logo

Những chỗ sai khó ngờ trong từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam

Quyển từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn lân đã nằm trong tủ của chúng tôi ngót mười năm nay nhưng vì công kia việc nọ nên đối với nó chúng tôi cũng chỉ mới làm được chuyện cởi ngựa xem hoa.
Những chỗ sai khó ngờ trong «Từ  điển thành ngữ và tục ngữ Việt  Nam» của Nguyễn Lân Huệ Thiên Quyển Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Nxb. Văn hóa,  Hà Nội, 1989) đã nằm trong tủ sách của chúng tôi ngót mười năm nay nhưng vì  công kia việc nọ nên đối với nó chúng tôi cũng chỉ mới làm được chuyện cỡi ngựa  xem hoa. Tuy nhiên chúng tôi vẫn phát hiện ra trong đó rất nhiều chỗ sơ sót mà  sau đây là 30 trường hợp chọn lọc; xin mạn phép nêu ra để chất chính cùng tác  giả và các bậc thức giả. 1. «Áo cứ chàng, làng cứ xã (Xã là chức dịch trong làng). Nói tính ỷ lại của người  đàn bà, cũng như tính ỷ lại của những người dân trong thôn xóm, không thấy được  vai trò làm chủ của mình!» (tr. 10) Câu này đã bị tác giả chép sai và vì chép sai nên cũng đã giảng sai hẳn ý nghĩa  đích thực của nó. Nguyên văn là «Áo cứ tràng, làng cứ xã» hoặc «Áo cứ tràng,  làng cứ lý trưởng». Tràng vốn là cái cổ áo (như đã được giảng trong Từ điển An  Nam ­ Bồ Đào Nha ­ La Tinh của A. de Rhodes), nay được hiểu là vạt trước của  chiếc áo dài. Nhưng dù có hiểu như thế nào thì đó cũng là một bộ phận của cái áo  và đây là một cách hiểu hoàn toàn phù hợp với kiểu cấu trúc ngữ pháp ­ ngữ nghĩa  của câu tục ngữ đang xét. Trong kiểu cấu trúc «A cứ B, C cứ D» này thì B luôn  luôn là một bộ phận của A còn D luôn luôn là một bộ phận của C. Trong câu tục  ngữ Thuyền cứ mạn, quán cứ vách chẳng hạn, thì mạn là một bộ phận của thuyền  còn vách là một bộ phận của quán. Cũng vậy, trong câu tục ngữ đang xét thì tràng  là một bộ phận của áo còn xã (trưởng) hoặc lý trưởng là một bộ phận của (dân)  làng. Vì vậy mà đưa «chàng» (đối với «nàng») vào đây thì rất lạc lõng: làm sao mà  «chàng» lại có thể là một bộ phận của cái áo được! Câu tục ngữ thực ra không hề  nói lên «tính ỷ lại của người đàn bà cũng như tính ỷ lại của những người dân trong  thôn xóm». Nó chỉ nói lên vai trò và trách nhiệm của người xã trưởng (hoặc lý  trưởng) đối với làng và dân làng mà thôi. 2. «Ba hoa chích chòe (Chích chòe là một loài chim nhỏ hay kêu chiêm chiếp).  Chê những kẻ hay nói lung tung về mọi chuyện linh tinh.» (tr. 22) Tác giả đã nhầm con chim chích chòe với con chim chích. Chim chích mới đúng là  một «loài chim nhỏ hay kêu chiêm chiếp» còn chích chòe thì lại là một loài chim to  xấp xỉ con sáo, có bộ lông đen nhánh mà riêng ở bụng thì màu trắng, có tiếng hót  rất liến thoắng và láu lỉnh, thỉnh thoảng lại điểm vào mấy tiếng nghe ra như  «chích, chòe» nên mới được gọi là chim... chích chòe. Do cái tiếng hót liến thoắng  và láu lỉnh của nó mà tên của con chim này mới được đưa vào thành ngữ «ba hoa  chích chòe», chứ con chim chích bé nhỏ với tiếng kêu chiêm chiếp kia thì «ba  hoa» thế nào được! 3. «Ba mươi sáu chước (Do câu chữ Hán: Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách,  nghĩa là trong ba mươi sáu chước, chạy đi là hơn cả). Ý nói là đi trốn là hơn.» (tr.  23) Nhưng cái ý «đi trốn là hơn» là của mấy tiếng «tẩu vi thượng sách» còn «ba mươi  sáu chước» lại là lời dịch của mấy tiếng «tam thập lục kế». Vậy làm sao mà «ba  mươi sáu chước» lại nói được cái ý «đi trốn là hơn»? 4. «Chẳng phải đầu lại phải tai. Ý nói: kẻ làm nên tội thì không việc gì, còn người  ngoài cuộc lại phải trừng phạt.» (tr. 49) Nguyên văn câu này là «Chẳng phải đầu cũng phải tai» và ở đây không nhất thiết  có việc phạm tội mà nói chung là những chuyện rắc rối, phiền phức. Trong những  chuyện phiền phức, rắc rối đó, người trong cuộc hoặc người tò mò đến xem (kể  như nhập cuộc) có thể không gặp chuyện phiền phức này thì cũng gặp chuyện rắc  rối khác. Câu tục ngữ này hoàn toàn chẳng có liên quan gì đến người thực sự  ngoài cuộc cả. 5. «Chồng chắp, vợ nối. Nói cặp vợ chồng lăng nhăng, không có cưới xin đàng  hoàng.» (tr. 58) Từ điển thành ngữ Việt Nam của Viện Ngôn ngữ học do Nguyễn Như Ý chủ biên  (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1993) cũng giảng giống như Nguyễn Lân. Nhưng hai tiếng  chắp, nối hoàn toàn không nói lên chuyện «lăng nhăng», «không có cưới xin đàng  hoàng» mà chỉ nói rằng đây là người chồng đã có ít nhất một đời vợ trước và người  vợ đã có ít nhất một đời chồng trước, đúng như đã giảng trong Việt Nam tự điển  của Lê Văn Đức: «Chắp nối nhau mà làm vợ chồng, không phải một kèo một cột  (Không phải lấy nhau lần đầu tiên khi mới lớn lên)». 6. «Chữ nhẫn là chữ tương vàng, ai mà nhẫn được thì càng sống lâu (Tương là đối  lẫn nhau). Khuyên nên nhịn nín để bảo đảm sự hòa hảo.» (tr. 62) Tác giả đã nhầm: chữ tương ở đây không có nghĩa là «đối lẫn nhau». Tương ở đây,  chữ Hán là c , có nghĩa là thếp, là viền bằng kim loại. «Chữ nhẫn là chữ tương  vàng» có nghĩa là «Chữ nhẫn là một chữ thếp vàng (hoặc viền vàng)» đấy.  «Nhẫn» ở đây cũng chẳng phải chỉ đơn giản là «nhịn nín để bảo đảm sự hòa  hảo». Hình như còn có cả một chút xíu phong vị Thiền ở trong đó nữa. Vì vậy nên  mới nói «ai mà nhẫn được thì càng sống lâu». 7. «Cờ ngoài bài trong. Nói người đứng ngoài góp ý cho người đánh cờ, hoặc ngồi  xem bài bàn nước đánh với người đánh bài.» (tr. 76) Nếu đúng như Nguyễn Lân đã giảng, thì vấn đề sẽ trở nên khó hiểu: tại sao lại  phải dùng từ ngoài để nói về cờ và từ trong để nói về bài? Thực ra, đánh cờ thì  phải bày các con cờ ra cho đối thủ cùng thấy (lối nói này xuất phát từ cờ tướng)  còn đánh bài thì phải giấu các con bài của mình cho các tay bài khác không thể  biết được. «Cờ ngoài bài trong» là như thế. Còn có một cách hiểu khác nữa là: Với  cờ tướng, người ở ngoài mách nước thì sáng hơn người trong cuộc nhưng khi đánh  bài thì chính người cầm bài mới nắm vững các con bài của mình hơn người ở  ngoài. 8. «Dẫu xây chín bậc phù đồ, chẳng bằng làm phúc cứu cho một người (Phù đồ có  nghĩa là cầu nổi). Ý nói: Cứu sống được một người có ý nghĩa lớn lao hơn làm một  việc công ích.» (tr. 87) Thực ra thì phù kiều mới là cầu nổi còn phù đồ lại là cái tháp xây lên để chôn cất  xá lợi (tro xương) của đức Phật hoặc các vị cao tăng, đại đức. «Xây chín bậc phù  đồ» thực chất chỉ là một lối nói ví để chỉ việc dâng cúng lễ vật, tài sản, tài chính...  cho nhà chùa; xem ra cũng chẳng thiết thực bằng việc «làm phúc cứu cho một  người». Chứ ai lại đi phủ nhận một cách phũ phàng việc làm công ích có khi đem  lại quyền lợi cho hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng vạn người bằng hai câu lục  bát đó! 9. «Đàn gảy tai trâu. Ý nói: Không có tài thưởng thức âm nhạc.» (tr. 93) Dùng tiếng «tài» ở đây là đã quá đề cao con trâu rồi đấy. Chúng tôi lạm phép cho  rằng nếu cần thì chỉ nên dùng từ «khả năng» là vừa. Nhưng vấn đề ở đây chủ yếu  cũng chẳng phải là cái khả năng thưởng thức âm nhạc, mà lại là cái việc nhẹ dạ  đem điều hơn lẽ thiệt đi nói với kẻ ngu si, đần độn. 10. «Điệu hổ ly sơn (Nghĩa đen: Đưa hổ xa núi). Tìm cách đưa kẻ ác đi xa mình,  để nó không thể quấy rầy mình được.» (tr. 105) Điệu hổ ly sơn thực ra là dụ cọp rời khỏi núi để diệt nó cho dễ hơn. (Đây chỉ mới  nói theo nghĩa đen). 11. «Hoa đàm đuốc tuệ (Đàm do từ Cồ­đàm là họ của Phật và tuệ là tính minh  mẫn của Phật). Ý nói: Đèn hương cúng Phật.» (tr. 131) Cồ Đàm đúng là hình thức phiên âm (đọc theo âm Hán Việt) của tiếng Sanskrit  Gautama, họ của Đức Thích Ca. Nhưng đàm trong hoa đàm đuốc tuệ thì lại chẳng  có liên quan gì đến hai tiếng Cồ Đàm cả, vì hoa đàm ở đây lại là hoa ưu đàm mà  tên đầy đủ là ưu đàm ba la, phiên âm từ tiếng Sanskrit udumbara. Tương truyền  cây ưu đàm cứ 3.000 năm mới trổ hoa một lần nên việc nó trổ hoa được xem như  việc Phật ra đời vậy. Hoa đàm đuốc tuệ là bốn tiếng dùng để nói lên cái tinh hoa  của Phật pháp cao siêu và huyền diệu. Đuốc tuệ (tuệ = prajñā) là ánh sáng của  Phật soi rọi cõi lòng chứ có phải là sáp nến đâu mà giảng là «đèn hương cúng  Phật». 12. «Lúa tốt xem biên, người hiền xem tướng (Biên là bờ ruộng, trong chế độ cũ  người thợ cấy thường cấy cẩn thận những hàng lúa ở gần bờ hơn là ở giữa ruộng).  Ý nói: chỉ nhìn tướng mạo một người cũng biết đó là người hiền hay người dữ.» (tr.  168) Tác giả đã chép sai chữ thứ nhất của câu này: Và vì đó là lụa nên câu đang xét  còn có một dị bản nữa là Lĩnh tốt xem biên, người hiền xem mặt. Biên là cái mép  chạy suốt chiều dài của xấp lụa, ở hai đầu của khổ lụa, được dệt thật chắc để giữ  cho các sợi không bị xê dịch. Muốn biết lụa có tốt hay không, người ta thường  quan sát biên lụa; biên có săn, có mịn, có đều thì lụa mới tốt. «Lụa tốt xem biên»  là như thế. Còn hiền ở đây là hiền tài, giỏi giang chứ có phải là hiền lành đâu mà  đem ra đối lập với «dữ» như tác giả đã làm. Đối với người hiền, ở đây, chỉ là kẻ  ngu mà thôi. 13. «Mài mực ru con, mài son đánh giặc. Nói các ông đồ ngày xưa ngày thường  ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham  gia phục vụ quân sự.» (tr. 172) Câu này thực ra chỉ ví việc mài mực với việc ru con và việc mài son với việc đánh  giặc chứ chẳng có liên quan gì đến việc các ông đồ giúp vợ làm việc vặt hoặc  tham gia phục vụ quân sự cả. Ngày xưa người ta dùng mực để viết và dùng son để  khuyên, để điểm và để phê. Mực dễ mài hơn son nhiều nên mài mực thì chỉ cần  làm những động tác êm nhẹ, còn son là một thứ đá rắn khó mài nên mài son thì  phải làm những động tác mạnh và phải mất nhiều thì giờ hơn. Vì vậy nên người ta  mới nói «Mài mực ru con, mài son đánh giặc». 14. «Mặc ai lưới, mặc ai te, ta cứ thủng thỉnh kéo bè nghênh ngang (Te là lối đánh  cá bằng cách xua cá vào xuồng).» (tr. 174) Thực ra, te là một dụng cụ thô sơ đan bằng tre, giống như cái nhủi, dùng để xúc  bắt cá tôm ở những chỗ nước cạn chứ không phải là «lối đánh cá bằng cách xua  cá vào xuồng». Te có thể dùng như động từ nhưng cũng chỉ có nghĩa là dùng cái  te để xúc tôm xúc cá mà thôi. 15. «Mượn đầu voi nấu cháo. Cười kẻ hay nói khoác.» (tr. 191) Nguyên văn câu này là «mượn đầu heo nấu cháo», nghĩa là mượn cái sỏ lợn của  người ta về nấu cháo rồi trả lại cho người ta cái sỏ lợn... đã nấu chín. Chuyện  «mượn đầu heo nấu cháo» đã trở thành chuyện quen thuộc trong nền kinh tế bung  ra của xứ ta hiện nay, có vụ lên đến bạc tỷ. Nhưng người ta vẫn nói «mượn đầu  heo» chứ không ai vì con số hàng tỷ mà nâng cái đầu heo lên thành... «đầu voi».  Vì đã thay heo bằng «voi» nên tác giả mới giảng cho «thuận lý» rằng câu này  dùng để «cười kẻ hay nói khoác». 16. «Nam nhân như chấy, nữ nhân như rận. Lời so sánh thô thiển cho rằng ở nơi  nào đó, đàn ông và đàn bà đều rất đông.» (tr. 193) Đây chẳng qua chỉ là một sự bóp méo mấy tiếng nam nhi chi chí, nữ nhi chi hạnh  để đùa tếu chứ đâu có phải là «lời so sánh thô thiển cho rằng ở nơi nào đó, đàn  ông đàn bà đều rất đông». Có phải ai có chấy, có rận thì cũng có đầy đầu, đầy  mình đâu mà nói là «rất đông». 17. «Nằm giá khóc măng (Theo một truyện trong Nhị thập tứ hiếu, một người con  có hiếu đi kiếm măng cho mẹ, không thấy măng, nằm trên tuyết khóc, măng  thương tình (!) mọc lên cho anh lấy). Nói người con có hiếu hết lòng vì cha mẹ.»  (tr. 196) Đúng đây là chuyện trong Nhị thập tứ hiếu nhưng lại là hai truyện đã bị tác giả gộp  làm một. Anh «nằm giá» là Vương Tường đời Tấn (truyện thứ 18), còn anh «khóc  măng» thì lại là Mạnh Tông đời Tam Quốc (truyện thứ 20). Măng thì mọc ở bụi tre  để cho Mạnh Tông xắn còn cá thì nhảy lên từ khe nứt của băng (giá) nơi Vương  Tường nằm chờ nhưng vì tác giả đã gộp hai truyện làm một nên mới có chuyện  măng mà lại mọc trên tuyết! 18. «Nữ sinh ngoại tộc. Quan niệm phong kiến coi nhẹ phụ nữ, cho là đàn bà  thuộc họ bên ngoại.» (tr. 224) Đúng là quan niệm phong kiến đấy nhưng quan niệm này cho rằng con gái đã sinh  ra thì không thuộc dòng họ của cha mình vì trong tương lai ­ nếu có chồng ­ sẽ  thuộc về dòng họ nhà chồng. «Ngoại tộc» ở đây là «ngoài dòng họ (của cha)» chứ  đâu phải là «họ bên ngoại». 19. «Ôm lòng đòi đoạn (Đòi đoạn có nghĩa là nhiều phen). Ý nói: Nhiều phen đau  xót âm thầm.» (tr. 228) Đòi đoạn là nhiều khúc chứ không phải nhiều phen. Người ta vẫn nói «đau từng  khúc ruột». Khúc tức là đoạn đấy. 20. «Quyền thằng hủi (Trong xã hội cũ, người bị bệnh phong bị xã hội ruồng bỏ). Ý  nói: Chẳng có quyền hành gì.» (tr. 240) Đây thực ra chẳng phải quyền hành hay quyền lợi gì cả. Quyền ở đây là cái nắm  tay, cái quả đấm. Đây là một hình vị Hán Việt mà Hán tự là t . Hình vị này còn  được dùng theo hoán dụ để chỉ võ thuật nữa, chẳng hạn: quyền Anh, Thái cực  quyền, ... Cái nắm tay của thằng hủi không có ngón thì đấm thế nào được. Vậy  quyền thằng hủi là một lối nói dùng để chê những tay võ kém cỏi. Nói rộng ra thì  nó được dùng để chê chung những kẻ bất tài mà lại nắm (bằng cái bàn tay không  ngón!) những cương vị «ngon lành». 21. «Rắn mai tại lỗ, rắn hổ về nhà (Mai là mai gầm, hổ là hổ mang). Nhận xét cho  rằng rắn mai gầm thường ở trong hang, còn rắn hổ mang thì thường ra ngoài.» (tr.  244) Chuyện chẳng phải như thế vì đây là kinh nghiệm sống chết của những người bắt  rắn: hễ bị rắn mai gầm cắn thì thường chết ngay tại hang rắn còn hễ bị rắn hổ  mang cắn thì có thể về đến nhà mới chết, vì nọc rắn mai gầm độc và mạnh hơn  nọc rắn hổ mang đến 4 lần (theo Nguyễn Ngọc Hải, Từ điển 270 con vật, Hà Nội,  1993, tr. 130). Tất nhiên với người bắt rắn có đem theo thuốc đặc hiệu để trừ nọc  rắn thì lại là chuyện khác. 22. «Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. Lời kể theo một  câu chuyện truyền thuyết về luân hồi.» (tr. 251) Sự thật ở đây rất đơn giản. Một người đàn ông không thể trở thành cha nếu mình  chưa có con, cũng như không thể trở thành ông nếu con mình chưa có con. Vậy sự  ra đời của một đứa con là điều kiện tiên quyết để một người đàn ông được làm cha  cũng như sự ra đời của một đứa cháu là điều kiện tiên quyết để một người đàn ông  được làm ông. Chẳng qua ở đây người ta đã chơi chữ bằng cách đánh tráo khái  niệm: sinh trong sinh con, sinh cháu thì mới đúng là «đẻ» còn sinh trong sinh cha,  sinh ông thì chỉ là «tạo ra cương vị (cho một người nào đó)» mà thôi. 23. «Thâm đông thì mưa, thâm dưa thì khú, thâm vú thì nghén. Nhận xét đùa về  màu thâm của đầu vú người có mang.» (tr. 267) Đây thực ra là kinh nghiệm của người xưa: về thời tiết, hễ thấy trời u ám ở phía  đông vì mây đen che phủ thì biết trời sắp mưa; về chế biến và sử dụng thực phẩm,  hễ thấy dưa bắt đầu sậm màu thì biết là dưa sắp khú; còn về sinh lý phụ nữ, hễ  thấy đầu vú thâm lại thì biết là đã có mang. Đâu có phải là chuyện «nhận xét đùa  về màu thâm của đầu vú người có mang». 24. «Thờ thời dễ, gửi lễ thời khó. Nói sự băn khoăn của người phải gửi đồ lễ đến  cúng cha mẹ hay ông bà ở một nơi nào, không biết gửi bao nhiêu là vừa.» (tr. 274) Tác giả đã chép sai giữ thành «gửi» do đó mà đã giảng sai hàm ý của cả câu. Nguyên văn ở đây là «Thờ thời dễ, giữ lễ thời khó». Thờ cúng thì ai cũng thờ cúng  được nhưng mà giữ cho đúng nghi lễ mới là việc khó. 25. «Thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc. Việc thả cá có lợi là đúng và cần khuyến  khích, còn gá bạc thì ngày nay là một tội phạm, vì đó là một việc làm ăn bất  chính.» (tr. 277) «Thả cá» ở đây không phải là nuôi cá ở ao, đầm như Nguyễn Lân đã hiểu, mà là  «thách cá, nói trong một độ gà chọi hay cá thia thia, sau khi xem xét kỹ lưỡng con  vật rồi, những người cầm chắc con của mình chọn sẽ thắng, bèn thách mọi người  bắt số tiền cá của mình» (Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển). Vậy thả cá và gá bạc ở  đây là cùng một ca­tê­gô­ri với nhau. Chẳng có việc nào «là đúng và cần khuyến  khích» cả. 26. «Thương cung chi điểu. (Nghĩa đen: Con chim bị cung).» (tr. 279) Chỉ có thành ngữ Kinh cung chi điểu, có nghĩa là «con chim sợ cung» mà thôi.  Chẳng làm gì có câu «Thương cung chi điểu». Huống chi, «Thương cung chi điểu»  lại là «con chim làm cho cây cung bị thương» chứ nào có phải là «con chim bị  cung» như tác giả đã giảng! Tuy từ điển Trung Quốc có quyển có ghi nhận câu  này nhưng đây là một câu không chuẩn nên không thông dụng. 27. «Tu là cõi phúc, tình là dây oan. Lời than thở của kẻ đau đớn vì tình và muốn  đi tu.» (tr. 299) Tác giả đã chép sai chữ thứ ba của câu này: «Tu là cỗi phúc» (chứ không phải  «cõi»). Đồng thời, đây cũng chẳng phải là «lời than thở của kẻ đã đau đớn vì tình  và muốn đi tu» mà là lời của Tam Hợp đạo cô giải thích lẽ đời và lẽ trời cho vãi  Giác Duyên nghe tại câu 2658 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Và Nguyễn Du  cũng chỉ muốn triết lý như thế trong khi kể về cuộc đời hồng nhan bạc mệnh của  nàng Kiều chứ cũng chẳng hề muốn khuyên ai từ bỏ tình yêu mà quy y cửa Phật. 28. «Vạn thủy thiên sơn (Nghĩa đen: Vạn nước, nghìn núi).» (tr. 306) Thủy ở đây là «sông» chứ không phải là «nước» và «Vạn thủy thiên sơn» là muôn  sông nghìn núi. 29. «Vịt già, gà to. Ý nói: Vịt già thì ăn được, còn gà thì phải to béo, chứ gà già thì  thịt dai.» (tr. 311) Ở câu này thì tác giả lại chép sai chữ thứ tư: «Vịt già, gà tơ» (chứ không phải gà  «to»). Đây là một kiểu cấu trúc trong đó tiếng thứ hai và tiếng thứ tư trái nghĩa với  nhau, kiểu như «Chó già, gà non», «Cơm ráo, cháo nhừ», «Chuối sau, cau  trước,... Già mà đối với to ở đây thì e là sẽ chệch choạc chăng? 30. «Xập xí xập ngầu (Tức là «thập tứ thập ngũ» đọc theo cách nói của người  Quảng Đông).» (tr. 318) Thực ra, «xập xí xập ngầu» là đọc theo âm của phương ngữ Triều Châu, còn theo  phương ngữ Quảng Đông thì lại là: «xặp xi xặp ựng», mà chữ ựng là một âm mũi  rất khó đọc đối với người Việt Nam. * * * Trở lên là 30 chỗ sai chọn lọc trong Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của  Nguyễn Lân mà chúng tôi đã nhặt ra từ rất nhiều chỗ ghi chú và đánh dấu ở rìa  sách. Sau đây là những nhận xét tổng quát thấy được qua 30 chỗ sai đó. – Một là tác giả đã ghi sai từ ngữ của nhiều thành ngữ tục ngữ nên tất nhiên cũng  giảng sai luôn ý nghĩa của chúng, như ở các trường hợp 1, 4, 12, 15, 24, 26 và 29. – Hai là tuy không ghi sai nhưng tác giả lại giảng sai từ ngữ của nhiều thành ngữ  tục ngữ, như ở các trường hợp 2, 5, 6, 8, 11, 14, 18, 19, 20, 25, 28 và 30. – Ba là tuy không ghi sai, giảng sai từ ngữ nhưng tác giả cũng đã giảng sai ý nghĩa  chung của nhiều thành ngữ, tục ngữ, như ở các trường hợp 3, 7, 9, 10, 13, 16, 17,  18, 21, 22 và 23. Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn nhân tiện nhận xét thêm mấy điểm sau đây về  quyển từ điển của Nguyễn Lân. – Một là có rất nhiều đơn vị nguyên vẹn đã bị tác giả cắt nhỏ ra để làm thành  nhiều mục riêng, làm mất hẳn tính hoàn chỉnh của những đơn vị đó, đồng thời  cũng làm cho những mục riêng này trở thành lạc lõng, rời rạc. Xin đơn cử một  trường hợp điển hình. Trong 8 câu của đơn vị sau đây: Lỗ mũi em tám gánh lông, Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho. Đêm nằm thì ngáy o o, Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà. Đi chợ thì hay ăn quà, Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm. Trên đầu những rác cùng rơm, Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu. thì hai câu 3­4 bị tách làm một mục ở trang 102, hai câu 5­6 bị tách làm một mục ở  trang 103, còn hai câu cuối cùng thì bị tách làm một mục ở trang 293. Có những trường hợp thực sự gây sốc cho người đọc, chẳng hạn như mục: Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em. Tự nhiên đọc đến mục đó thì độc giả chẳng biết ất giáp gì vì vế trên là: Khó hèn   thì chẳng ai nhìn, đã bị tác giả ngắt bỏ. Những trường hợp như thế rất nhiều không làm sao có thể kể hết ra đây được.  Người nói, người viết khi vận dụng thành ngữ tục ngữ có quyền tỉa, tách sao cho  thích hợp với dụng ý của mình nhưng nhà từ điển, mà lại là người làm từ điển  thành ngữ, tục ngữ thì phải ghi nhận cho bằng được từng đơn vị nguyên vẹn chứ  dứt khoát không thể cắt xén như thế. – Hai là rất nhiều mục từ không phải là thành ngữ, tục ngữ vì đó lại là thơ của  Nguyễn Du, hoặc là ca dao, thậm chí có những mục từ chỉ là những hình thức láy  từ (loại này rất nhiều), chẳng hạn riêng trang 21 đã có đến 5: ầm à ầm ù, ấm a ấm  ớ, ậm à ậm ạch, ậm à ậm ừ, ấp a ấp úng. * * * Trên đây là những nhận xét rút ra từ 30 chỗ sai (đã phân tích) trong Từ điển thành  ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân. Những chỗ sai của quyển sách đó thì  còn nhiều mà riêng nhà giáo hưu trí Văn Phê (Tp. HCM) cũng đã nêu lên hơn 30  trường hợp trong một tài liệu ông đã gửi cho chúng tôi ­ mà với bút danh An Chi,  chúng tôi cũng đã có công bố 8 trường hợp tại «Chuyện Đông chuyện Tây» của  Kiến thức ngày nay số 278. Quyển từ điển này của Nguyễn Lân đã được Nxb.  Khoa học xã hội tái bản năm 1997 nhưng rất tiếc rằng những chỗ sơ sót đã phân  tích (và chưa phân tích) trong ấn bản 1989 (của Nxb. Văn hóa) vẫn tồn tại  «nguyên xi»[1]. Điều này làm chúng tôi giật mình rồi sinh ra lo lắng. Lo lắng về hai  mặt mà chúng tôi xin giải bày như sau: Thứ nhất là, cứ cái đà này thì những chỗ sơ sót trong từ điển của Nguyễn Lân sẽ  được «nhân bản» lên càng ngày càng nhiều lần hơn. Nếu những chỗ sơ sót đó  thực sự trở thành những tín điều được phổ biến sâu rộng thì các thế hệ mai sau sẽ  hiểu tiếng Việt như thế nào? Con cháu chúng ta sẽ không thèm nói cầu phao, cầu  nổi mà thay thế bằng «phù đồ» cũng không biết chừng! Rồi đến khi mang hương  hoa lên chùa lễ Phật, biết đâu chúng sẽ chẳng khấn: «Có chút hoa đàm đuốc tuệ,  mong Ngài nhận cho»! Khi đi trẩy hội – lễ hội thanh niên càng ngày càng nhiều –  biết đâu để nói đùa về sự đông đảo của nam thanh nữ tú chúng sẽ chẳng vui  miệng thốt lên: «Nam nhân như chấy, nữ nhân như rận»! Tiếng Việt mà tiến hóa kiểu đó thì thật là đáng buồn! Nhưng đó mới chỉ là một mặt  của sự lo lắng. Mặt kia thì ngược lại: một số hậu duệ của chúng ta sẽ không chịu  nghe theo những chỗ sai trong từ điển của Nguyễn Lân. Chúng sẽ bắt bẻ, chẳng  hạn, rằng nếu tích «nằm giá, khóc măng» của Nguyễn Lân mà đúng thì sách Nhị  thập tứ hiếu phải đổi tên thành «Nhị thập tam hiếu» vì chỉ có hai mươi ba tích mà  thôi. Chúng sẽ nói rằng ông bà chúng ta đâu có cười đùa cái đầu vú của người phụ  nữ đang mang thai – ông bà ta «nhân văn» lắm chứ! – vì sự thai nghén là một hiện  tượng thiêng liêng. Chúng sẽ nói rằng ông bà chúng ta đâu có sơ ý đến độ đem  việc nuôi cá ở ao, đầm mà đặt ngang hàng với việc gá bạc, v.v... Tóm lại chúng  không chấp nhận những chỗ mà quyển từ điển đã giảng sai. Nhưng đấy không  phải là việc đáng lo vì đó là điều đáng mừng. Đáng lo là chúng trách các bậc tiền  bối đã để lại cho chúng, và bạn bè sinh viên người nước ngoài của chúng, một  quyển từ điển lẽ ra phải là khuôn vàng thước ngọc thì lại có nhiều điều sai sót làm  cho người đọc không thể hài lòng. Đó là hai mặt của sự lo lắng và sự lo lắng đó đã thúc giục chúng tôi viết bài này.  Nếu có sai sót thì xin tác giả và độc giả niệm tình lượng thứ và chỉ bảo cho. ● (Tháng 5­1998) * Đăng lần đầu tiên trên tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ Thừa Thiên   Huế, số 2­1998. * In lại trong NHỮNG TIẾNG TRỐNG QUA CỬA CÁC NHÀ SẤM, Nxb TRẺ, 2004,   trang 391­406. [1] Từ năm 1993, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn có nêu lên những chỗ sơ sót của   quyển từ điển này trên tạp chí Kiến thức ngày nay, tạp chí Thông tin Khoa học &   Công nghệ Thừa Thiên Huế và các tập chuyên đề về Văn hóa & Đời sống của   Nxb. Tp. HCM.    Các thành viên gửi lời cảm ơn đến bài  beotron1906 (21­06­2008), Judas Iscariot (06­12­ 2008), nxquang (22­02­2008), quocdung (07­01­2007),  viết hữu ích này:  Reihinous (19­11­2008), StarFree (01­08­2007),  utopiano.vn (25­02­2008) vvn Xem hồ sơ Find More Posts by vvn   #2  23­04­2006, 12:32 AM  taminhchau  toi nghi rang phe binh va phat hien ra cho sai nhu the  Học sinh la rat tot    Tham gia ngày: Apr 2006 moi nguoi cung dong gop se lam cho tieng viet ta  Bài gởi: 35  ngay cang chuan xac va phong phu hon Xin cảm ơn: 48 nhung noi gi thi noi nha giao nguyen lan van la mot  Được cảm ơn 33 lần trong 19  bài  nguoi dang duoc moi nguoi kinh trong vi tinh than lam  viec khong biet met moi Bạn chú ý viết tiếng Việt có dấu khi tham gia thảo   luận, tên riêng của người ví dụ như nhà giáo Nguyễn   Lân cần viết hoa. SBC!    taminhchau Xem hồ sơ Gởi nhắn tin tới taminhchau Find More Posts by taminhchau   #3  08­08­2006, 10:54 AM  lethanhtung08  Đâu phải vì tinh thần làm việc không biết mệt mỏi mà có quyền viết  Thành viên mới càn, làm càn. "Thầy giáo sai giết chết cả một thế hệ". Hậu qủa sẽ thế    Tham gia ngày: Jul 2006 nào nếu con em chúng ta đọc, hiểu, và có cùng suy nghĩ như những  Bài gởi: 4  giải thích sai sót đó. Hơn nữa, đã sai tại sao khi tái bản vẫn không sửa  Xin cảm ơn: 0 ? Thanked 2 Times in 1 Post     lethanhtung08 Xem hồ sơ Gởi nhắn tin tới lethanhtung08 Find More Posts by lethanhtung08   #4  20­08­2006, 06:22 PM  lgacb  Thành viên mới [quote=lethanhtung08;15561]Đâu phải vì tinh thần làm việc không    biết mệt mỏi mà có quyền viết càn, làm càn. "Thầy giáo sai giết  chết cả một thế hệ". Hậu qủa sẽ thế nào nếu con em chúng ta đọc,  hiểu, và có cùng suy nghĩ như những giải thích sai sót đó. Hơn nữa,  đã sai tại sao khi tái bản vẫn không sửa ?[/QUOTE   Tham gia ngày: Aug 2006 Bài gởi: 28  xin bạn đừng nhận xet nhà giáo nguyễn lân nặng lời như vậy. Xin cảm ơn: 55 Được cảm ơn 807 lần trong 21 bài  ông là 1 trí thức vĩ đại đã đào tạo không biết bao nhiêu nhân tài cho  đất nước.các con của ông (hơn 10 người cả dâu rể)đều là những  giáo sư nổi tiếng trong rất nhiều lĩnh vực quyển từ điển này rất đồ sộ,việc biên soạn công phu,tuy nhiên khó  tránh khỏi sai sót tất nhiên với những đóng góp trên đây lần tái bản sau chắc sẽ sủa  chữa lại chỉ có điều cụ Nguyễn Lân đã mất,nếu còn sống chắc cụ rất mừng  và biết ơn người đã phát hiện lắm    lgacb Xem hồ sơ Gởi nhắn tin tới lgacb Find More Posts by lgacb   #5  05­01­2007, 03:48 PM  Ca_kiem  Trên trang talawas.org cũng có bài viết liên quan đến mấy cuốn từ điển của  Học sinh nhà giáo Nguyễn Lân. Đem lên đây để các bác đọc chơi.   Tham gia ngày: Dec 2006 Bài gởi: 52  Nguyễn Hữu Năng Xin cảm ơn: 121 Hai quyển từ điển có hại và hiện tượng Nguyễn Lân Được cảm ơn 637 lần trong  34 bài  Đọc bài “Hai quyển từ điển rất có hại cho Tiếng Việt” của tác giả Lê Mạnh  Chiến (LMC) trên báo điện tử talawas từ ngày 18/3/2005 đến ngày  30/3/2005, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên vì hai quyển từ điển ấy đều do  Nhà giáo nhân dân Gs Nguyễn Lân, một học giả hàng đầu trong lĩnh vực  Tiếng Việt, biên soạn. Vì vậy chúng tôi phải đối chiếu bài báo với cuốn Từ  điển từ và ngữ Hán Việt của Nguyễn Lân do Nhà xuất bản Từ điển Bách  khoa ấn hành năm 2002, đúng như ông LMC đã chỉ rõ. Cuốn từ điển này đã được ấn hành bốn lần trở lên: * Năm 1989, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh xuất bản lần đầu tiên * Năm 1999, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản * Năm 2002, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa in lại * Năm 2003, Nhà xuất bản Văn học in lại. và có thể còn được in một số lần khác nữa ở các nhà xuất bản khác. Sau  khi đối chiếu cẩn thận, chúng tôi cảm thấy Từ điển từ và ngữ Hán Việt của  ông Nguyễn Lân quả thật đã mắc quá nhiều sai lầm đúng như ông LMC đã  vạch ra. Phải thừa nhận rằng ông LMC đã tốn nhiều công phu, lý giải chặt  chẽ và thể hiện tinh thần trách nhiệm cao với bài viết của mình. Chúng tôi  khâm phục sự táo bạo của ông, vì đã phải vượt qua đoạn đường nhiều bất  trắc với những rào cản kiên cố, cao ngất, để rung một hồi chuông báo động  đối với công chúng. Một quyển từ điển không dày mà nếu chỉ có trên dưới một chục từ sai lầm  thì đã nên xét lại, huống hồ đó là hai trăm từ bị giảng sai nghiêm trọng như  ông LMC đã chỉ ra, con số này là quá lớn. Mọi người Việt có trình độ học  vấn bình thường trong thế kỷ 21 này đều không thể chấp nhận một quyển  từ điển về tiếng Việt mà lắm sai lầm đến thế. Chúng tôi rất khó hình dung  nổi tại sao lại xảy ra hiện tượng kỳ lạ đến như vậy ở đất nước ta? Một đất  nước mà không ít người vẫn thường tự hào về nền văn hóa lâu đời giàu  truyền thống, về sự chỉ đạo sáng suốt, về sự quan tâm hết sức của các  ngành, các cấp, lại trong bối cảnh có tới hơn ba mươi năm thống nhất và ổn  định để xây dựng và phát triển. Vậy, điều phi lý kia bắt nguồn từ đâu? Có lẽ  việc này còn phải để các chuyên gia mổ xẻ. Trong phạm vi bài này, chúng  tôi chỉ muốn nêu thêm vài ý kiến về các quyển từ điển của Nguyễn Lân và  một số việc liên quan đến chúng. Nếu các thầy giáo và cô giáo cứ theo từ điển của Gs Nguyễn Lân rồi dạy  con cháu chúng ta rằng, trong câu thơ “Gác mái, ngư ông về viễn phố” của  Bà huyện Thanh Quan thì phố là chỗ bán hàng (thực ra, ở đây, phố nghĩa  là cửa biển), và viễn phố là nơi ở xa (đúng ra là cửa biển xa), hoặc giảng  rằng trong hai câu thơ “Sang nhà cha, tới trung đường, Linh sàng bài vị thờ  nàng ở trên” của Nguyễn Du, linh sàng là giường thờ người mới chết chưa  đem chôn (thực ra là cái bàn nhỏ tượng trưng cho chỗ nằm của người mới  chết chưa hết tang, trên đó có bài vị, đặt cạnh bàn thờ), thì các thi nhân ấy  phải dở khóc, dở cười và khó tha thứ cho sự dốt nát quá mức như vậy. Vậy  mà các cuốn từ điển này còn được các giáo sư Lê Trí Viễn và Vũ Khiêu ca  ngợi bằng những lời giới thiệu tuyệt vời: “Nó sẽ là một công cụ tra cứu rất  quý không thể thiếu được với bất kỳ ai” (Lê Trí Viễn, trong lời giới thiệu ở Từ  điển từ và ngữ Hán Việt), “một tác phẩm rất có giá trị mà cả xã hội đang  mong đợi…” (Vũ Khiêu, trong lời giới thiệu ở Từ điển từ và ngữ Việt Nam).  Có lẽ chẳng cần bàn gì thêm! Điều chúng tôi không thể hiểu được là tại sao  những người chịu trách nhiệm về hai cuốn từ điển này, cho đến nay chưa  có ý kiến gì? Cứ tiêm những thứ “rất có hại” này cho đồng bào đến bao  giờ? Hay phải chờ đợi chúng cùng với các tế bào có hại khác di căn lên não  thì mới cuống lên chạy chữa và đổ cho khách quan, số mệnh, “thiên tai”? Câu chuyện về các từ điển của Nguyễn Lân cũng có thể gọi là Hiện tượng  Nguyễn Lân. Hiện tượng này cho chúng ta thấy nhiều điều đáng đau lòng  về thực trạng của nền văn hoá – giáo dục nước ta và cả của xã hội Việt  Nam nói chung, mà nguyên nhân của nó chẳng thể đổ cho hậu quả chiến  tranh hoặc nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu. Một giáo sư lâu năm chuyên về  tiếng Việt mà có trình độ tiếng Việt như vậy, một soạn giả như vậy mà lại  được xem là mẫu mực về tinh thần học tập và rèn luyện không ngừng? Ông  đã bịa ra nghĩa cho hàng trăm chữ Hán mà ông không hề biết mặt chữ, rồi  dựa vào hiểu biết sai lệch của mình để giảng giải cho có vẻ xuôi tai. Xưa  nay chưa từng có ai dám làm như vậy. Hiện tượng Nguyễn Lân là một ví dụ  cụ thể sinh động của một căn bệnh phổ biến trong xã hội Việt Nam hiện  nay: Bệnh “khiếm thị” của những người ngồi ở vị trí cao quá giá trị thật của  mình. Được ngồi ở “chiếu trên” lâu ngày, họ “quên mình” luôn, không còn  biết mình là ai. Họ nghiễm nhiên coi mình có quyền rao giảng cho người  khác ngay cả ở lĩnh vực mà họ chẳng biết gì. Họ đưa ra nhiều ý kiến cùng  những “sản phẩm trí tuệ” giả mạo mà không phải ai cũng dễ nhận ra, để lại  tai hại lâu dài cho xã hội. Nhưng họ không thể che mắt được tất cả mọi  người. Cuộc đời vốn có những quy luật nghiêm khắc. Kẻ tham lam thường  không biết dừng đúng chỗ. Nếu ông Nguyễn Lân đừng bước vào lĩnh vực từ  điển thì còn có thể giữ được đôi chút tiếng tốt. Nhưng vì quá hăng hái đến  mức “quên mình”, ông đã quyết định “góp phần nhỏ bé của mình vào sự  giữ gìn tính trong sáng của tiếng Việt và đảm bảo tính tinh xác của từ ngữ,  chúng tôi đã soạn cuốn Từ điển Từ và ngữ Hán Việt này (lời nói đầu ở Từ  điển từ và ngữ Hán Việt do ông Nguyễn Lân viết).  Hiện tượng Nguyễn Lân ra đời trong hoàn cảnh thích hợp với nó, trong một  môi trường mà người ta thường không mấy quan tâm đến những điều cốt  lõi, chỉ chuộng hình thức bề nổi của những “điển hình”, những “phong trào”.  Trong mấy chục năm qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng, các  nhân vật tai mắt không ngớt hô hào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Viêt”,  nhưng họ chỉ cố gắng làm cho ra vẻ tôn trọng di sản văn hoá của dân tộc,  sau đó đâu lại vào đấy để rồi vẫn cứ lộn xộn, thậm chí thụt lùi. Báo chí đã  từng nêu biết bao ví dụ về những thầy giáo, cô giáo đã giảng dạy hoặc các  em học sinh đã sử dụng tiếng Việt một cách ngây ngô, ngớ ngẩn. Cứ sau  mỗi kỳ thi đại học, báo chí lại trích đăng những đoạn văn lủng củng, rắc rối,  thể hiện vốn từ ngữ thô thiển, nghèo nàn và quái dị của các vị tú tài mới,  qua những bài thi đại học. Thực ra không mấy ai quan tâm thực sự đến việc  giảng dạy và học tập và sử dụng tiếng Việt một cách có trách nhiệm. Nhiều  vị quyền cao chức trọng thường hay dùng những từ ngữ có vẻ “thời thượng”  như thể đua nhau tô điểm cho bản báo cáo hoặc bài nói chuyện của mình.  Những từ như nổi cộm, bức xúc, vấn nạn, quan ngại, cứu cánh, bất cập,  v.v. thường có mặt và được nhắc lại nhiều lần trong các bài diễn văn, các  báo cáo của họ. Khó tin rằng họ đã hiểu hết ý nghĩa và cách dùng của  những từ đó. Trong tình hình như vậy, ông Nguyễn Lân liền phất cao ngọn  cờ “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, nhưng trí lực của ông có những  hạn chế như chúng ta đã biết, còn những người có trách nhiệm thì muốn  trông cậy vào ông để có thêm sản phẩm trí tuệ của thời đại. Một vài vị được  xem như những cây đa cây đề trong giới chữ nghĩa trong nước thì chưa hẳn  đã giỏi hơn ông Nguyễn Lân, họ lại còn quá quen thuộc với nếp làm ăn  kiểu phong trào, xuôi chiều, thiếu trách nhiệm, nên cũng liều lĩnh dùng “uy  tín” của mình để cổ vũ ông một cách rất hăng hái. Vì vậy, Từ điển từ và ngữ  Việt Nam đã được tái bản nhiều lần và tồn tại trong hơn mười lăm năm qua.  Nhân đà này, trong năm 2000 ông Nguyễn Lân lại cho ra thêm quyển Từ  điển từ và ngữ Việt Nam lớn hơn (gấp hai lần rưỡi) quyển trên. Người ta đã  phát hiện ra rằng, hơn 90% những cái sai ở Từ điển từ và ngữ Hán Việt đã  được chuyển sang quyển này một cách nguyên vẹn. Ngoài ra, nó còn chứa  rất nhều sai lầm khác, như chúng ta đã thấy khi ông Huệ Thiên mới “đọc  lướt” các vần A, B, C, tuy chưa thể vạch được hết nhưng đã phát hiện 117  sai lầm.Thật tai hại cho những người dùng nhầm sách của ông Nguyễn  Lân. Ai cũng biết nền giáo dục Việt Nam có nhiều vấn đề, nếu không sớm chấn  chỉnh thì làm sao thoát khỏi thế tụt hậu như hiện nay. Khi nói về hiện trạng  này, người ta bàn bạc đủ thứ nhưng không ai nói đến sự suy thoái trong  việc giảng dạy và học tập tiếng Việt, chẳng ai biết mà lên án những quyển  từ điển tồi tệ kia. Đối với mỗi người Việt Nam chân chính, ngôn ngữ mẹ đẻ  là quý giá vô cùng, nó phải được coi là một môn học quan trọng nhất, đặc  biệt là trong những năm đầu cắp sách đến trường, rồi còn phải học hỏi và  trau giồi trong suốt cả cuộc đời. Vậy mà chưa có một dự án cải cách giáo  dục nào nói đến việc chấn chỉnh chương trình dạy và học tiếng Việt. Mỉa  mai thay, khi giới thiệu về một trường đại học nọ, Đài truyền hình Việt Nam  đã trưng hình ảnh hàng chục cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn  Lân, hãnh diện khoe rằng, nhà trường đã không quản ngại tốn tiền mà  trang bị những sách quý (220 ngàn đồng/cuốn, đủ nuôi một sinh viên trong  một tháng) để tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên Việt Nam và sinh viên  nước ngoài để học tập tốt tiếng Việt! Chỉ riêng với Từ điển từ và ngữ Hán  Việt và Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, chúng tôi thấy còn  phải cùng nhau dóng thêm một hồi chuông báo động trong lĩnh vực dạy và  học Tiếng Việt. Bài “Hai quyển từ điển rất có hại cho Tiếng Việt” thể hiện tinh thần cao của  tác giả trước một tai họa đối với Tiếng Việt. Nó vừa vạch ra những sai lầm  của ông Nguyễn Lân, vừa cung cấp cho những người đọc những tri thức bổ  ích. Tác giả thường giảng giải khá tường tận và chí lý. Chẳng hạn, ở các từ  như ẩn lậu, hồn hậu, hùng hồn, tác giả cung cấp những hiểu biết thực sự  sâu sắc. Cũng một từ tố hồn mà ở các từ hồn hậu và hùng hồn, có nghĩa  tưởng như khác nhau nhưng cũng phát sinh từ cùng một nghĩa ban đầu.  Hay như ở từ hạnh kiểm, quả thật, chúng tôi chưa thấy ai cắt nghĩa được từ  tố kiểm một cách chí lý và chính xác như thế. Ở nhiều từ, nếu chỉ biết chữ  Hán thôi thì cũng không thể giảng nghĩa cho đúng vì chúng có thể còn liên  quan đến lịch sử, văn hóa của dân tộc ta hoặc liên quan đến những hiểu  biết khoa học của nhiều ngành chuyên môn. Hẳn tác giả LMC còn sửa  chữa và và bổ sung thêm nữa cho bài viết của mình, nhưng những gì ông  đã viết ra đã thực sự có tính thuyết phục. Trên tạp chí Văn hóa Nghệ An số 58, tháng 3 năm 2005, trong bài "Hoan  hô tiếng còi Lê Mạnh Chiến, độc giả B.V.C viết: "Đọc bài “Những quyển từ điển có hại cho tiếng Việt" trên Tạp chí Văn hóa  Nghệ An tháng 1/2005, chúng tôi rất đồng tình và hoan nghênh tác giả đã  “kiến nghĩa nhi vi”, thấy việc nghĩa mà (phải) làm, kịp thời giúp “thiên hạ”  tránh được những lầm lẫn đáng tiếc khi dùng những từ bị giảng không  chuẩn có trong những quyển sách được coi là công cụ để tra cứu chữ  nghĩa. Bằng những hiểu biết của mình và công phu tham khảo các tài lệu đáng tin  cậy, bài viết đã chỉ ra những chỗ sai và qua đó gợi tỏ thêm nghĩa của  những từ Hán Việt thường dùng nhưng dễ lẫn, mà sự nguy hiểm của sự  dùng lẫn ấy chẳng khác nào dùng nhầm thuốc chữa bệnh. Tuy nhiên, có một số từ, không hiểu sao, lại dẫn giải không sát với cách  thường dùng nên gây thêm rắc rối, khó hiểu, ví như độc đắc và độc đặc, lạc  quyên và lặc quyên. 1. Độc đắc: duy chỉ một được, ví dụ: trúng số độc đắc. Còn độc đặc có lẽ ít  dùng. Nếu có cũng không dính đến, không phạm đến cụm từ độc đắc nói  trên. Mấy lâu nay chúng tôi cứ hiểu từ “đắc” là được. 2. Lạc quyên: Quyên có nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa là đem tiền đi  cúng vào việc nghĩa. Lạc quyên: vui lòng đem tiền cúng… Còn lặc quyên,  ít nghe nói, cho dù, có khi sự đóng góp còn mang tính bắt buộc. Về chữ nghĩa, chuyện hãy còn dài, thật vô bờ bến. Chẳng thế mà những  cuốn từ điển hay tự điển dù lớn đến đâu cũng phải nhận trước là còn khiếm  khuyết, huống chi những bài viết ngắn. Vì chữ nghĩa, những tiếng còi cảnh  báo như của anh Lê Mạnh Chiến là hết sức cần thiết. Chúng tôi rất hoan  hô." Độc giả B.V.C đã hoàn toàn ủng hộ việc phê phán những quyển từ điển có  hại của ông Nguyễn Lân, điều đó chúng tôi rất đồng tình. Nhưng, về việc  giảng giải hai từ độc đắc và lạc quyên của ông LMC thì chúng tôi thấy  không có gì là “không sát với cách thường dùng nên gây thêm rắc rối, khó  hiểu” như độc giả B.V.C nói cả. Đơn giản là tác giả LMC phải đưa ra  nguyên gốc của hai từ trên trong tiếng Hán (là độc đặc và lặc quyên) chỉ để  giải thích cho được chính xác ý nghĩa của hai từ đó, bởi vì chữ Hán vốn là  như thế, Tất nhiên là từ gốc thì nay đã biến âm nên không nghe nói tới mà  thường chỉ dùng các từ đọc chệch đi của nó là độc đắc và lạc quyên mà  thôi. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh hay của Nguyễn Quốc Hùng (xuất  bản ở Sài Gòn năm 1975) cũng xác nhận từ lặc quyên. Hiện tượng biến âm  trong tiếng Việt xảy ra khá nhiều. Trong hai ví dụ nêu trên, cách diễn giải  của ông LMC đã rõ ràng, đầy đủ và đúng đắn. Trên tạp chí talawas, số ra ngày 23/3/2005, độc giả Toàn Thắng (TT) có  viết bài “Đôi lời góp ý với ông Lê Mạnh Chiến”. Ông TT góp ý kiến với ông  LMC về hai từ cấm cung và bộ đội và phân tích về các sắc thái sử dụng  của hai từ này trong tiếng Việt hiện nay. Có lẽ vì ông TT chưa đọc kỹ bài  của ông LMC nên đã góp ý không đúng chỗ. Mục đích của bài viết của ông  LMC chủ yếu là tập trung lý lẽ để vạch ra những chỗ sai của ông Nguyễn  Lân khi ông này giải thích sai nghĩa của các từ ngữ và các từ tố gốc Hán,  có hại cho việc học hỏi tiếng Việt, chứ ông LMC không bàn đến việc diễn  giải nghĩa đã biến dị khi đi từ gốc Hán sang cách dùng của người Việt hiện  nay. Trong từ cấm cung, ông Nguyễn Lân đã nhầm lẫn các nghĩa của từ tố  cấm (là giam hoặc chỗ vua ở) nên không xác định đúng nghĩa chính của từ  cấm cung, mà lại giải thích lệch sang nghĩa đã biến đổi, rất xa nghĩa gốc.  Ông LMC phê phán ở chỗ đó. Ông TT đã bàn rộng và xa mục đích này,  hơn nữa khi nói “người soạn từ điển” tức là nói tới tác giả cụ thể của quyển  từ điển này, tức ông Nguyễn Lân trong trường hợp rất cụ thể là Từ điển từ  và ngữ Hán Việt. Nếu hiểu là tất cả người soạn từ điển thì lại là chuyện  khác.Vì vậy, sự góp ý của ông TT có phần lạc đề. Trong từ điển này, ông  Nguyễn Lân đã giải các nghĩa của từng từ tố trong mỗi từ rồi sau mới định  nghĩa cho cả từ đó. Với từ bộ đội cũng vậy, ông Nguyễn Lân đã không biết  rằng theo sách báo Trung Quốc lâu nay thì trong từ bộ đội, từ tố bộ có  nghĩa là đơn vị biên chế quân sự cổ đại, mà về sau được dùng để chỉ quân  đội nói chung, khác với từ bộ có nghĩa là bước. Do đó bộ đội cũng là quân  đội mà thôi. Tuy nhiên trong tiếng Việt hiện nay, từ bộ đội thường mang một  vài sắc thái khác với từ quân đội, đúng như ông TT đã phân tích. Nhưng  điều này là nằm ngoài phạm vi mà ông LMC bàn đến. Chúng tôi cho rằng khi góp ý kiến, phê phán về vấn đề rất hệ trọng này,  chúng ta cần phải rất cẩn thận, phải đọc cho kỹ, phải nghiền ngẫm thấu  đáo để không cản trở bước đường đi tìm kiếm lẽ phải vốn đã vất vả và đầy  chông gai này.
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net