logo

Những giá trị bền vững và ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản

Cách đây 160 năm, Các Mác và Phri-đrích Ăngghen, các nhà sáng lập thiên tài học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học, những lãnh tụ vĩ đại và người thầy của giai cấp công nhân thế giới đã khởi thảo tác phẩm bất hủ Tuyên
Những giá trị bền vững và ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Nguồn: fpe.hnue.edu.vn Cách đây 160 năm, Các Mác và Phri-đrích Ăngghen, các nhà sáng lập thiên tài học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học, những lãnh tụ vĩ đại và người thầy của giai cấp công nhân thế giới đã khởi thảo tác phẩm bất hủ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, tác phẩm phổ biến nhất, có tính quốc tế nhất trong sách báo xã hội chủ nghĩa của phong trào công nhân Châu Âu giữa thế kỷ XIX. Là văn kiện có tính cương lĩnh của phong trào cộng sản, Tuyên ngôn đánh dấu sự trưởng thành của chủ nghĩa Mác sau một loạt công trình tìm tòi, khám phá, phát hiện trước đó; đánh dấu sự chuyển biến của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học. Vừa là một tác phẩm lý luận, vừa là một bản tuyên ngôn chính trị, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trình bày cô đọng, có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản nhất. 1. Tuyên ngôn làm rõ sự ra đời, địa vị lịch sử và sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Xã hội tư bản mà điển hình nhất là ở các nước tư bản trên lục địa Châu Âu và nước Anh, giữa thế kỷ XIX là một thực thể kinh tế - xã hội và một thể chế chính trị - xã hội phức tạp, vừa đang định hình quyền lực thống trị trong tay giai cấp tư sản vừa đang tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp đối kháng: Tư sản và vô sản. Đây là biểu hiện về một xã hội của mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX trong lòng xã hội TBCN. Trong sự phong phú của các mô hình xã hội, các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội thời ấy, Mác và Ăngghen nhận rõ sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa như một tất yếu từ trong lòng xã hội phong kiến đã tan rã. Bằng sự phân tích khách quan, khoa học, Mác và Ăngghen đã khẳng định tính cách mạng, tiến bộ, hợp quy luật của sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, mà sự khởi đầu là từ sự phát triển của đại công nghiệp. Nhờ sử dụng máy móc hiện đại, cải tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất, thúc đẩy cạnh tranh tự do, mở rộng thị trường... xã hội tư bản đã tạo ra một khối lượng tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt khổng lồ. Guồng máy sản xuất và trao đổi vì mục tiêu lợi nhuận không ngừng tăng lên, vận hành gần như hết công suất. Nhưng, chính cuộc chạy đua săn tìm lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh tự do ấy đã dẫn đến tình trạng quá thừa sản xuất, trao đổi và hàng hóa. Hậu quả là, nền sản xuất xã hội lâm vào khủng hoảng mà sự nghiêm trang của nó tới mức đe doạ sự sống còn của chế độ sở hữu tư bản - nền tảng xây dựng nên chế độ tư bản chủ nghĩa. Cội nguồn sâu xa của vấn đề như Tuyên ngôn đã chỉ rõ - nằm chính ngay trong mâu thuẫn giữa nền tảng tạo nên chủ nghĩa tư bản - chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - với sản phẩm mà nó tạo ra - lực lượng sản xuất công nghiệp hóa. Sự chật hẹp của quan hệ sản xuất tư bản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa rộng lớn là nguyên nhân cơ bản dẫn chế độ kinh tế tư bản đến chỗ sẽ phải sụp đổ. Giai cấp các nhà tư bản tất yếu phải bảo vệ lợi ích và quyền lực của mình, tìm ra những thủ đoạn và cách thức để duy trì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa rộng lớn tất yếu mâu thuẫn, không dung hợp với sự chật hẹp của chế độ tư hữu. Vì thế, lối thoát của lịch sử chỉ có thể là thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ xã hội mới dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Quy luật khách quan của lịch sử là quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Chỉ có chế độ công hữu về TLSX mới là hình thức xã hội hóa của QHSX mới đủ sức dung nạp LLSX đang ngày càng lớn lên. Chính điều đó cho thấy PTSX tư bản chủ nghĩa tất yếu phải bị thay đổi bởi PTSX CSCN và CNTB tất yếu phải bị CNXH, CNCS phủ định. Kết luận và dự báo khoa học của Mác và Ăngghen nêu ra trong Tuyên ngôn là: Thất bại của GCTS và thắng lợi của GCVS đều là một tất yếu lịch sử như nhau. Đây là một trong những luận điểm nền tảng và mãi mãi còn giá trị của Tuyên ngôn. Ngày nay, nhờ có những điều chỉnh lớn trong quan hệ sản xuất và nhờ tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là việc hình thành các tập đoàn xuyên quốc gia, các thể chế kinh tế toàn cầu của chủ nghĩa tư bản vẫn còn tiềm năng để tiếp tục kéo dài sự tồn tại. Tuy nhiên, những hiện thực nan giải, những mâu thuẫn không thể vượt qua của xã hội tư bản vẫn còn đó với mức độ ngày càng gay gắt hơn. Điều đó càng chứng tỏ những nhận định của Mác và Ăngghen về số phận lịch sử của chủ nghĩa tư bản ghi trong Tuyên ngôn tiếp tục được chứng thực ngay cả với chủ nghĩa tư bản trong thế kỷ XXI. 2. Tuyên ngôn chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản - người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới Những mâu thuẫn trong đời sống kinh tế của xã hội tư bản dù có gay gắt trầm trọng đến mấy cũng không làm cho chủ nghĩa tư bản tự sụp đổ, mà phải có một lực lượng xã hội lớn mạnh đứng lên làm cách mạng lật đổ chế độ tư bản. Trong xã hội tư bản, lực lượng xã hội này không ai khác ngoài giai cấp công nhân hiện đại - con đẻ của nền đại công nghiệp do chủ nghĩa tư bản sinh ra, người đại biểu cho phương thức và lực lượng sản xuất mới đã hình thành, giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong chế độ làm thuê tư bản chủ nghĩa. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”. Nền công nghiệp hiện đại đã sản sinh ra, nuôi dưỡng một giai cấp vô sản với những đặc trưng cơ bản: là giai cấp tiên tiến, có tổ chức, cách mạng và cách mạng triệt để nhất. Tư tưởng căn bản về sứ mệnh lịch sử thế giới của GCVS được Mác – Ăngghen thể hiện trong Tuyên ngôn là ở chỗ, các ông đã làm sáng tỏ rằng, GCVS là một giai cấp cách mạng và duy nhất chỉ có nó (GCVS) mới có tính triệt để cách mạng. Đó là lực lượng xã hội tiêu biểu cho sức sản xuất xã hội đang lớn lên, là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của lịch sử. Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, các giai cấp khác sẽ suy tàn, duy nhất chỉ có GCVS mới thực sự là một giai cấp cách mạng, bởi nó đại biểu cho tương lai, cho triển vọng của lịch sử. Nghèo khổ chỉ là trạng thái mà cách mạng sẽ phải xoá bỏ. Các nhà không tưởng trước Mác chỉ thấy GCVS là nạn nhân cùng khổ, là vết thương xã hội của đại công nghiệp TBCN. Chủ nghĩa dân tuý là cơ sở tư tưởng của một thứ “CNXH nông dân” lại thường đồng nhất nghèo khổ là cách mạng. Những hạn chế, sai lầm đó đã bị vượt qua bởi những luận chứng khoa học và cách mạng về GCVS trong Tuyên ngôn với thiên tài tư tưởng của Mác- Ăngghen. GCVS theo Mác-Ăngghen là lực lượng xã hội mà rốt cuộc lịch sử đã tìm thấy để trao vào tay nó sứ mệnh tự giải phóng cho mình và đồng thời giải phóng cho cả xã hội loài người. Nó không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó là đại biểu chân chính duy nhất cho lợi ích của toàn xã hội. Cách mạng và triệt để cách mạng là ở đó. Ngày nay, do các đặc điểm của thời đại mà giai cấp công nhân có một số đặc điểm mới như: sự biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu; trình độ trí tuệ, khoa học- công nghệ cao hơn; một số không nhỏ có cổ phiếu trong công ty tư bản, có nhiều tư liệu sinh hoạt hơn và cả tư liệu sản xuất, v.v... Song, những đặc điểm đó không làm thay đổi cơ bản địa vị của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân vẫn đang là lực lượng chủ yếu làm ra của cải cho xã hội và lợi nhuận cho các nhà tư bản. Họ là lực lượng đối lập trực tiếp với tư bản. Trong điều kiện của CNTB hiện đại ngày nay, GCCN và lao động vẫn là những người bị tư bản bóc lột nhiều nhất là khoảng cách thu nhập giữa họ với giới chủ tư bản vẫn ngày càng lớn thêm. Công nhân trong các nước tư bản phát triển tuy có được trí thức hoá, điều kiện lao động bớt nặng nhọc hơn, họ có thể có chút ít cổ phần trong doanh nghiệp... nhưng họ càng bị ràng buộc chặt chẽ hơn vào guồng máy sản xuất của tư bản, càng bị bóc lột nặng nề và tinh vi hơn. Những cuộc bãi công, đình công, biểu tình hàng vạn người, ở nhiều ngành diễn ra liên tiếp ở nhiều nước tư bản và thực tế cho thấy mâu thuẫn, xung đột giữa công nhân, lao động và tư bản vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng gay gắt hơn. 3. Tuyên ngôn trình bày khái quát những nguyên lý cơ bản về con đường giải phóng giai cấp vô sản và mô hình chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc tuyên cáo về sự diệt vong của chế độ tư bản, Tuyên ngôn đưa ra lời tuyên bố về sự tất yếu của xã hội cộng sản thay thế cho xã hội tư bản. Trước hết, theo Mác và Ăngghen, những người vô sản phải tự tổ chức thành giai cấp và chính đảng, tiến hành cách mạng vô sản lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, “thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị” và với tư cách là giai cấp thống trị tiến hành tổ chức, xây dựng xã hội mới. Nhưng ngay từ hồi đó, Mác và Ăngghen cũng đã ý thức được rằng: “Những biện pháp ấy về mặt kinh tế thì hình như không được đầy đủ và không có hiệu lực”, đó chỉ là những thủ đoạn không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành khá hoàn thiện. Hơn nữa, “trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”. Trong Lời tựa cho lần xuất bản năm 1872, các ông đã khẳng định: Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Song Tuyên ngôn là một văn kiện lịch sử, cần phải tôn trọng nó. Các ông đã bổ sung những quan niệm, tư tưởng mới ở ngay các lời tựa, đặc biệt từ thực tiễn lịch sử sau Công xã Pari 1871. Nên nhớ rằng, từ 1872 đến 1893 trong hơn 20 năm, Mác-Ăngghen đã 7 lần viết lời tựa cho những lần tái bản Tuyên ngôn. Ở đó, nội dung Tuyên ngôn trở nên phong phú, sâu sắc hơn rất nhiều. Như thế đủ thấy, các ông vừa khẳng định tính tất yếu phải tiến hành cách mạng vô sản, vừa làm rõ những hình thức, biện pháp khác nhau để thực hiện cách mạng vô sản, không bắt buộc nhất thiết phải sử dụng các biện pháp cứng rắn, nhất loạt ở tất cả các nước. Đây là biện chứng giữa cái phổ biến với cái đặc thù trong tiến trình cách mạng vô sản. Tuyên ngôn đã phác họa ra những nét cơ bản nhất của mô hình xã hội cộng sản trong tương lai. Về kinh tế, xã hội cộng sản là xã hội trong đó chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ. Từ việc phân tích tính chất kìm hãm của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với nền sản xuất xã hội, mà quyết định nhất là do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, Mác và Ăngghen đã đi tới kết luận lô gích là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Ngay chủ trương xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản - cũng như luận điểm “chủ nghĩa cộng sản phải xóa bỏ buôn bán” - mà các ông nói về xã hội tương lai cùng với giả định là cách mạng vô sản nổ ra và thắng lợi ở các nước tư bản đã đạt tới trình độ phát triển cao nhất. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và các nước xã hội chủ nghĩa sau này cho thấy, đối với những nước chưa qua chủ nghĩa tư bản, thậm chí đã trải qua nhưng mới đạt trình độ phát triển trung bình của chủ nghĩa tư bản vẫn còn sản xuất hàng hóa, buôn bán thì phải thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân tư bản ở phạm vi nhất định dưới sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước vô sản. Điều này chỉ làm phong phú thêm, chứ không phải là sở cứ để bác bỏ luận đề nêu trên của Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn. Điều rất đáng chú ý là, trong Tuyên ngôn, Mác và Ăngghen đã phê phán luận điểm - mà ngày nay vẫn có không ít người đưa ra để cổ vũ cho việc tư hữu hóa triệt để - cho rằng nếu xóa bỏ chế độ tư hữu thì mọi người sẽ trở nên lười biếng, làm ngưng trệ mọi hoạt động. Mác và Ăngghen viết: “Nếu quả như vậy thì xã hội tư sản phải sụp đổ từ lâu rồi do tình trạng lười biếng, vì trong xã hội ấy, những người lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không lao động”. Về đời sống chính trị, trong Tuyên ngôn cũng chỉ rõ: Nhà nước của xã hội cộng sản tương lai (tức là xã hội XHCN - một giai đoạn đầu của CNCS – chính là hình thức GCVS tự tổ chức thành giai cấp thống trị, nắm quyền thống trị trong xã hội thông qua nhà nước. Tuyên ngôn khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc với nguyên lý nổi tiếng: Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ. Tư bản là một lực lượng quốc tế, toàn bộ giai cấp tư sản các nước cấu kết với nhau bóc lột toàn bộ giai cấp vô sản toàn thế giới, vì vậy khẩu hiệu hành động của giai cấp vô sản là “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”. Trong lĩnh vực ý thức xã hội, đạo đức và đời sống tinh thần của xã hội, cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa “đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ truyền”. Tuy nhiên, không thể hiểu luận điểm này của Tuyên ngôn một cách máy móc, thô thiển. Những tư tưởng của quá khứ phải xóa bỏ mà Mác và Ăngghen muốn nói đến ở đây là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, kể cả các tư tưởng pháp quyền, đạo đức và quan niệm tôn giáo tư sản như con đẻ của sở hữu tư nhân và chế độ bóc lột, cũng như những tư tưởng, ý thức của giai cấp phong kiến, của chế độ phong kiến chuyên chế, giai cấp đã quá thời về mặt lịch sử. Gần 160 năm cho sự phán xét, khảo nghiệm của lịch sử đối với một tác phẩm cương lĩnh là khoảng thời gian không ngắn. Vượt qua bao biến cố của lịch sử và những thăng trầm của phong trào cộng sản toàn thế giới, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cho đến nay vẫn thể hiện những chân lý khoa học về sự thay thế không tránh khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã hội mới cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là xã hội xã hội chủ nghĩa. Khẳng định giá trị vĩnh hằng của Tuyên ngôn, Lênin viết: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách; tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”[1]. Chính vì vậy, thái độ đối với Tuyên ngôn thực chất là thái độ đối với chủ nghĩa Mác nói chung. Sinh thời, Macxen Caxanh, một trong những lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, mỗi năm đọc lại Tuyên ngôn ít nhất một lần. Theo ông, tác phẩm là cái gì đó tuy đã cũ nhưng luôn luôn mới. 4. Tuyên ngôn với thời đại ngày nay Giá trị và sức sống của Tuyên ngôn đã được chính những sự kiện trọng đại của thời đại ngày nay chứng minh. Đầu tiên phải kể đến, đó là Công xã Pari năm 1871 với chính quyền của giai cấp công nhân đứng vững hơn 70 ngày, đã đánh dấu một vết rạn nứt đầu tiên hiển nhiên và không bao giờ hàn gắn nổi của chế độ tư bản. Kế theo, là Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 - sau Tuyên ngôn 70 năm - với sự ra đời của Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nối tiếp đột phá trọng đại này, sau chưa đầy 3 thập niên, đó còn là sự ra đời, tồn tại và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến cuối những năm 80 - đầu những năm 90 thế kỷ XX, trở thành một lực lượng hùng hậu, tích cực, đối trọng mạnh mẽ với toàn bộ hệ thống tư bản thế giới đã bộc lộ rõ bản chất phản động, phản nhân loại, phản nhân văn của nó. Sức sống và tính chân lý của Tuyên ngôn vẫn tiếp tục được khẳng định kể cả trong bối cảnh mới của thế giới những thập niên cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI. Sự kiện chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ cũng như xu hướng xã hội chủ nghĩa ở một số nước Á, Phi, Mỹ la-tinh bị đẩy lùi vào những năm 1989 - l991 và sau đó, dẫu là một tổn thất nghiêm trọng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, song vẫn không phải là bằng cớ để có thể bác bỏ Tuyên ngôn, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, hay đảo ngược thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Vậy phải hiểu sự biến chính trị nêu trên như thế nào cho đúng? Ai nấy đều biết, CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu cũng như hệ thống XHCN thế giới nói chung lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng từ những năm 70-80 của thế kỷ XX. Muốn khắc phục tình trạng này, hầu hết các nước XHCN đã tiến hành cải tổ, cải cách. Song do cải tổ mắc sai lầm nghiêm trọng, mất phương hướng nên đã dẫn tới đổ vỡ thể chế. Rõ ràng, cải tổ là tất yếu, nhưng lại không tất yếu dẫn tới đổ vỡ CNXH. Ta hãy nhớ lại luận điểm nổi tiếng của Mác khi ông tổng kết cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850 và Công xã Pari: “Cách mạng có thể thất bại nhưng cách mạng sẽ không bao giờ bị tiêu diệt”. Dự báo này của Mác (năm 1871) đã được Cách mạng Tháng Mười Nga chứng thực (1917) sau gần 1/2 thế kỷ. Tư tưởng này của Mác vẫn tiếp tục soi sáng nhận thức của chúng ta về CNXH ngày nay. Sự kiện đó cũng không minh chứng cho “tính ưu việt”, “sức sống” hay một thắng lợi hoàn toàn, tuyệt đối, mang tính “hoàn tất lịch sử” của chủ nghĩa tư bản như các nhà tư tưởng tư sản thời hậu chiến tranh lạnh đang ra sức hy vọng và tuyên truyền. Sự phát triển của thực tiễn lịch sử xã hội thế giới và nhận thức lý luận chính trị khoa học mác xít vài thập niên qua cho thấy ngày càng rõ, sự kiện chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ tuy có phần là hậu quả của hoạt động chống phá lâu dài, toàn diện, khốc liệt, hiểm độc của chủ nghĩa tư bản đế quốc quốc tế, nhưng nguyên nhân cơ bản và chủ yếu của nó là ở sự bất cập của một mô hình chủ nghĩa xã hội nhất định đã bị tuyệt đối hoá, lại duy trì vượt quá những điều kiện tất yếu ban đầu của nó để trở nên không còn phù hợp với tình hình mới; cũng như ở những sai lầm nghiêm trọng của giới lãnh đạo Đảng, Nhà nước tại đây khi tiến hành cải tổ mô hình ấy. Điều này cũng được khẳng định sáng tỏ thêm bởi một tình hình tích cực ngược hẳn lại là, với cùng những khó khăn, thách thức từ bên ngoài như của Liên Xô và các nước Đông Âu, song nhờ có nhân tố lãnh đạo chủ quan bên trong vững vàng, có đường lối cải cách, mở cửa, đổi mới đúng đắn, lại được đông đảo quần chúng nhân dân lao động hết lòng ủng hộ mạnh mẽ mà chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác vẫn đứng vững, ngày càng lớn mạnh, phát triển. Trong khi đó, nhìn về chủ nghĩa tư bản thế giới ngày nay ở bối cảnh cục diện lưỡng cực giải thể, phương tây do Mỹ đứng đầu dường như chiếm lĩnh địa vị độc tôn, thì lại thấy bộc lộ nhiều khiếm khuyết cơ bản mà Tuyên ngôn đã vạch rõ. Thực tế là trong nhiều thập niên qua, các nước tư bản hàng đầu ở phương Tây đạt được sự tăng trưởng đáng kể về cơ sở, tiềm lực kinh tế - kỹ thuật. Đó là nhờ họ đã một mặt, triệt để tận dụng được những thành quả, tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ; và mặt khác, đồng thời ra sức thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá. Nhưng “thành công” này không hề chứng tỏ, khẳng định “hiệu lực”, “hiệu quả” của các quan hệ kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất tư bản. Bởi vì, thứ nhất, “thành công” đó chỉ giới hạn ở vùng trung tâm của chủ nghĩa tư bản thế giới, còn ở vùng ngoại vi thì các quan hệ ấy chỉ mang lại thất bại và tai họa như là cái giá phải trả cho sự thành công ở vùng trung tâm. Thứ hai, một khi đã phải dựa vào các giải pháp, điều kiện bên ngoài như trực tiếp gia tăng lực lượng sản xuất (nhờ vận dụng tiến bộ khoa học - công nghệ) hoặc đơn thuần mở rộng quy mô “cơ học” của không gian thị trường (bằng thúc đẩy toàn cầu hoá) suốt từ đầu những năm 50 thế kỷ trước đến nay, thì rõ ràng là chính bản thân các quan hệ kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất tư bản đã không còn đủ trữ lượng tích cực nội tại để thúc đẩy sản xuất phát triển, càng không đủ năng lực tự cải biến, tự điều chỉnh để thích ứng với trình độ và quy mô tăng trưởng mới của lực lượng sản xuất xã hội... Ở bình diện đời sống xã hội cụ thể trực tiếp, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản giữa lao động và tư bản, vô sản và tư sản không hề thay đổi ngay cả sau Tuyên ngôn gần 160 năm nay. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là CNTB hiện đại, trên thế giới ngày nay vẫn có đến 1,2 tỷ con người phải tiếp tục chịu nghèo đói, tật bệnh, mù chữ, chiến tranh, hưởng mức thu nhập dưới 1USD/ngày; 2,5 tỷ người nghèo có tổng thu nhập chỉ bằng thu nhập của 250 tỷ phú, triệu phú lớn nhất thế giới gộp lại; 1/3 lực lượng lao động trên thế giới, tức là khoảng 1 tỷ người bị thất nghiệp ở các mức khác nhau; tại hơn 100 nước đang hoặc kém phát triển, mức thu nhập bình quân đầu người giảm đi so với 2 thập niên trước, cũng các nước này hàng năm thâm hụt thương mại quốc tế lên đến khoảng 100 tỷ USD, còn hàng ngày thì có đến 30.000 trẻ em chết bệnh mà lẽ ra có thể được cứu sống, và số người lớn mù chữ lên đến hơn 800. Gắn liền với thực trạng đó, địa vị của giai cấp công nhân xét trên quy mô toàn bộ nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thế giới vẫn không thay đổi. Tại các nước phương Tây, dù người công nhân có mức sống cao hơn trước đáng kể, có hình thức lao động được tri thức hoá rõ rệt, có tài sản cá nhân được “trung lưu hoá” ít nhiều, có cơ cấu ngành nghề thay đổi lớn so với trước (bộ phận kỹ thuật viên, quản trị viên cao cấp tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương đối,...), nhưng về bản chất họ vẫn chỉ là người làm thuê, kể cả khi được tham gia vào phần việc quản lý, hoặc nắm giữ một tỷ lệ nhất định cổ phần, cổ phiếu sản xuất. Bởi vì khi đó, thực ra họ vẫn chỉ là một nhóm thiểu số người làm thuê tương đối được ưu đãi hơn (bởi lợi ích kinh tế chứ không phải bởi quyền lực chính trị - xã hội nào), và do đó, có một mức sống tương đối cao hơn so với không phải là giai cấp nhà tư bản, mà chỉ là so với phần đa số người làm thuê khác trong phạm vi quốc gia - dân tộc, đặc biệt là ở quy mô quốc tế. Như vậy, từ những thập niên chuyển giao giữa hai thế kỷ XX - XXI, thật ra nhân loại đã chứng kiến sự thay đổi không phải là của một thời đại. Cái đã thay đổi chỉ là thời cuộc, thời thế, cục diện thế giới mang tính sự kiện và tình huống chứ không phải là bản chất của quá trình lịch sử. Cả trong chiều sâu của quy luật lịch sử cũng như theo diễn biến sinh động đầy kịch tính của đời sống xã hội, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bởi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại vẫn đang tiếp diễn mà không một thế lực nào có thể đảo ngược được. Chủ nghĩa tư bản vẫn còn đó với những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục được của nó. Xã hội tư bản không dễ biến màu bản chất của mình chỉ bằng lối xưng danh mới “phi hệ tư tưởng hoá” như “xã hội hậu tư bản”, “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội tin hoá”, “xã hội kinh tế tri thức hoá”. Tương tự như thế, giai cấp công nhân ngày nay - giai cấp vô sản hiện đại - cũng không thể biến đổi thành tầng lớp “phi vô sản hoá”, “hữu sản hoá”, “trung lưu hoá” cho dù ở phạm vi quốc gia - dân tộc tại riêng các nước phương Tây, hay trên quy mô toàn cầu. Không phải ngẫu nhiên mà một học giả tư sản, nhà sử học có tiếng người Pháp Rô-giê Mác-ten-li, khi bác bỏ thẳng thừng “Dự thảo Nghị quyết chống Cộng sản” của Hội đồng Nghị viện Châu Âu hồi đầu năm 2006, đã đồng thời còn nhấn mạnh rằng: Chế độ áp bức là mâu thuẫn và trái ngược với lý tưởng sâu sắc của chủ nghĩa cộng sản; rằng ngày nay chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá đang áp đặt trật tự của họ, tuy nhiên trật tự này không có sức sống bởi chính nó lại gây ra tình trạng mất trật tự nguy hại; rằng đã đến lúc phải nghĩ đến một chủ nghĩa cộng sản “suy nghĩ lại” hoặc “xây dựng lại”... Liên quan đến dự cảm tiến bộ, nhạy bén và có tính khách quan này là một thực tế mới mẻ, rộng lớn, khá tích cực và rất đáng chú ý khác. Đó là hiện tượng các lực lượng cánh tả lên cầm quyền ở hàng loạt nước thuộc khu vực Trung và Nam Mỹ. Hiện tượng “làn sóng hồng Mỹ la-tinh” này, tuy có thể chưa phải là “đáp án” xã hội chủ nghĩa cho các quốc gia - dân tộc tại đó, nhưng lại đang là “đối án” tự tuyên bố bác bỏ thứ chủ nghĩa tư bản “tự do mới” được phương Tây cổ suý, bác bỏ chủ nghĩa tư bản đế quốc cường quyền và độc quyền, can thiệp và áp đặt đang ra sức lấn lướt ở nhiều khu vực trên thế giới ngày nay. Cần phải khẳng định, những tư tưởng của Tuyên ngôn vẫn đang sống và ngày càng sống động hơn theo nhịp tiến lên của nhân loại tiến bộ, của cả xã hội loài người đang vững bước đi vào thế kỷ XXI. Sức mạnh tư duy vạch thời đại của Mác-Ăngghen trong tác phẩm này vẫn được thực tiễn lịch sử toàn thế giới khảo nghiệm và minh chứng rực rỡ trong thời đại ngày nay. 5. Tuyên ngôn đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam Đối với cách mạng Việt Nam, Tuyên ngôn nói riêng và chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam dẫn đường. Trên cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vạch ra đường lối chiến lược giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản mà Mác và Ăngghen đã chỉ ra trong Tuyên ngôn; đã vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng của Mác để xây dựng đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội; đã thấm nhuần tinh thần biện chứng của Tuyên ngôn để năng động, sáng tạo trong xây dựng xã hội mới và trong công cuộc đổi mới tròn hai thập kỷ vừa qua... Trên con đường đi tới tương lai xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, mục tiêu phấn đấu của Đảng và nhân dân ta – “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” - là mục tiêu mang tính hiện thực, khả thi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó kết hợp nhuần nhuyễn trong nội dung của mình những mối quan hệ biện chứng giữa tương lai và hiện tại, lâu dài và trước mắt, cái chung và cái riêng, thời đại và dân tộc, quốc tế và trong nước... Trong thế giới toàn cầu hoá đầy thời cơ và thách thức đan xen - cái thế giới mà chính Mác và Ăngghen đã dự báo trong Tuyên ngôn, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục tìm thấy ở Tuyên ngôn những chỉ dẫn thế giới quan và phương pháp luận quý báu; vẫn thấy ngời sáng những giá trị bền vững của tác phẩm lý luận và cương lĩnh bất hủ này. Vận dụng sáng tạo những tư tưởng khoa học và phương pháp cách mạng của Tuyên ngôn vào sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, chúng ta cần tập trung mọi nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân vào việc giải quyết những vấn đề trọng yếu sau đây: Thứ nhất, thực hiện nhất quán tư tưởng giải phóng sức sản xuất giải phóng mọi tiềm năng của xã hội để phát triển mạnh mẽ LLSX bằng cách phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế, xây dựng và phát triển mạnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tiếp tục đổi mới cơ chế, hoàn thiện chính sách để tạo động lực phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế gắn với từng bước thực hiện công bằng xã hội. Chỉ trên cơ sở một LLSX phát triển và hiện đại thì quan hệ sản xuất tiên tiến với chế độ sở hữu xã hội đã được xác lập mới có được cái giá đỡ vật chất cần thiết cho nó trở nên vững mạnh. Đó là con đường dẫn tới sự phồn vinh của nền kinh tế dân tộc đủ sức đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới có hiệu quả. Đó cũng là tư tưởng của Đảng ta khi xác định phát triển kinh tế là trọng tâm. Muốn đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển thì mấu chốt của vấn đề là phát triển kinh tế, phát huy mọi tiềm năng, thúc đẩy mọi tiềm lực để tạo dựng, thực lực kinh tế của nhà nước và xã hội. Cho dù cái kinh tế không phải là duy nhất nhưng xét đến cùng, kinh tế vẫn là nhân tố động lực mạnh mẽ nhất, quyết định nhất của phát triển và tiến bộ xã hội. Đó là một trong những tư tưởng căn bản của Tuyên ngôn và của chủ nghĩa Mác nói chung. Mác-Ăngghen từng nêu một luận điểm nổi tiếng: Cách mạng CSCN xét về then chốt là có nội dung kinh tế. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải thấm nhuần tư tưởng đó. Thứ hai, sứ mệnh lịch sử của GCCN thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản đã được Tuyên ngôn khẳng định là giải phóng giai cấp, dân tộc và xã hội, tiến tới xã hội XHCN và CSCN. Trong bối cảnh và điều kiện hiện nay, GCCN chỉ có thể làm tròn trọng trách lịch sử của mình khi nó thực sự là một lực lượng xã hội lớn mạnh và hiện đại. Vì vậy, chúng ta phải ra sức xây dựng và phát triển GCCN nước ta theo hướng tri thức hoá, hiện đại hóa, làm chủ khoa học- kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của thế giới. Giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, CNXHKH cho giai cấp công nhân là một vấn đề rất hệ trọng của công tác tư tưởng lý luận hiện nay. Phải sớm có chiến lược phát triển GCCN và chính sách quốc gia đối với đội ngũ công nhân - lao động nước ta, đồng thời chăm lo xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, một bộ phận rất quan trọng của hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. GCCN và công đoàn là một trong những cơ sở chính trị - xã hội chủ yếu của Đảng, của cách mạng, của chế độ XHCN mà chúng ta đang xây dựng. Đi vào kinh tế thị trường hướng tới kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, chúng ta phải có đội ngũ công nhân hiện đại, lành nghề, tay nghề, bậc thợ cao, giàu năng lực trí tuệ sáng tạo trong lao động. Đây là đòi hỏi bức xúc để phát triển kinh tế và tạo lập sự bền vững của chế độ chính trị, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Thứ ba, thực hiện có kết quả và hiệu quả công tác xây dựng Đảng, khâu then chốt của đổi mới hệ thống chính trị hiện nay, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, từ chính trị, tư tưởng, tổ chức đến đạo đức, lối sống, thực sự là một Đảng cách mạng chân chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thật là có ý nghĩa khi Mác-Ăngghen đặt tên cho Cương lĩnh chính trị là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Đảng ta, vào thời điểm phát triển hệ trọng và có tính bước ngoặt này cần phải làm hết sức mình để dẫn dắt GCCN, dân tộc đi tới đích cuối cùng, thực hiện 1ý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với một Đảng Cộng sản cầm quyền trong sạch vững mạnh, bản lĩnh chính trị vững vàng, không ngừng nâng cao năng lực trí tuệ, có phương thức lãnh đạo đúng đắn nhất định sẽ làm tròn trách nhiệm lịch sử mà giai cấp và dân tộc giao phó. Đổi mới - Trí tuệ - Dân chủ - Đoàn kết và Phát triển, đó là phương châm hành động của toàn Đảng, của dân tộc và xã hội mà Đảng sẽ đi tiên phong, gương mẫu để thúc đẩy xã hội phát triển. Thứ tư, nắm vững tư tưởng cách mạng vô sản triệt để, tinh thần nhân đạo cộng sản cao cả và phương pháp biện chứng khoa học mác xít trong Tuyên ngôn, trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần đổi mới công tác tư tưởng một cách tích cực, toàn diện cả về nội dung và phương thức. Ở đây, cần đảm bảo nguyên tắc, tính khách quan, khoa học sâu sắc kết hợp với tính sinh động, thuyết phục cao. Công tác tư tưởng của Đảng mà hạt nhân của nó là công tác lý luận cần phải được đổi mới sao cho bám sát thực tiễn cuộc sống, khắc phục tính sơ cứng và giáo điều, vừa phản ánh và đáp ứng yêu cầu thực tiễn vừa thúc đẩy và định hướng phát triển thực tiễn, thống nhất lý luận với thực tiễn... Mặt khác lại phải kiên quyết chống xu hướng cơ hội, thoả hiệp hữu khuynh trước thực tế có nhiều biến động phức tạp, lắm nguy cơ thách thức. Cần đưa công tác tư tưởng hướng tới khối quần chúng đông đảo, làm lay động được nhận thức và tình cảm của hàng triệu người, cổ vũ các tầng lớp nhân dân ra sức học tập quán triệt đường lối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, phấn khởi tin tưởng, nhiệt tình lao động sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta phát triển nhanh, mạnh, bền vững, từng bước hiện thực hoá lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mà Mác-Ăngghen đã vạch ra trong Tuyên ngôn.
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net