Những phẩm chất cần có của người lãnh đạo, quản lý
Là người nhìn xa, trông rộng: Phát hiện và tạo vận mệnh cho tổ chức mà người đó lãnh đạo và phải biết cách truyền tầm nhìn xa đó cho những người đi theo dưới quyền.
NHỮNG PHẨM CHẤT CẦN CÓ CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1. Là người nhìn xa, trông rộng: Phát hiện và tạo vận mệnh cho tổ
chức mà người đó lãnh đạo và phải biết cách truyền tầm nhìn xa đó
cho những người đi theo dưới quyền.
2. Là người giải quyết vấn đề: Nhận biết những vấn đề nảy sinh trong
tổ chức, doanh nghiệp. Sẵn sàng đối mặt với tư cách là người lãnh
đạo, áp dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải quyết.
3. Là người xây dựng tập thể: Mang người khác lại với nhau để tạo
nên một tập thể và giúp họ phát huy hết tài năng và cá tính của mình.
Cần xây dựng quy tắc hoạt động cho cả nhóm và tiếp thu các ý kiến
phản hồi để xây dựng tập thể ngày một tốt hơn.
4. Là một nhà quản lý giỏi: Là lãnh đạo giỏi phải là người biết quản lý
thời gian (sắp xếp và phân bố thời gian), quản lý con người, quản lý
cảm xúc (khả năng kìm nén sự cáu giận), quản lý sự căng thẳng
(giảm sự căng thẳng do áp lực công việc).
5. Là một người truyền đạt: lắng nghe tốt, nói tốt, viết tốt, phỏng vấn
tốt, biết cách huấn luyện người khác tốt.
6. Là một người kiên định: Kiên định không phải là bướng bỉnh, ngang
tàng và nhất định không phải là ngông cuồng. Tính kiên định hàm
chứa một lý tưởng mà người lãnh đạo và điều hành nhận lãnh như
một sứ mệnh để phục vụ doanh nghiệp, tổ chức, tập thể mà mình là
người đứng đầu.
7. Là một người có lương tâm: Lương tâm có thể nói vắn tắt là sống
có đạo, đạo ở đây là đạo trời, đạo sư, đạo cha mẹ…Đây là một tư
tưởng thấm nhuần trong nền văn hóa của nhân loại.
KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO:
Kỹ năng lãnh đạo là sự kết hợp của ít nhất 3 yếu tố:
1. Khả năng nhận thức động lực thúc đẩy con người ở những hoàn
cảnh, điều kiện, không gian, và thời gian khác nhau.
2. Khả năng khích lệ: tạo sức hấp dẫn và sức cuốn hút để tạo lòng
trung thành, sự tận tâm và ước muốn mạnh mẽ làm theo nhà quản lý.
3. Phong cách và bầu không khí mà nhà quản lý tạo ra.
PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO:
1. Phương pháp kinh tế: Tác động vào đối tượng quản lý thông qua
các lợi ích kinh tế, cho họ quyền tự do lựa chọn phương án hoạt động
có hiệu quả nhất.
2. Phương án hành chính: Tác động thông qua các hệ thống quản lý
và kỷ luật của tổ chức, yêu cầu đối tượng quản lý phải chấp hành.
3. Phương pháp giáo dục: Tác động vào nhận thức, tâm lý, tình cảm
của đối tượng quản lý nhằm nâng cao tự chủ, nhiệt tình của họ trong
công việc.
MƯỜI LỜI KHUYÊN VÀNG DÀNH CHO CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO:
Biết xây dựng quan hệ thân ... nhưng phải giữ được
1
thiết với nhân viên của mình khoảng cách phù hợp
Biết quyết đoán ... nhưng phải biết lắng nghe
2
Biết tin tưởng nhân viên của ... nhưng phải để mắt đến
3
đơn vị mình mọi việc
Biết tính đến mục đích của … nhưng đồng thời phải
4
đơn vị mình phục vụ lợi ích của toàn
tổ chức
Biết lập thời gian biểu phù … nhưng phải linh hoạt với
5
hợp cho riêng mình chính kế hoạch đó
Biết trình bày ý kiến của … nhưng phải trình bày một
6
cách tế nhị
mình
Biết nhìn xa trông rộng … nhưng không suy nghĩ
7
viển vông
Biết nói năng mạch lạc … nhưng phải biết điểm
8
dừng
Biết suy nghĩ năng động … nhưng phải phù hợp với
9
hoàn cảnh thực tế
10 Biết tự tin vào bản thân … nhưng phải khiêm tốn
MỘT SỐ SAI LẦM THƯỜNG THẤY CỦA CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO:
1. Không nghe lời khuyên của cả nhóm.
2. Không thay đổi suy nghĩ ngay cả khi đã sai.
3. Rất ít khi ủy quyền cho người khác để tránh việc quyền lực của
bản thân bị giảm đi và thường hạ thấp những người được ủy quyền.
4. Tuyển dụng những nhân viên có trình độ yếu để họ trở thành
những mối đe dọa
5. Thường e ngại, nghi ngờ những người có trình độ tốt, chia tách
nhân viên để dễ dàng kiểm soát nhằm tránh sự đe dọa đến quyền lực
của họ.
6. Xen lẫn tính chất cá nhân vào công việc.
Trích “Bài giảng môn quản trị học”- PGS.TS.Trần Văn Bình – Khoa
Kinh tế và Quản lý – Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Những tố chất của một giám đốc hoàn hảo !
Giám đốc cũng là một nghề như bao nghề nghiệp khác, nó cũng đòi hỏi một số những
kỹ năng nhất định và có những tiêu chuẩn đánh giá chung. Bên cạnh đó, mỗi loại hình
doanh nghiệp, mỗi ngành nghề kinh doanh và mỗi giai đoạn phát triển của doanh
nghiệp lại có những mẫu hình riêng về một người giám đốc lý tưởng. Song xét ở giác độ
chung nhất, để phát huy được vai trò của mình, bên cạnh tài năng thiên bẩm, người
giám đốc cần hội đủ ba tố chất: một vị tướng giỏi trên trận, một thuyền trưởng tài hoa
giữa phong ba và một người cha mẫu mực trong gia đình.
Giám đốc một vị tướng giỏi
Khi xông pha trận mạc, một vị tướng tài ba phải là người biết điều binh khiển tướng,
thông tuệ binh sách, mưu lược, có như vậy mới có thể “đánh trăm trận trăm thắng”.
Không chỉ có thế, họ còn cần phải là người quyết đoán, có ý chí sắt thép, tính kiên định
như một số doanh nhân nổi tiếng đã từng nói: “Hai từ "không thể" không có trong từ
vựng của tôi!” Thương trường là chiến trường, do vậy lẽ đương nhiên người giám đốc
cũng nên hay nói “đúng hơn”, “phải là”. Là một vị tướng, họ rất cần có một cái nhìn
chiến lược, biết biến cái không thể thành cái có thể. Thiếu bản lĩnh của một vị tướng,
không những người giám đốc không hoàn thành được sự mệnh của mình mà còn làm
hao binh tổn tướng, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Giám đốc một thuyền trưởng tài hoa
Đại dương mênh mông luôn ẩn chứa trong đó bao mối nguy hiểm. Kinh doanh trên
thương trường cũng vậy, luôn có lúc thăng, có lúc trầm, lúc thành công, lúc thất bại và
doanh nghiệp luôn phải đối phó với sự cạnh tranh khắc nghiệt từ mọi phía. Người giám
đốc ngoài kiến thức chuyên môn, kỹ năng quản trị còn cần hơn là bản lĩnh của một
thuyền trưởng. Những lúc sóng gió nhất là lúc cần người giám đốc phát huy bản lĩnh
thuyền trưởng của mình, chèo lái con thuyền doanh nghiệp đi đúng luồng lạch, vượt qua
khó khăn để cập bến an toàn. Giám đốc không chỉ là người chỉ huy, lãnh đạo mà còn là
chỗ dựa, là nơi gửi gắm niềm tin của mọi thuỷ thủ đoàn, mọi thuyền viên trên con
thuyền doanh nghiệp.
Giám đốc một người chủ gia đình mẫu mực
Gần đây, người ta hay nói nhiều đến văn hoá doanh nghiệp. Vậy ai là người tạo dựng
nên nó? Câu trả lời là: tất cả các thành viên trong doanh nghiệp. Nhưng ai là người khơi
dậy, nuôi dưỡng và định hướng, phát huy nó tạo thành một bản sắc riêng? Chính là
người giám đốc. Trong gia đình, vai trò của người cha là hết sức quan trọng, một người
cha mẫu mực không chỉ vừa là khuôn hình mẫu, là người thầy, là huấn luyện viên, là
trọng tài, mà còn phải là người bạn gần gũi, cởi mở cảm thông và biết chia sẻ với mọi
thành viên trong gia đình, theo đúng nghĩa một người bạn. Làm được như vậy, gia đình
doanh nghiệp sẽ là một thể hữu cơ, gắn kết chặt chẽ với nhau, mọi thành viên đều có
cơ hội bày tỏ chính mình, cơ hội để phát huy sự sáng tạo cá nhân của mình đóng góp
cho cái chung. Rõ ràng là những phẩm chất ấy cũng rất cần có ở người giám đốc, nhất
là trong cơ chế thị trường ngày nay.
Người giám đốc tài ba phải biết tạo ra sự gắn bó, sự cộng đồng trách nhiệm và lợi ích
giữa mọi thành viên của doanh nghiệp. Ở doanh nghiệp nào mà mỗi nhân viên coi công
việc của doanh nghiệp cũng là công việc của mình, biết biến mục tiêu chung của doanh
nghiệp thành mục tiêu của cá nhân mình thì doanh nghiệp đó chắc chắn thành công và
sẽ phát triển bền vững. Rustomiji, một doanh nhân lớn của Nhật Bản đã nói: “Đây là
hãng của tôi”, “Đây là nhà máy của tôi”, “Đây là nơi nuôi sống tôi”, “Bạn sẽ giống người
trúng xổ số độc đắc nếu những người lao động của bạn có ý thức giống như câu nói
trên”.
Có người cho rằng: “Giám đốc là người hoàn thành công việc bằng sự nỗ lực của người
khác”. Nói như thế hoàn toàn không có nghĩa là người giám đốc không làm việc, mà trái
lại, bằng những công việc của người giám đốc, mọi mục tiêu, mọi kế hoạch kinh doanh
của doanh nghiệp được thực thi thông qua bộ máy và những cơ cấu, cơ chế tổ chức
quản lý của doanh nghiệp mà họ điều hành. Vai trò và đặc điểm nổi bật của người giám
đốc chính là ở chỗ đó.
Từ Ed Breen cũng như nhiều nhà quản lý khác, chúng ta thấy rằng công
việc quản lý thật nhiều thú vị nhưng đồng thời cũng là một quá trình tự
thân phát triển hết sức khó khăn gian khổ. Sau đây là các mật pháp của
một nhà quản lý doanh nghiệp giỏi:
1/ Các nhà quản lí thường tránh những cuộc trao đổi thẳng thắn như vậy
bởi họ ngại phản ứng của người đối thoại. Tuy nhiên trong thực tế, hiếm
khi phản ứng này xấu đến mức như chúng ta dự đoán. Vì thế hãy đưa ra
giải pháp thay vì cứ để cho vấn đề tiếp diễn và nhớ luôn tuân thủ một
nguyên tắc rất giản đơn hãy thẳng thắn!
2/ Có khát vọng vươn lên: Nhà quản lý không nên háo danh nhưng phải
mang trong mình khát vọng vươn lên. Phải luôn nuôi hy vọng mình sẽ
quản lý nghiêm minh để có lợi cho doanh nghiệp, chỉ có vậy nghề quản lý
của mình mới luôn tiến bộ.Lúc Donal Trump, nhà tỷ phú kinh doanh bất
động sản còn trai trẻ, có lần đứng trước tượng của Alexandre đặt trong
đền Heraile ở Gades, ông khóc vì thấy rằng không được lừng danh như
Alexandre lúc bằng tuổi ông.
3/ Trong những trường hợp khó khăn, nguy hiểm, phải biết dám đứng ra
nhận trách nhiệm, vượt lên những khó khăn vì lợi ích chung. Đây chính là
dấu hiệu của nhà quản lý giỏi.
4/ Nhà quản lý phải giàu thực tế, nắm được những vấn đề tổng quát,
nhưng đồng thời phải có đầu óc thực chứng, biết hành động, ra những
quyết định có lợi cho toàn thể công ty, phục vụ lợi ích của nhân viên trong
công ty.
5/ Nhà quản lý cũng phải biết khuyếch đại uy danh của mình. Những
quyết định của nhà quản lý sẽ có “trọng lượng” hơn nếu họ chứng tỏ được
vị thế và uy quyền của mình.
6/ Nhà quản lý thường là người tin ở khả năng của mình để lạc quan, khôn
ngoan vươn lên đỉnh cao của thành công chứ không phải là để lười biếng,
“nằm há miệng chờ sung.”
7/ Một nhà quản lý xứng danh không bao giờ cảm thấy thoả mãn về cách
sống và cách quản lý công việc của mình bởi tự mãn là kẻ thù của họ. Họ
luôn nghiêm khắc chỉ trích để lúc nào cũng cầu tiến học hay, chữa được
những khuyết điểm để nêu gương cho cấp dưới.
8/ Nếu ai nuôi dưỡng mộng làm quản lý thì nên chọn những sách về nghệ
thuật quản lý, những sách bàn về thực chứng nhằm lấy những kiến thức
thực hành chứ không phải là những lý thuyết chung chung.
9/ Nhà quản lý phải luôn quan tâm đến việc sắp xếp tổ chức nội bộ, cách
ngoại giao, cách dụng nhân, phân công công tác, kiểm soát các công việc
và phẩm chất chuyên môn cũng như đức độ của cấp dưới.
10/ Quản lý xét đến cùng chính là thực hiện hành vi hướng dẫn các nhân
viên để thực hiện lợi ích chung.
11/ Nhà quản lý ở đẳng cấp càng cao bao nhiêu thì càng phải điềm đạm
trong mọi cách xử thế và luôn hướng thiện để hoàn thành sứ mệnh của
mình.
12/ Nhà quản lý đừng quá tự tin về các kế hoạch sản xuất kinh doanh của
mình mà quên xây dựng tinh thần miệt mài làm việc của nhân viên. Bởi vì,
người ta không thể hăng say làm việc nếu biết rằng công việc họ đang
làm lại phục vụ cho một tư lợi nào khác.
13/ Đạo đức cũng là một yếu tố cấu thành của quản lý. Thông thường,
người ta dễ nghe những lời của thánh nhân hoặc những người có đạo đức.
14/ Người quản lý không bao giờ được tàn bạo với cấp dưới, nhưng phải
có ý thức về bản chất tâm lý của uy quyền mới giữ vững được uy thế.
15/ Người quản lý mà gặp thiên thời, địa lợi, nhân hoà thì như diều gặp
gió. Nhưng nếu 3 điều kiện này chưa hội cùng một lúc thì phải biết tạo ra
phương tiện để đạt được mục đích, đôi lúc phải hy sinh cái lợi nhỏ trước
mắt để giành những cái lợi lớn trong tương lai.
16/ Người quản lý xứng đáng phải là người có khả năng thúc đẩy nhân
viên thực hiện hết mọi việc thuộc quyền hạn của mình Khi ra lệnh mà thấy
cấp dưới khó thực hiện, người quản lý phải dùng óc tháo vát, tạo ra những
phương tiện hay hoàn cảnh thuận lợi giúp cấp dưới.
17/ Người quản lý đừng vì thấy cấp dưới lúc đầu chưa tuân phục mà đã
chán nản. Hãy chứng minh tài đức của mình để sau này cấp dưới phải tự
tuân phục.
18/ Mới quản lý nên tránh gần gũi quá với cấp dưới. Nên tạo ra khoảng
cách hợp lý và sự tôn trọng cần thiết với cấp dưới.
19/ Trong doanh nghiệp thường có hai trường phái: Trường phái cách
mạng và trường phái cải cách. Nhóm người ham cách mạng thì ưa dùng
biện pháp mạnh, còn nhóm thích cải cách thì ôn hoà, muốn dần dần sửa
những sai sót để vươn tới những lợi nhuận mới. Người quản lý nên lắng
nghe nhóm thứ nhất, nhưng biện pháp làm thì nên theo nhóm thứ hai.
20/ Người quản lý luôn phải biết mình là “bia” của muôn ngàn cặp mắt
nhìn ngó nên mỗi ngày nên để chút ít thời giờ hoàn thiện mình để tăng uy
tín.
ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI QUẢN LÝ GIỎI
Nhiều người cho rằng, những người quản lý giỏi chuyên môn chưa hẳn
đã quản lý tốt. Bởi muốn trở thành một người quản lý giỏi, doanh nhân cần biết tự nâng cao
năng lực, kỹ năng quản lý của mình. Sau đây là những điều cần thiết để nâng cao kỹ năng
quản lý.
Kiểm tra kiến thức bản thân
Theo các chuyên gia phân tích, trước khi khởi nghiệp, mỗi người cần biết được điểm mạnh,
điểm yếu của mình là gì. Để làm được điều này, doanh nghiệp cần xem lại những gì mình
biết và không biết về việc quản lý. Hãy kiểm lại những kinh nghiệm của mình và những
người đi trước xem những gì là có lợi và điểm gì phải thay đổi. Điều này sẽ giúp bạn tìm ra
những tính cách tốt và xấu từ những ông chủ cũ và tận dụng kiến thức đó cho mình.
Tìm một người cố vấn dày dạn kinh nghiệm
Bạn có thể tìm ngay trong chỗ làm của mình một người quản lý đã có kinh nghiệm, có uy tín,
theo dõi học hỏi họ những thói quen, cách xử thế tốt rồi sau đó vận dụng. Bạn cũng có thể
học kinh nghiệm từ những người quản lý giỏi ở nơi khác hoặc khi thân tình hơn có thể nhờ họ
cố vấn cho mình.
Học lại – Tự đào tạo lại
Đừng bao giờ coi việc học hành của mình đã đủ mà nên thường xuyên học lại. Hiện nay có
nhiều tổ chức cung cấp các khóa phát triển kỹ năng quản lý và cũng có nhiều hội thảo xoay
quanh vấn đề này, bạn đừng bỏ lỡ những cơ hội để có thể học thêm chúng.
Đọc sách
Ai cũng biết, sách chính là kho tàng vô tận kiến thức của cả thế giới, vì thế bạn cũng có thể
tìm hiểu qua sách cách tổ chức quản lý, kỹ năng điêu hành... Tất nhiên ta không nên áp dụng
một cách máy móc mà cần biết sử dụng nó trong từng tình huống cụ thể, công việc cụ thể
hay quá trình cụ thể.
Học cách lắng nghe và hiểu người khác
Bí quyết để thành công trong vai trò lãnh đạo là biết cách giao tiếp và đánh giá chính xác
nhân viên của mình. Đó là phần thách thức nhất trong việc quản lý của nhiều nhà chuyên
nghiệp khi ở trong tình thế chuyển từ một người bạn sang vị trí điều khiển. Khi thiết lập
mối quan hệ với một tập thể mới, điều quan trọng là phải thẳng thắn và trung thực. Ngoài ra,
đánh giá thực tế, khả năng làm việc của nhân viên và nói chuyện với họ về chất lượng công
việc cũng cần thiết và phải làm thường (uyên, song tránh nặng nề, quy chụp mặc dù bạn vẫn
phải luôn yêu cầu họ làm tốt.
Đặt nhân viên của mình lên trên hết
Một người lãnh đạo tốt là người biết cách đào tạo, hỗ trợ và khích lệ nhân viên mình. Nếu
bạn không dành thời gian hỗ trợ nhân viên và bảo đảm đáp ứng nhu cầu hợp lý của họ thì họ
khó có thể ủng hộ lần làm tốt mọi việc.
Pich Moore, một chuyên gia cao cấp tại Hiệp hội Quản lý AAMI ở Mỹ, đã nói: "Nhà quản lý
hiệu quả nhất là người tiết được tài năng của từng đối tượng và dành thời gian để tìm hiểu
nhân viên của mình".
Mấy suy nghĩ về uy tín của người lãnh đạo
Thứ Năm, 03/04/2008 - 2:07 PM
Người giữ một chức vụ trong hệ thống chính trị (các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể từ
Trung ương đến cơ sở) là người được tổ chức trao cho quyền lực nhất định theo quy định
của điều lệ của tổ chức đó và theo quy định của pháp luật. Đó là quyền lực tất yếu của
người lãnh đạo, là điều kiện cần có để người lãnh đạo, thực thi nhiệm vụ, chức trách của
mình. Nhưng sức mạnh của người lãnh đạo không chỉ ở chức vụ và quyền hạn được giao
phó mà cái quan trọng hơn, có tính quyết định sự thành bại của người lãnh đạo là uy tín của
người giữ chức vụ đó.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh người ở trong bộ máy hành chính Nhà nước, là người đại diện cho “oai tín” của
Chính phủ (oai là uy, uy quyền; tín là tin, niềm tin). Người lãnh đạo có uy tín thì những người dưới quyền không
những phục tùng theo Điều lệ Đảng, đoàn thể và pháp luật Nhà nước mà quan trọng hơn là họ tự giác phục tùng
với niềm tin mãnh liệt. Đó là niềm tin không phải chỉ bằng lời nói mà xuất phát từ trái tim của họ “tâm phục,
khẩu phục”.
Trên thực tế, để có uy tín, trước hết người lãnh đạo phải là người có trí tuệ, có tư duy khoa học, sâu sắc, có
kiến thức về lĩnh vực được giao phó, có lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, nói đi đôi với làm, có
tấm lòng nhân ái, vị tha, độ lượng, phong cách lãnh đạo, quản lý mang lại hiệu quả cụ thể, thiết thực thu phục
được lòng người, chứ không phải dùng quyền lực để cai quản, áp đặt người dưới quyền. Người lãnh đạo có uy
tín là người có bản lĩnh, dũng cảm, kiên cường, bảo vệ người ngay thẳng, trung thực, đấu tranh với những hành
vi sai trái, những biểu hiện cơ hội, thực dụng, không xu nịnh và không ưa nịnh... Người có uy tín là người biết
lắng nghe, nhất là nghe những lời nói trái với suy nghĩ của mình để biết rằng cấp dưới phục tùng một cách tự
giác, một sự phục tùng chân lý hay chỉ là phục tùng một cách cưỡng bức, sợ sệt.
Hiện nay, bên cạnh những cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa có “uy”, vừa có “tín”, xứng tầm với trọng trách được
giao phó thì không ít cán bộ chưa hội đủ những tiêu chí cần và đủ của người lãnh đạo. ở họ, thay vì khổ công
rèn luyện để có được chữ “tín” trong lòng quần chúng thì họ luôn sợ người dưới quyền đánh giá thấp về năng
lực và phẩm chất của mình nên thường tự khoe khoang, thích thành tích, thích danh vọng, tranh công đổ lỗi, sợ
trách nhiệm, thích những lời tâng bốc, xu nịnh, tạo ra vây cánh để tăng thêm “uy tín ảo” bằng những lá phiếu,
gét bỏ hoặc thành kiến với người nói thẳng, nói thật, góp ý chân thành. Lão Tử đã từng dạy học trò: “Người
lãnh đạo không thành công khi cấp dưới tán thưởng, xu nịnh và cuối cùng, họ thất bại khi tập thể ganh ghét, tỵ
hiềm”.
Trong một cơ quan, đơn vị thì đảng viên, cán bộ, nhân viên là người hiểu rõ hơn ai hết về những người lãnh
đạo của mình. Niềm tin của họ đối với cán bộ lãnh đạo là thước đo đúng đắn nhất về phẩm chất năng lực của
cán bộ đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê
bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ, chứ
không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình” (*) Người chỉ rõ: “Cách lãnh đạo của ta
không được dân chủ... nên đảng viên và cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ...
Họ không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét, có khi
lại bị trù là khác” (*). Vì vậy, Người căn dặn: “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của
mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và
phê bình...”, “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước. Muốn làm cách mạng phải cải cách tính nết mình trước tiên” (*).
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã và đang được đảng viên, cán bộ,
nhân dân hưởng ứng và đặt nhiều kỳ vọng. Phát biểu tại hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện cuộc vận động, Tổng
Bí thư Nông Đức Mạnh yêu cầu: “Thực hiện lời dạy của Bác, trước hết các đồng chí Bí thư cấp ủy, thủ trưởng
cơ quan, cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải gương mẫu, phải làm gương trước trong học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nêu gương trước là phải đi trước, làm trước. Trong phấn đấu phải tự đặt cho
mình mức độ phấn đấu cao hơn, để tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân, như nhân dân mong muốn “đảng
viên đi trước, làng nước theo sau”. Đó là yếu tố bên trong, có tính quyết định để tạo ra phong trào, đi tới thành
công”.
HNM) - Trong mối quan hệ Đức - Tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi Đức là gốc, là nền tảng để
luyện Tài, để xây dựng con người mới, Người nói: “Sông có nguồn thì mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”; “Mọi việc
thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”.
Hồ Chí Minh đã kế thừa nhiều điểm tích cực của Nho giáo. “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong
học thuyết của Khổng Tử có nhiều điểm không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên
học”. Theo Người, “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”.
Người nhấn mạnh: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Theo quan điểm của Người, đạo đức là tiêu chí để đo lòng cao
thượng, để xem xét “chất người”. Người viết: “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau,
người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”.
Với Hồ Chí Minh, trong các quan hệ đạo đức thì mối quan hệ của mỗi người với đất nước mình, với
nhân dân, dân tộc mình là mối quan hệ lớn nhất. Về phẩm chất đạo đức thì trung với nước, hiếu với
dân là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất. Bác dạy các chiến sĩ quân đội ta “Trung với nước,
hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” - câu nói đó của Người vừa là
lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không chỉ trong
cuộc đấu tranh cách mạng trước kia và hiện nay, mà còn lâu dài về sau. Đối với cán bộ, đảng viên,
Người đòi hỏi phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân” thì mới xứng đáng “vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đối với người cán bộ cách mạng, Bác đặc biệt nhấn
mạnh những đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người nhiều lần nhắc lại cụm từ này ở
nhiều bài viết, bài nói của mình...
Chúng ta đã có lúc không chú trọng đúng mức tới “Đức dục” bên cạnh việc chăm lo công tác “Trí dục”.
Điều này Hồ Chí Minh đã nhìn nhận và uốn nắn sớm từ những ngày đầu bắt tay vào sự nghiệp xây
dựng CNXH của nhân dân ta. Người nói trong Hội nghị TƯ 4 khóa III: “Tôi xem chương trình giáo dục
cho đến hết lớp 10, phần đức dục rất thiếu sót, chỉ có 10 dòng”. Trong Hội nghị tổng kết phong trào thi
đua “Dạy tốt - Học tốt” của ngành Giáo dục (tháng 8-1963), Người nhắc nhở: “Nội dung giáo dục cần
chú trọng hơn nữa về đức dục”... Coi Đức là gốc nhưng Hồ Chí Minh không xem thường Tài mà Người
nhìn nhận Đức và Tài trong mối quan hệ biện chứng, như hai mặt không thể tách rời trong một nhân
cách hoàn thiện. Người cán bộ phải đầy đủ cả đức cả tài, không thể khiếm khuyết mặt nào vì “có tài
mà không có đức là người vô dụng” nhưng “có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Quan điểm lấy Đức làm gốc, làm nền tảng không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt Đức, coi nhẹ mặt Tài.
Theo Hồ Chí Minh thì hai mặt Đức và Tài, “hồng” và “chuyên”, phẩm chất và năng lực luôn phải đi đôi
với nhau, không thể có mặt này thiếu mặt kia. Như Người đã phân tích, người nào có đức mà không có
tài thì cũng chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, tuy không làm hại ai những cũng chẳng có ích gì.
Ngược lại, nếu có tài mà không có đức, thì cũng chẳng khác gì một anh làm kinh doanh giỏi, đem lại
nhiều lãi, nhưng tham ô, lãng phí thì như vậy chỉ có hại cho dân cho nước, còn sự nghiệp của bản
thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao
trình độ, nâng cao năng lực, tài năng, từ đức đi đến trí, đến tài để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao,
để làm những việc có lợi cho dân, cho nước. Khi đã thấy sức không vươn lên được thì đối với ai có tài
hơn mình, mình sẵn sàng ủng hộ và nhường bước để họ vượt lên trước. ý nghĩa “đức là gốc” chính là
ở chỗ đó.