo bình đẳng trong hợp tác quốc tế song phương và đa phương trên vùng biển Việt Nam
và trên Biển Đông. Phấn đấu xây dựng nền tảng cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ biển (đội tàu nghiên cứu, các trạm quan trắc môi trường và cảnh báo thiên tai, các phòng thí nghiệm
trọng điểm và các cơ sở thực nghiệm). Tăng tỷ lệ ngân sách cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ, đặc biệt cho phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, đánh giá và phát hiện mới tài nguyên biển.
Đẩy mạnh ứng dụng các giải pháp khoa học và công nghệ tiên tiến trong khai thác tiềm năng và bảo vệ
tài nguyên - môi trường biển: Xây dựng công trình trên biển, dự báo, thăm dò khoáng sản và nguồn lợi nghề
cá, ứng dụng công nghệ vệ tinh màu nước dự báo ngư trường, nuôi trồng thuỷ sản hiệu suất cao không gây ô
nhiễm môi trường, giải quyết vấn đề nước ngọt cho vùng ven biển và các đảo xa bờ, phát triển các nguồn
năng lượng sạch có nguồn gốc từ biển (gió, sóng, thuỷ triều, dòng chảy...), tách chiết các hợp chất thiên nhiên
có giá trị cao từ nguồn vật liệu biển và chế biến các sản phẩm biển. Tăng cường các hoạt động dịch vụ và
trung chuyển trên biển để hỗ trợ phát triển kinh tế đảo và xa bờ; phát triển mạnh cảng - hàng hải, du lịch sinh
thái và các dịch vụ đi kèm.
Tăng cường an ninh - quốc phòng, chống nạn cướp biển và khai thác tài nguyên trái phép là một giải
pháp đảm bảo phát triển bền vững, giữ vững chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Tăng cường kiểm tra
nhằm đảm bảo an toàn môi trường và an ninh tài nguyên, giám sát và xử phạt các vi phạm trên biển. Phát
hiện và kịp thời xử lý các vụ vi phạm như vận chuyển và đổ thải trái phép các chất gây ô nhiễm, sử dụng các
hình thức khai thác huỷ hoại tài nguyên, vi phạm trong các vùng bảo vệ nghiêm ngặt. Gắn kết phát triển kinh
tế với an ninh - quốc phòng và bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển, phối hợp tốt các tổ chức kinh tế và các cơ
quan quản lý tài nguyên - môi trường với các tổ chức tìm kiếm cứu nạn trên biển, cảnh sát biển, hải quân và
bộ đội biên phòng.
Thực hiện đánh giá tác động môi trường và ưu tiên triển khai các dự án quản lý, bảo vệ tài nguyên -
môi trường biển như xử lý các chất thải, phục hồi nơi sinh cư của các loài quý hiếm, đặc hữu và các hệ sinh
thái đặc thù, ứng cứu các sự cố môi trường, đặc biệt là tràn dầu trên biển. Phát triển các mô hình quản lý tổng
hợp biển và dải ven bờ, kết hợp với quản lý lưu vực thượng nguồn. Phát triển các khu bảo tồn biển như là một
quốc sách phát triển bền vững, vì ngoài việc duy trì các giá trị về tự nhiên, đa dạng sinh học và khoa học, nó
còn mang lại những lợi ích kinh tế to lớn cho du lịch sinh thái và phát triển nghề cá. Quan tâm phát triển các
dạng bảo tồn thiên nhiên khác như di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển và khu đất ngập nước có tầm quan
trọng quốc gia.
Giáo dục, tuyên truyền, nâng cao trách nhiệm và ý thức cộng đồng trong công tác bảo vệ tài nguyên -
môi trường, hướng tới phát triển bền vững vùng biển. Xây dựng ý thức mới “bảo vệ tài nguyên - môi trường
biển là trách nhiệm, là hành động yêu nước của mỗi người”. Hỗ trợ và quan tâm xoá đói giảm nghèo cho cộng
đồng dân cư trên đảo và ven biển.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá để hội nhập và thực thi các công ước quốc
tế liên quan đến biển. Thúc đẩy nghiên cứu và đàm phán nhằm sớm hoàn thiện việc xác lập biên giới và chủ
quyền hợp pháp trên biển. Phối hợp giám sát nguồn chất thải xuyên biên giới và ứng cứu các sự cố môi
trường tại các vùng giáp ranhT; tham khảo kinh nghiệm, tranh thủ sự hỗ trợ, khuyến khích hòa nhập các
chương trình quốc tế về tài nguyên - môi trường biển. Mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế về thông tin tư
liệu, đào tạo, hội thảo, tham quan trao đổi, tham gia các chương trình, dự án khu vực hoặc toàn cầu. Tham gia
các tổ chức, các hoạt động trong các mạng lưới quốc tế về biển, tạo điều kiện để giao lưu, nâng cao trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm và cập nhập thông tin khoa học và công nghệ về biển. ưu tiên các hướng nghiên
cứu khoa học và công nghệ cao để tiếp cận trình độ khu vực về một số mặt có liên quan đến lợi ích bình đẳng
khai thác các vùng nước giáp kề, các vùng chồng lấn hoặc tranh chấp.
Cần một tầm nhìn mới về môi trường biển
(VP21-TNMT) - Nghị quyết về chiến lược biển đến năm 2020 do Hội nghị lần 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X đầu năm 2007 đã đề ra “Phấn đấu đưa kinh tế biển đóng góp khoảng 53% - 55% GDP và 55% - 60% kim
ngạch xuất khẩu của cả nước”. Trong khi đó, những vấn đề về môi trường biển của Việt Nam đang nổi lên ngày
càng gay gắt. VietNamNet xin giới thiệu loạt bài của ông Ngô Lực Tải, Phó Chủ tịch Hiệp hội Khoa học Kỹ thuật
biển.
4
Sự tiến hóa của loài người được gắn kết với biển
Biển và đại dương chiếm 71% bề mặt của hành tinh xanh. Lịch sử tiến hóa của loài người luôn được gắn kết với biển.
Văn minh nhân loại càng phát triển thì giá trị của biển càng được tôn vinh. Ngành hàng hải ra đời, biển và đại dương
chẳng những là cầu nối giữa các châu lục, các quốc gia, mà còn là tài sản vô giá của trái đất.
Công ước năm 1982 của Liên Hiệp Quốc về luật biển, một văn kiện lịch sử có tầm vóc thời đại, đã được áp dụng trên
toàn thế giới để điều tiết các quan hệ trên biển giữa các quốc gia. Trong Công ước có ghi rõ: "Biển và đại dương là di sản
chung của nhân loại”. Đương nhiên, buộc chúng ta phải có một cách nhìn nghiêm túc trong việc bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển.
Biển và vị trí địa kinh tế của Việt Nam
Biển Đông với diện tích 3.447.000km vuông, một trong 6 biển lớn nhất của thế giới, nối hai đại dương là Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương, có 9 quốc gia bao bọc: Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia,
Singapore, Thái Lan và Campuchia. Đây là con đường chiến lược của giao thương quốc tế, có 5/10 tuyến đường hàng
hải lớn nhất của hành tinh đi qua. Hàng năm, vận chuyển qua biển Đông là khoảng 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu từ
Trung Đông và Đông Nam Á, khoảng 45% hàng xuất của Nhật, và 60% hàng xuất nhập khẩu của Trung Quốc.
Vùng biển Việt Nam rộng khoảng 1 triệu km vuông, án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch giữa Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực.
Bờ biển Việt Nam dài 3.260km, bao bọc lãnh thổ Việt Nam ở cả 3 hướng Đông, Nam và Tây Nam, trung bình 100km
vuông đất liền có 1km bờ biển (cao gấp 6 lần tỷ lệ này của thế giới). Dọc bờ biển có một số trung tâm đô thị lớn, 90 cảng
biển lớn nhỏ và gần 100 địa điểm có thể xây dựng cảng (kể cả cảng ở qui mô trung chuyển thế giới), 125 bãi biển có
cảnh quan đẹp, trong đó có 20 bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế để phát triển du lịch biển. Ven bờ biển có nhiều loại khoáng sản
và vật liệu xây dựng quan trọng phục vụ phát triển công nghiệp và hơn 6 vạn héc ta ruộng muối biển.
Ngoài ra, Việt Nam còn có nhiều vịnh đẹp (Hạ Long, Bái Tử Long, Vân Phong, Cam Ranh, Nha Trang…) và 2.779 hòn
đảo lớn nhỏ với tổng diện tích 1.636km vuông. Tuy phân bổ các đảo không đều, nhưng tất cả các vùng biển ven bờ Việt
Nam đều có các đảo che chắn ở mức độ khác nhau. Dân số vùng duyên hải chiếm khoảng 39% dân số cả nước.
Với vị trí địa kinh tế rất thuận lợi và tốc độ tăng trưởng nhanh trong những năm qua, biển Việt Nam đang góp phần xứng
đáng để đưa đất nước trở thành vị thế một trong những quốc gia biển có nền công nghiệp hàng hải mạnh ở khu vực và
trên thế giới vào những năm tới.
5
Đánh giá đúng tiềm năng để hoạch định chiến lược
Tiềm năng và nguồn lợi biển của Việt Nam là yếu tố và tác nhân cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước hiện nay và trong tương lai.
Dầu khí: Tổng trữ lượng dự báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai
thác 4 – 5 tỷ tấn. Trữ lượng khí đồng hành 250 – 300 tỷ m3. Dầu khí đang có triển vọng lớn với điều kiện khai thác thuận
lợi.
Hải sản: trữ lượng đánh bắt khoảng 3 – 3,5 triệu tấn, cơ cấu hải sản rất phong phú, có giá trị kinh tế cao, chưa được khai
thác đúng mức, chỉ mới đạt 60% mức có thể khai thác được hàng năm.
Vận tải biển: Ngành vận tải biển của Việt Nam mới chỉ chiếm 16% thị phần hàng hóa xuất nhập khẩu của quốc gia.
Cảng biển và kết cấu hạ tầng: Nói chung còn yếu, hoạt động hiệu quả chưa cao, trong số 90 cảng biển chỉ có 10 cảng
có công suất thông qua trên 1 triệu tấn/năm.
Công nghiệp tàu biển: Vừa khởi sắc trong 3 năm gần đây, đã đóng nhiều chủng loại tàu có trọng tải lớn đến 10 vạn tấn
để xuất khẩu, là ngành mũi nhọn của kinh tế biển, hứa hẹn nhiều triển vọng tốt.
Du lịch biển và các ngành dịch vụ biển khác: Đang mới ở giai đoạn xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, bước đầu
đã đóng góp khiêm tốn tăng trưởng GDP, tiềm năng vẫn còn lớn nếu biết phát huy thế mạnh của quốc gia biển.
Định hướng kinh tế biển
Kinh tế biển Việt Nam những năm đổi mới đã tăng trưởng đáng kể về qui mô và thay đổi rõ rệt về ngành nghề, đóng góp
quan trọng cho tăng trưởng GDP của quốc gia, biến đổi nhanh chóng diện mạo đất nước. Tuy nhiên nếu so sánh với một
số nước có biển trong khu vực thì giá trị hoạt động của kinh tế biển Việt Nam chỉ bằng 24% của Trung Quốc, 14% của
Hàn Quốc và 1% của Nhật Bản. Với hiện trạng trên, đòi hỏi có một sự bức phá và nhảy vọt đáng kể trong thập niên tới để
có thể đuổi kịp các nước phát triển ASEAN.
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X từ ngày 15 – 24/1/2007 tại Hà Nội đã ra “Nghị quyết về
chiến lược biển đến năm 2020”. “Phấn đấu đưa kinh tế biển đóng góp khoảng 53% - 55% GDP và 55% - 60% kim ngạch
xuất khẩu của cả nước”.
Những tiêu chí trên thể hiện rõ tầm quan trọng của biển Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Bảo vệ môi trường biển để nâng cao hiệu quả khai thác biển
Muốn khai thác có hiệu quả biển Việt Nam theo những mục tiêu của Nghị quyết về chiến lược biển đến năm 2020 của
Trung ương, một mặt chúng ta cần tập trung đầu tư vật chất, nhân lực và công nghệ hiện đại cho các ngành sản xuất
kinh doanh, dịch vụ thuộc kinh tế biển, đồng thời cần phải nâng cao và tăng cường quản lý, bảo vệ gìn giữ môi trường
biển tốt hơn, bền vững hơn. Sử dụng hiệu quả tiềm năng phải đi cùng với tái tạo, bởi vì trong quá trình sử dụng, khai thác
không thể tránh khỏi ô nhiễm môi trường cũng như sự cố thiên nhiên.
Sự kiện dầu tràn vào bờ biển của 12 tỉnh thành ở miền Trung và miền Nam hồi đầu tháng 1/2007 cho đến nay vẫn còn
tiếp diễn và cũng chưa xác định được nguyên nhân, đủ để cảnh tỉnh chúng ta về bảo vệ môi trường biển trong thời gian
tới
Biển đảo Việt Nam
Ngày 6/10/2004. Cập nhật lúc 11h 13'
6
1. Khái quát về biển đảo nước ta
Nước ta giáp với biển Đông ở hai phía Đông và Nam. Vùng biển Việt Nam là mợt phần biển Đông.
- Bờ biển dài 3.260km, từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Như vậy cứ l00 km2 thì có l km bờ biển
(trung bình của thế giới là 600km2 đất liền/1km bờ biển).
- Biển có vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với diện tích trên 1 triệu
km (gấp 3 diện tích đất liền: l triệu km2/330.000km2).
- Trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và 2.577 đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành
phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển.
- Có vị trí chiến lược quan trọng: nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu,
châu Úc với Trung Đông. Giao lưu quốc tế thuận lợi, phát triển ngành biển.
- Có khí hậu biển là vùng nhiệt đới tạo điều kiện cho sinh vật biển phát triển, tồn tại tốt.
- Có tài nguyên sinh vật và khoáng sản phong phú, đa dạng, quý hiếm.
- 26 tỉnh, thành phố ven biển chiếm 42% diệntích và 45% số dân cả nước, khơảng 15,5 triệu người sống ở đới bờ, 16 vạn người ở
đảo.
* Vùng biển và hải đảo nước ta có vị trí chiến lược hết sức to lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, có liên quan trực tiếp đến sự phồn vinh của đất nước, đến văn minh và hạnh phúc của nhân dân.
2. Tiềm năng và tầm quan trọng của biển
Câu nói truyền miệng của nhân dân ta từ bao đời nay là đất nước ta có ''Rừng vàng biển bạc''.
+ Về kinh tế.
- Hải sản: Ở vùng biển nước ta đến nay có khoảng 2.040 loài cá gồm nhiều bộ, họ khác nhau, trong đó có giá trị kinh tế cao khoảng
110 loài. Trữ lượng cá ở vùng biển nước ta khoảng 3 triệu tấn/năm. Ở biển Việt Nam có khoảng trên l .500 loài nhiễm thể, riêng tôm có
trên l00 loài.
- Chim biển: Các loại chim biển ở nước ta cũng rất phơng phú: hải âu, bồ nông, chim rẽ, hải yến. Theo tính toán của các nhà khoa học
phân chim tích tụ từ lâu đời trên các đảo cho trữ lượng phân bón tới chục triệu tấn.
- Rong biển: Trên biển nước ta có trên 600 loài rong biển là nguồn thức ăn có dinh dưỡng cao và là nguồn dược liệu phong phú.
- Khoáng sản: Dưới đáy biển nước ta có nhiều khoáng sản quý như: thiếc, ti tan, đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, măng gan, đồng, kền
và các loại đất hiếm. Muối ăn chứa trong nước biển bình quân 3.500gr/m2.
- Dầu mỏ: Vùng biển Việt Nam rộng hơn l triệu km2 trong đó có 500.000km2 nằm trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lượng dầu khí
ngoài khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trrữ lượng dầu dưới đáy biển Đông. Có thể khai thác từ 30-40 ngàn thùng/ngày (mỗi
thùng 159 lít) khoảng 20 triệu tấn/năm. Trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Vict Nam khoảng 10 tỷ tấn quy dầu. Ngoài dầu
Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng ba nghìn tỷ m3/năm.
- Giao thông: Bờ biển nước ta chạy dọc từ Bắc tới Nam theo chiều dài đất nước, với 3.260km bờ biển có nhiều cảng, vịnh, vụng... rất
thuận liện cho giao thông, đánh bắt, hải sản. Nằm liên trục giao thông đường biển quốc tế từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương,
trong tương lai sẽ là tiềm năng cho ngành kinh tế dịch vụ trên biển (đóng làu, sửa chữa tàu, tìm kiếm cứu hợ, thơng tin dẫn dắt...).
- Du lịch: Bờ biển đài có nhiều bãi cát, vụng, vịnh, hang động tự nhiên đẹp, là liềm năng du lịch lớn của nước ta.
+ Quốc phòng, an ninh:
Biển nước ta nằm trên đường giao thông quốc tế từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam vì vậy có vị trí quân sự hết sức quan trọng.
Đứng trên vùng biển-đảo của nước ta có thể quan sát khống chế đường giao thông huyết mạch ở Đông Nam Á.
Biển-đảo nước ta có tầm quan trọng hết sức lớn lao đối với sự phát triển trường tồn của đất nước.
3. Đảo và quần đảo nước ta và tầm quan trọng của nó
- Đảo và quần đảo:
7
- Vùng biển nước ta có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó:
+ Vùng biển Đông Bắc có trên 3.000 đảo.
+ Bắc Trung Bộ trên 40 đảo.
+ Còn lại ở vùng biển Nam Trung Bộ, vùng biển Tây Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Căn cứ vào vị trí chiến lược và các điều kiện địa lý kinh tế, dân cư, thường người ta chia các đảo, quần đảo thành các nhóm:
+ Hệ thống đảo tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên các đảo có thể lập những căn cứ kiểm
soát vùng biển, vùng trời nước ta, kiểm tra hoạt động của tàu, thuyền, bảơ đảm an ninh quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta. Đó là các đảo, quần đảo như: Hoàng Sa, Trường Sa, Chàng Tây, Thổ Chu, Phú Quốc,
Côn Đảo, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cô Tô, Bạch Long Vĩ...
+ Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triên kinh tế-xã hội. Đó là các đảo như: Cô Tô, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Lý Sơn,
Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc.
+ Các đảo ven bờ gần có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và cũng là căn cứ đề bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển và bờ biển
nước ta. Đó là các đảo thuộc huyện đảo Cát Bà, huyện đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), huyện đảo Phú Quý (Bình Thuận), huyện đảo
Côn Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu), huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang)...
- Quần đảo Hoàng Sa:
+ Hoàng Sa là một quần đảo san hô nằm giữa biển Đông. Từ lâu, Hoàng Sa cũng như Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam với tên
Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa.
+ Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang với vĩ độ Huế và Đà Nẵng.
+ Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo trong vùng biển rộng khoảng 15.000 km2, trực thuộc Đà Nẵng.
+ Năm 1956 Trung Quốc chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Tháng l-1974, trong lúc nhân và dân ta đang tập trung sức
tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc đã đưa quân ra đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
- Quần đảo Trường Sa:
+ Cách quần đảo Hoàng Sa khoảng trên 200 hải lý về phía Đông Nam.
+ Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, bãi ngầm, bãi san hô nằm trải rộng trong một vùng biển khoảng 180.000km2, trực
thuộc Khánh Hòa.
+ Chiều Đông Tây của quần đảo Trường Sa là 325 hải lý, chiều Bắc Nam là 274 hải lý. Cách Cam Ranh 248 hải lý, cách đảo Hải Nam
Trung Quốc 595 hải lý.
+ Tại quần đảo Trường Sa, đang diễn ra tình trạng có một số nước tranh chấp chủ quyền với ta. Hiện nay: Philippln chiếm 8 đảo,
Malaixia chiếm 3 đảo, Đài Loan chiếm l đảo, Trung Quốc chiếm 9 bãi đá ngầm. Việt Nam đang có mặt và bảo vệ 21 đảo và bãi đá
ngầm trên quần đảo Trường Sa.
- Đảo và quần đảo nước ta có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vai trò lớn lao trong công
cuộc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ta.
4- Vịnh Bắc Bộ
- Nằm ở Tây Bắc Biển Đông, được bao bọc bởi bờ biển Việt Nam và Trung Quốc.
- Diện tích khoảng 126.250km2, chiều ngang, nơi rộng nhất khoảng 310 km và nơi hẹp nhất khoảng 220km. Hiệp Định Phân định Vịnh
Bắc Bộ ký tháng 12/2000 giữa Việt Nam và Trung Quốc đã xác định biên giới lãnh hải của hai nước ở ngoài cửa sông Bắc Luân, cũng
như giới hạn vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của ta và Trung Quốc ở trong Vịnh Bắc Bộ. Về diện tích tổng thể theo mực nước
trung bình thì ta được 53,23%, Trung Quốc được 46,77% diện tích Vịnh.
- Là vịnh nông, nơi sâu nhất khoảng l00m.
Thềm lục địa Việt Nam khá rộng, độ dốc thoải và có một lòng máng sâu trên 70m gần đảo Hải Nam của Trung Quốc.
-Phần Vịnh phía Việt Nam có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ, đảo Bạch Long Vĩ diện tích 2,5km2 cách đất liền Việt Nam 110km, cách đảo
Hải Nam của Trung Quốc 130km. Có nhiều nguồn lợi hải sản và tiềm năng dầu khí (trữ lượng cá của Việt Nam khoảng 44 vạn tấn).
8
5. Vịnh Thái Lan
- Nằm ở Tây Nam biển Đông, được bao bọc bởi bờ biển Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaixdia.
- Diện tích khoảng 293.000km2, chu vi khoảng 2.300km.
- Là một vịnh nông, nơi sâu nhất khoảng 80 mét.
- Đảo Phú Quốc trong Vịnh là đảo lớn nhất của Việt Nam, diện tích 567km2.
- Có nhiều nguồn lợi hải sản (trữ lượng cá của Việt Nam khoảng 51 vạn tấn).
Có tiềm năng dầu khí lớn: Việt Nam đã khai thác và hợp tác khai thác vùng chồng lấn với Malaixia.
Theo Những điều cần biết về biển - đảo Việt Nam