Nhạc sĩ TRỊNH CÔNG SƠN và quê quán tôi xưa
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có quê quán tại làng Minh Hương, ngoại ô Huế - điều đó ai cũng biết. Làng Minh Hương thành lập cách đây khoảng chừng 3 thế kỷ ở hạ lưu sông Hương. Làng này do một số cựu thần nhà Minh vì không chịu nổi ách thống trị của nhà Mãn Thanh đã dùng thuyền vượt biển sang tị nạn và được chúa Nguyễn chấp thuận cho lập nên một ngôi làng làm quê quán ở Huế, gọi là Minh Hương....
Nhạc sĩ TRỊNH CÔNG SƠN và quê quán tôi xưa
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có quê quán tại làng Minh Hương, ngoại ô Huế - điều đó ai cũng biết.
Làng Minh Hương thành lập cách đây khoảng chừng 3 thế kỷ ở hạ lưu sông Hương. Làng này
do một số cựu thần nhà Minh vì không chịu nổi ách thống trị của nhà Mãn Thanh đã dùng
thuyền vượt biển sang tị nạn và được chúa Nguyễn chấp thuận cho lập nên một ngôi làng làm
quê quán ở Huế, gọi là Minh Hương. Những ngôi làng Minh Hương ấy cũng có tại Hội An, nhiều
tỉnh ở Nam Bộ và dân làng những nơi đó đã ứng xử với người Việt như là người cùng một Tổ
quốc, nòi giống. Trịnh Công Sơn là hậu duệ nhiều đời của những người Minh Hương ấy. Nhân
vật xa xôi nhất và nổi tiếng trong sử sách là Trịnh Hoài Đức, tác giả sách Gia Đinh thành thông
chí. Nhiều lần ngồi chơi với Sơn tôi đã lặng lẽ quan sát, và quả tình không hề thấy chút dấu vết
gì tỏ ra là ý thức Hán tộc ở nơi Sơn, Sơn hoàn toàn là một nghệ sĩ Việt Nam như tôi đã biết.
Làng Minh Hương ngày nay có một cồn cát ở giữa sông. Làng vừa đào được dưới cát lên một
chiếc nghiên mực bằng đá, thuật phong thủy cho rằng làng rồi đây sẽ có nhiều người đỗ đạt.
Ngay thời điểm Cách mạng Tháng Tám, theo dân làng kể lại, chỉ tính ở các tỉnh phía Nam có hai
ông đậu thạc sĩ, thì cả hai đều là người làng Minh Hương này : ông Trần Vỹ, nguyên Bộ trưởng
Bộ Y Tế và ông Ngụy Như Kon Tum, tốt nghiệp sư phạm ở Pháp và là Hiệu trưởng đầu tiên của
Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội. Và bây giờ có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Dân làng rất tự hào
có Trịnh Công Sơn và sẵn sàng xếp Sơn vào hàng các vị khoa bảng ấy.
Ngày thường khi giao du với Sơn, tôi ít nghe nói về làng quê của Sơn. Trong hàng trăm bài hát
của Sơn, người ta cũng ít nghe Sơn nói về nguồn cội của mình; "chỉ biết rằng mình người Việt
Nam là đủ".
Ta vui chơi giĩta đời
Ối a, biết đâu nguồn cội
Thế nhưng có một đôi lần, Sơn đã hé cho thấy một cõi yên lành và Sơn nói Sơn nhớ nhà. Bên
đời hiu quạnh là một bài hát rất lạ; lạ vì tình cảm nhớ nhà ấy được nói đến bằng giọng quay
quắt, như thể nói tới một cái gì thiêng liêng và đã mất trong đời.
Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
Tiếng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ
Nhiều người cho rằng chữ "quê quán" này chính là khi đúng làng Minh Hương của tác giả. Theo
tôi, điều đó cũng không hoàn toàn sai, nếu người la chỉ nói đến "mảnh đất trần gian" của Trịnh
Công Sơn. Để nhất quán với tư duy của Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ rằng vấn đề cần được đẩy đi
xa hơn. Chúng ta biết rằng "mảnh đất trần gian" này (làng Minh Hương) không dáng để Trịnh
Công Sơn bận tâm đến thế, Sơn thuộc về toàn phần "bông lông xã - ba la huyện". Đây đó trong
nhạc của Sơn, người ta vấp phải ý tưởng "quê quán" như vấp phải một hòn đá giữa chừng câu
hát buồn.
Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
Hoặc là :
Nghe tiền thân về chào tiếng Iạ
Những mai hồng ngồi nhớ thiên thu
Vậy thì, thử xem "quê quán tôi xưa" trong nhạc Sơn là ở đâu ?
Tất cả âm nhạc của Trịnh Công Sơn được dùng để minh họa một địa chỉ của tác giả trên hành
tinh này, được gọi là "cuộc đời". Nơi đây, luôn thấp thoáng hình bóng những đóa hoa phù dung,
lá bay mùa thu và những bước chân lang thang của con người đi tìm hạnh phúc. Đây chính là
nơi cư ngụ của tác giả mà chính Sơn vẫn coi là "cõi tạm". Thế giới ấy đẹp và buồn giống như
được in hình bên một chiếc bong bóng xà phòng. Qua nhiều bài hát của Sơn, người ta cũng xác
định được bản chất của thế giới ấy, bằng cách chăm chú nhìn vào cốt lõi của những từ ngữ,
như là mong manh, tàn phai, đơn côi...
Đối diện với thế giới ấy, người ta thấy thoáng hiện một thế giới nguyên vẹn, bất biến vĩnh
hằng... như thể Sơn đã cư ngụ bên trong một chiếc vỏ khô của ve sầu và miên man nhớ về mùa
thu.
Rõ ràng có hai thế giới hiện bóng trong nhạc Trịnh Công Sơn và theo tác giả, cái này là cội
nguồn của cái kia - "tìm thấy em dưới châncội nguồn".
Giữa hai thế giới đó vẫn luôn hiện lên hình ảnh của Mặt trời, Mặt Trời như nguồn sáng của chân
lý, rọi bóng xuống trần gian thành hình ảnh những "ngày nắng". Mặt trời được tác giả âu yếm và
tin cậy, đôi khi dưới ánh sáng của nó, tác giả nhìn thấy thấp thoáng hình bóng "quê hương hình
nhi thượng" của mình.
Dù thật lệ rơi, lòng không buồn mấy
Giật mình nhìn ra, ồ nắng lên rồi
Thế nghĩa là Trịnh Công Sơn đã bị bắt quả tang đang ngồi nhớ "vườn địa đàng". Cõi trần gian,
với tất cả những biểu hiện nhiều màu sắc luôn luôn được Trịnh Công Sơn đem thuật lại với một
cô gái nào đó biết chăm chú nghe chàng, làm thành "tình ca Trịnh Công Sơn", vì thế không trách
người ta quở rằng tình ca Trịnh Công Sơn nghe buồn; thực ra thì toàn bộ tình ca ấy được xây
dựng bằng những liên tưởng siêu hình học. Siêu hình học nào mà chẳng buồn. Vào thời điểm
của tác giả, thì đó là siêu hình học của Heidegger cảm hứng từ huyền thoại về sự sa đọa
(Mythe de la Chute) của kinh Cựu ước. Ta còn nhớ một cuốn phim A llest Déden chuyển thể từ
một cuốn tiểu thuyết của J. Steinbeck do tài tử điện ảnh nổi tiếng James Dean đóng vai chính,
tài tử này rất được Sơn ngưỡng mộ (xem hồi ký Đinh Cường).
Không nghi ngờ gì nữa, có hai thế giới trong âm nhạc Trịnh Công Sơn, hai thế giới lồng bóng
vào nhau, thế giới trên gồm những vẻ đẹp vĩnh hằng, toàn mỹ, mà Sơn gọi là thiên thu hay gọi
là "vườn địa đàng" : Địa đàng còn in dấu chân bước quên
Và thế giới dưới, chính là thực tại. Tác giả đã tỏ ra chấp nhận thực tại. Với thế giới siêu trần thế,
tác giả biết là nó có đấy, nhưng không thể biết rõ về nó. Nhưng đồng thời Trịnh Công Sơn cũng
thừa nhận rằng thực tại này cũng chỉ là "cõi tạm" và cuộc lưu trú của Sơn trong thế giới ấy chỉ là
một cuộc lưu đày. Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây
Và luôn luôn nhớ tiếc nơi "quê quán tôi xưa". Cõi tiên không gì khác hơn là khát vọng hằng có
nơi người nghệ sĩ của muôn đời. Người đời sau, kể từ Thôi Hiệu, Lý Bạch, Tào Đường, đến
Levitan (bức tranh Chốn im lặng vĩnh hằng), Văn Cao và bây giờ là Trịnh Công Sơn, tất cả đều
là căn bệnh truyền kiếp của truyện Từ Thức, ở đó nòi nghệ sĩ luôn coi mình là trích tiên (tiên bị
lưu đày nơi trần thế) cùng với nỗi ăn năn đã sinh ra ở đời.