logo

Người Việt - Phẩm chất - Thói hư tật xấu

Thực tế đã chứng minh rằng người Việt Nam thông minh không kém bất kỳ người nước nào trên thế giới. Cái khôn tích cực, đáng để ca ngợi phải gắn liền với lợi ích của dân tộc và cộng đồng. Ngược lại, cái khôn sẽ trở nên gian dối và cao hơn sẽ là “thủ đoạn”, sẽ không được xã hội chấp nhận. Như gian dối trong thương mại, cố ý cân, đong, đo, đếm không chính xác, cố ý tráo hàng, làm tăng trọng nhưng giảm hoặc biến chất hàng hóa…...
Thứ Sáu, 15/12/2006, 07:43 Khôn quá… hóa dại và… TP - Thực tế đã chứng minh rằng người Việt Nam thông minh không kém bất kỳ người nước nào trên thế giới. Cái khôn tích cực, đáng để ca ngợi phải gắn liền với lợi ích của dân tộc và cộng đồng. Ngược lại, cái khôn sẽ trở nên gian dối và cao hơn sẽ là “thủ đoạn”, sẽ không được xã hội chấp nhận. Như gian dối trong thương mại, cố ý cân, đong, đo, đếm không chính xác, cố ý tráo hàng, làm tăng trọng nhưng giảm hoặc biến chất hàng hóa… Khi mua cá ở chợ, người mua thuê người bán làm cá. Người bán đã tráo cá lớn thành cá bé, nhiều con thành ít con; Trước đây người bán thường cân non (cân thiếu) với thao tác nhanh nhằm qua mắt người mua. Khi mọi người cảnh giác tốt hơn, ngày nay người bán lại cố ý điều chỉnh cân đĩa cho non vài vạch. Vì thường khi chưa đặt hàng hóa, thực phẩm lên đĩa để cân thì người mua hiếm khi kiểm tra cân và “điêu luyện” hơn, để tránh sự kiểm tra của người mua hàng về độ chính xác của cân, người bán hàng thường cầm đĩa cân ra khỏi cân, viện lý là để hứng nhận thực phẩm, hàng hóa từ tay người mua lựa chọn, sau đó mới đặt lên cân. Khi cân thì kim đồng hồ cân đĩa vẫn chỉ đúng vạch hẳn hoi… Trước đây có lúc, có vài nơi khi tôm xuất khẩu có giá cao thì lấy đinh, kẽm “lụi” vào tôm, tiêm Agar vào tôm để tăng trọng. Lúc hồ tiêu cao giá thì trộn hạt gòn vào để xuất khẩu… Khi bị “phát giác” thì bị hủy hợp đồng mua bán, hàng hóa ứ đọng, tuột giá và thậm chí phải bồi thường hợp đồng thế là mất… Vì khôn quá… hóa hại! Đó là những thủ đoạn, những gian lận điển hình trong thương mại cần được lên án. Nước ta đã là thành viên thứ 150 của WTO, vấn nạn trên cần khắc phục triệt để. Bệnh cẩu thả do thiếu trách nhiệm và hạn chế về nghiệp vụ của một số cán bộ xã phường. Họ và tên người nói riêng và nhân thân của một người, nói chung, phải có sự thống nhất và cố định, vì nó có quan hệ trực tiếp đến những bằng cấp, chứng chỉ cũng như sự trưởng thành và tiến thân của mỗi người. Thực tế ở nhiều địa phương, khi chuyển đổi hộ khẩu, lập bản sao khai sinh… cho công dân, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có sự cẩu thả (có thể, một phần do trình độ chuyên môn còn giới hạn nên chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm), cán bộ trước viết chữ ẩu “hơn Bác sĩ”, cán bộ sau đọc không được rồi lại tiếp tục viết chữ ẩu “hơn Bác sĩ”… Kết quả, đã làm sai lệch ngày, tháng, năm sinh và họ tên… của một số người (Nguyễn Văn Hen thành Nguyên Văn Hên, Long thành Lòng, Chư thành Chủ…) chỉ cần bị một sai lệch nhỏ (sai một dấu trong họ, tên hoặc sai một số trong ngày, tháng, năm sinh), nếu người dân phát hiện muộn thì việc điều chỉnh sẽ phiền phức vô cùng. Thanh Hùng Thứ Bảy, 16/12/2006, 15:29 Từ cày chìa vôi đến computer TP - Hình ảnh “con trâu đi trước cái cày theo sau” đang mờ dần trong mắt các bạn trẻ. Nhưng cái cày chìa vôi với nghĩa đen là công cụ canh tác cổ xưa nay là công cụ, máy móc, kỹ năng làm việc theo nghĩa bóng hầu như không thay đổi nói gì đến thay thế ở người Việt mình. Nói ngắn gọn, sang thế kỷ 21, không ít người vẫn làm việc, thao tác “chay” hoặc thiếu công cụ, máy móc thô sơ như vài chục năm về trước! Ngay ở tầm quốc gia, dù không thiếu tiền, ngành xăng dầu vẫn dùng máy kiểm tra cổ lỗ sỹ thời Liên Xô nên không thể đo được aceton quá liều lượng cho phép trong xăng... Không rõ thực hư thế nào, nhưng ông bạn tôi ở ngành Cổ sinh học bảo nhiều GS đại học không biết dùng điện thoại di động, riêng máy vi tính theo một cuộc điều tra có đến 51% cán bộ giảng dạy đại học không sử dụng. Lười, không có tiền mua hay quen “dạy chay” (đọc - ghi) hay quen xin, được biếu. Một ông trị sự tạp chí đầy ắp thông tin, nhiều cây đa cây đề viết vẫn phải cầu cứu các ông chủ doanh nghiệp mua cho để phát, biếu... Chương trình tin học hóa nơi nơi, cơ quan, xí nghiệp nào cũng san sát máy vi tính nhưng chủ yếu đánh văn bản, chới game và buôn chuyện. Với điện thoại di động cũng vậy! Những quốc gia giàu có, văn minh phát triển coi chất xám là thứ quý nhất vì sinh lợi nhiều nhất, đất đai chẳng là thứ gì. Ở họ, cái đầu lại nối với computer và nối kết với nhau trong thế giới phẳng thay vì cái đầu của nhiều thanh niên ở xứ ta. Kể ra cũng thông thái chẳng kém ai nhưng vẫn trơ cái nắm tóc hay trọc nhẵn theo mốt, đã thế khi trang bị “hoành tráng” lại vẫn không nối kết với nhau... trong khi không tiếc tiền thay dàn loa, con xe hay bộ xa lông đang mới cứng để tỏ ra “sành điệu”. Nghèo chơi sang đi một lẽ. Vô lý đùng đùng, giàu lại chơi trội khoe của, sắm ôtô cả triệu đô, đến tỷ phú Mỹ cũng trố mắt. Thời đại hội nhập, muốn xóa đói giảm nghèo tiến lên thịnh vượng, phải sắm sửa “chăm sóc” công cụ, máy móc, công nghệ, từ cái gọt bút chì, máy tính cá nhân, cờ lê mỏ lết,... đến computer là vì thế. Cơ bắp (vai u thịt bắp) giỏi lắm, cần cù, lam lũ đến mấy cũng chỉ đủ ăn thôi. Công cụ mới, hiện đại chỉ là đồ trang trí nếu con người không học sử dụng, nâng cao kỹ năng, rèn thói quen mới. Đức Úy Chủ Nhật, 17/12/2006, 11:05 Tư duy tổng hợp TPCN - Trên báo Nhân Dân ngày 26/11/2000, ông Tố Hữu kể, năm 1965 Bác Hồ và Trung ương Đảng cử ông vào Quảng Bình, Vĩnh Linh: “Trước khi tôi lên đường, Bác gọi đến hỏi: “Chú vô định làm gì?”. “Thưa Bác, cháu hiểu mọi việc đều do Đảng lãnh đạo. Đảng có vững mạnh mới đoàn kết được nhân dân kháng chiến”. Tôi nghĩ Bác đang “sát hạch” mình, nên trình bày đủ các vấn đề, từ nhiệm vụ của tổ chức Đảng, của đảng viên, tư cách đạo đức cán bộ, phương pháp công tác ra sao… Nghe một chặp, Bác bảo: “Sao chú nói dài thế!”. Tôi mạnh dạn: “Thưa Bác, làm thế có được không ạ. Xin Bác cho ý kiến”. Bác cười: “Ô hay, sao chú lại hỏi tôi? Hỏi dân ấy! Dân mới đánh giá được ai giỏi ai không, mới hiểu được cán bộ có gương mẫu, sinh hoạt lành mạnh không. Chú về mà hỏi bà con ấy”. Ông Tố Hữu vào Quảng Bình, Vĩnh Linh lắng nghe dân đã biết ai có công, ai bè phái từ đó củng cố tổ chức vững mạnh. “Hỏi dân, nghe dân” là lối tư duy tổng hợp từ thực tiễn. Trong nhiều diễn đàn long trọng hiện nay, cả không ít cuộc “hội thảo khoa học”, vẫn thường nghe những ý kiến phân tích một vấn đề nào đó rất giỏi. Tuy nhiên, phân tích hài hước mà nghiêm túc, dài dòng mà say sưa thì ai bằng được các bà nhà quê ngồi lê đôi mách chuyện hàng xóm, thể hiện tình yêu thương hay sự ghen tỵ của các bà? Hoặc anh thợ thủ công phân tích sản phẩm của anh mà mỗi đường nét đã gắn với cảm xúc, thậm chí là bí quyết gia truyền, sản phẩm như đứa con tinh thần, anh yêu quý hơn mọi sản phẩm cùng loại của người khác. Những phân tích như thế thường kém sự liên hệ rộng và sâu ra bên ngoài nên dù sắc sảo vẫn kém lôi cuốn, lại sẵn định kiến cá nhân nên thiếu mục đích cao cả, ít có giá trị với người khác. Tư duy sản xuất nông nghiệp theo kinh nghiệm, thợ thủ công coi trọng bí quyết gia truyền, thân phận nô lệ cam chịu thuần phục và cả thời bao cấp quen chờ chỉ đạo của cấp trên đều là lối tư duy thiếu chủ động sáng tạo. Tất cả gần với tư duy bảo thủ, phát triển khả năng phân tích để bảo vệ quan điểm sẵn có, để tự vệ, xa lạ với tư duy tổng hợp để rút ra những kết luận mới mẻ, tạo sức sống mới mẻ. Tư duy phân tích vì thế thường lúng túng, yếu ớt ở các thời điểm có tính bước ngoặt, trong lịch sử lâu dài dân tộc ta đã bao lần bị đẩy đến chân tường, phải quyết liệt vùng lên thoát khỏi tư duy lạc hậu để thoát ách nô dịch. Tư duy phân tích nói chung đi sau cuộc sống. Tư duy tổng hợp thực tiễn (chứ không phải trong các phòng họp) là tư duy đi trước cuộc sống, luôn đổi mới, sẵn sàng để không bị động trước cuộc sống. Đó dường như cũng là tư duy cần có của người Việt thời hội nhập! Sáu Nghệ Thứ Ba, 19/12/2006, 08:06 Từ chuyện thầy Min Đơ, Min Toa... TP - Hà Nội thuộc Pháp, các Đơ, Min Toa (*) không ngại mặc quần soóc đạp xe đi khắp nơi xử phạt đái đường… Hà Nội ngày nay đang bỏ phí một nguồn thu đáng kể. Giải quyết đúng nơi quy định chỉ mất 500đ. Thế mà vẫn còn nhiều chuyện tế nhị... đằng sau! Người Hà Nội ai chẳng nhiều lần qua gầm cầu Long Biên, lên đường đê Yên Phụ. Con đường một chiều rộng, thoáng, đẹp, nhưng người xe chỉ lưu thông trên một nửa. Nửa còn lại về phía bên phải - luôn dành ghi dấu vết sẫm màu của những dòng nước... đổ dài từ chân khắp các cột đèn đường. Nếu du khách nước nào cố ý tọc mạch về những dòng nước “hóa thạch” này, tôi gợi ý quý bạn đọc kể một câu chuyện: Vùng này người ta nuôi nhiều chó to. Sáng cũng như chiều, chúng được dẫn đi dạo trên con đường này… Hai bên hông Cung Văn hóa Hữu Nghị (phố Trần Bình Trọng và Yết Kiêu), chân tường cũng có những dấu vết tương tự nhưng phân tán, vì ở đây không có cột đèn. Từ khi dãy quán cà phê mọc lên, cùng các bãi trông xe hình thành thì về ban ngày hiện tượng đái bậy chắc không còn nữa, nhưng những dấu vết chưa có ý định nhạt phai. Còn ở đâu nữa nhỉ? Khắp nơi (cứ phải nhắc đến tên những con phố mang tên danh nhân không tiện tí nào)! Có lần vừa bước ra khỏi cổng cơ quan, giật mình vì một chị bỗng… nhô lên từ dưới cống nước lộ thiên (đang mùa cạn). Có lần thấy cảnh hai cụ ngồi đánh cờ thanh tao trên bãi cỏ trong khuôn viên Văn Miếu, tôi giơ máy chụp. Về phóng ảnh to lên, mới thấy trên bức tường hậu cảnh hiện dòng chữ “Cấm ỉa bậy”! Lại nhớ đến tường bao miếu Văn về phía Nguyễn Khuyến trước đây dích dắc tạo thành góc vuông… “Lợi tiểu” đến độ người ta đã phải nắn lại cho thẳng, những mong các “tiểu nhân” chỗ khác cho! Trong một tiết mục hài đề cập chuyện này, diễn viên hỏi giùm: Đã quay mặt vào trong còn bảo không lịch sự à? Thực tế không phải lúc nào cũng như vậy. Chẳng hạn, tường ở đây lại là tường hoa sắt bao quanh công viên Thống Nhất; còn cột điện không phải lúc nào cũng bên đường, mà lại trên dải ngăn cách; đi xuống sông nhưng bên này lại là đường Láng... Trên những phố phường thủ đô, các thủ phạm đái bậy đang là đối tượng được tôn trọng “quyền riêng tư”! Hà Nội là trung tâm của cả nước. Đây là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng tính tình của người Việt Nam. Cái hay phô bày đã đành, cái dở vẫn phô bày trước thiên hạ... Thế nên mới có chuyện bác nông dân buồn lắm rồi nhưng vẫn phải vác cái phần dưới về tới đất nhà mình mới tuôn ra. Hà Nội là thành phố từ bao giờ, nhưng cho đến những năm cuối thế kỷ XX, vẫn còn hố xí đổ thùng - mang ra ngoại thành bón ruộng được. Hà Nội thuộc Pháp còn các thầy Min Đơ, Min Toa(*) không ngại mặc quần soóc đạp xe đi khắp nơi xử phạt đái đường… Hà Nội ngày nay đang bỏ phí một nguồn thu đáng kể. Giải quyết đúng nơi quy định chỉ mất 500đ. Tìm một quán nước có toa lét giải quyết mất khoảng 5.000đ lại được uống trà chanh. Còn nếu muốn bậy cứ nộp vào công quỹ 500.000đ– những người buồn... dọc đường sẽ tự tìm ra giải pháp thích hợp. Giải pháp tham khảo dành cho người đi đường: Các hàng quán ở khu vực phố cổ đã quen với việc ông Tây khoác ba lô từ nghìn dặm đến lịch sự xin vào thẳng phần phụ. Tầng lớp công chức cũng chẳng ngại, khi nào buồn họ chỉ cần tạt vào một khách sạn 4-5 sao gần nhất (chính thế mà không phải khách sạn to nào cũng miễn tiền gửi xe!). Thiên Hà Thủy (*) Hai nhân vật cảnh sát trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Thứ Tư, 20/12/2006, 06:29 Nghĩ lại một chút về bình đẳng giới TP - Sự bình đẳng là do nhận thức đem lại. Nhiều phụ nữ đi làm có thu nhập cao, thậm chí còn cao hơn của chồng nữa nhưng vẫn bị chồng coi thường, phụ bạc... Những người đi Nhật về thường kể rằng đa số ở đây phụ nữ sau khi lấy chồng thì không đi làm nữa dù có bằng tiến sĩ, chỉ ở nhà bếp núc và nuôi dạy con cái. Người ta cũng kể rằng khi cùng đi với chồng, phụ nữ thường lái xe, bê xách hành lý. Có khách đến nhà, vợ đem trà hoặc thức ăn lên chứ quyết không ngồi tiếp khách với chồng… Cũng hơi kỳ. Thì phong tục của Nhật là như vậy, người Ảnh minh đàn bà Nhật vốn nổi tiếng về sự chu đáo với chồng con họa:www.vneconomy.com.vn “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”. Những chuyện như lái xe đưa chồng đi chơi, bê xách hành lý… có lẽ ta chả nên bắt chước, nhưng chuyện thôi đi làm để ở nhà chăm sóc chồng con, ở vào thời nay, cũng cần tham khảo. Ở thế kỷ trước người ta thường cho rằng sự bất bình đẳng nam nữ nguyên do là bất bình đẳng về kinh tế, người vợ không làm ra tiền nên phải chịu lệ thuộc vào người chồng, vì thế muốn có bình đẳng với nam giới thì nữ giới cũng đi làm, có thu nhập riêng. Thực tế các gia đình trong điều kiện văn minh phát triển cho thấy vấn đề không hoàn toàn ở lý do kinh tế. Hạnh phúc gia đình trước hết phải được xây dựng trên cơ sở tình yêu. Sự bình đẳng là do nhận thức đem lại. Nhiều phụ nữ đi làm có thu nhập cao, thậm chí còn cao hơn của chồng nữa nhưng vẫn bị chồng coi thường, phụ bạc, ngược lại có người hầu như chẳng làm được gì, thậm chí lại còn ốm đau bệnh tật thế mà vẫn được chồng hết sức thương yêu, chiều chuộng. Không thiếu anh chồng vin vào lý do “lo việc đại sự” để suốt ngày lê la ở quán rượu, hàng bia, cà phê, nước chè… để kệ vợ bươn chải nhặt nhạnh gom góp từng đồng. Không thiếu người mẹ để lại con thơ cho chồng hoặc người thân chăm sóc để đi làm thuê, vào các nhà máy, xí nghiệp nơi này nơi nọ, xa quê, xa nước. Tôi có biết vài phụ nữ vì không muốn bỏ lỡ dịp được ra nước ngoài làm luận án hay qua một kỳ tu nghiệp mà sẵn sàng xa con nhỏ. Chế độ lao động mới cho phép người lao động nữ được nghỉ khi sinh con, thế là đã tiến bộ nhiều so với trước đây. Không được ở bên mẹ 3 năm đầu đời là một sự thiệt thòi rất lớn đối với một đứa trẻ, cho dù nó được hưởng chế độ dinh dưỡng rất tốt. Sự thiệt thòi ấy không nhìn thấy được, không tính đếm hết được. Cuộc sống của một số gia đình trở nên buồn tẻ, ảm đạm vì cả bố lẫn mẹ đều quá giỏi giang, quá thành đạt và say mê công việc… Nước ta hiện nay vẫn còn thiếu công ăn việc làm, nên chăng động viên một số chị em sau khi lấy chồng thì nhường bớt công việc cho nam giới để chuyên tâm hơn với gia đình, những người chồng vừa phải cảm ơn họ vì luôn có cơm dẻo, canh ngọt chỡ sẵn ở nhà, vừa có thêm cơ hội để thể hiện mình là đấng trượng phu. Đặng Hồng Nam Thứ Năm, 21/12/2006, 08:46 Ít hiểu mình hiểu người TP - Nếu như Viện Nghiên cứu xã hội Mỹ từng đưa 10 đặc điểm tính cách của người Việt mình khá trúng thì, ngược lại, chúng ta ít hiểu biết về người khác. Nói chung chúng ta ít hiểu mình và hiểu người. Ngay cả nhìn nhận những xấu xí cũng chưa thật thà. Ít hiểu và chưa thật thà khiến chúng ta, nếu không cẩn thận, sẽ ngày càng bị bỏ lại phía sau những cuộc chơi lớn, bị knock out tại sân nhà. Thử điểm qua một vài tật khác nữa. Thiếu kiên nhẫn Điều đầu tiên là việc đa số không có thói quen xếp hàng, không đủ kiên nhẫn để xếp hàng. Đó có lẽ là nguyên nhân số một khiến luôn có hiện tượng tắc đường, tắc ngõ. Cũng là nguyên nhân khiến cho sự chen lấn, xô đẩy khi đi xe bus, lúc đợi làm công chứng. Dường như ai ai cũng bận rộn tới độ không thể nhường cho kẻ khác, nhiều khi không thể đợi cả đèn xanh đèn đỏ. Không phải người mình có chí tiến thủ nên cứ phải vượt lên hàng trước một cách vô kỷ luật. Vấn đề là cái Tôi bị dồn nén và bộc phát không đúng cách. Đáng lẽ ra cái Tôi ấy phải được tự do thể hiện những suy nghĩ của mình- kể cả việc suy nghĩ ấy ngô nghê đi chăng nữa - ngay từ khi học vỡ lòng. Ngược lại, chúng ta được dạy dỗ theo kiểu phải tôn trọng số đông, trong khi trái tim và khối óc thực sự không muốn như vậy. “Tôi không biết” Đây là câu mà người Việt thích nói nhất. Có vẻ ai cũng bận suy nghĩ rất nhiều thứ, tỉ như bao giờ nước mình có tàu lên sao Kim, sao Thổ. Nhưng khi được hỏi bất cứ điều gì, câu trả lời trước nhất hẳn phải là “Tôi không biết”. Bắt đầu từ việc vô trách nhiệm ngay với sự nghĩ của mình, tất cả mọi thứ đều có thể vô trách nhiệm được cả. Hiếu học nhưng chỉ là học lỏm Quả thật, người Việt ta có thói quen đi đâu cũng quan sát và học hỏi. Tuy nhiên cái sự học này thật là abc. Abc ở chỗ không bao giờ bỏ công bỏ của ra học một cách bài bản, học theo kiểu à ừ.Nghĩa là cái gì cũng biết sơ sơ, qua qua. Hỏi sâu một chút là y như rằng tịt. Cái sự học luật mà tôi đang theo đuổi mới thê thảm. Mỗi anh làm một bộ luật. Anh đi Nga về cho rằng luật nước Nga là nhất. Anh đi Pháp bảo luật Pháp vĩ đại. Có hỏi tận tình, có khi cả hai anh nói trên đều không hiểu rõ cái sự nhất ở đây là gì. Trong khi đó, sự học cứ thế truyền nhau mãi, học lỏm của học lỏm. Cuối cùng sư tổ của cái sự học lóm ấy nghe lại bài giảng của chính mình cũng không hiểu là mình muốn nói gì. Cũng tựa như dịch sách từ tiếng Nga trong khi nguyên bản là tiếng Anh. Cái chuỗi phiên dịch Anh- Nga- Việt đến tới người đọc không hiểu đó là thứ hầm bà làng gì nữa. Nhầm lẫn giữa chữ nhẫn nhịn và nhẫn nhục Nhẫn là để giữ cái hoà khí để đứng thẳng chứ không phải cái sự nhục để cúi đầu. Sự nhẫn nhục đi đôi với cái gọi là dĩ hoà vi quý. Đấy không phải là chữ nhẫn. Đấy là sự hèn nhát ngay cả trong tư tưởng. Điều này thật đáng sợ. Nhầm lẫn giữa câu hỏi và câu trả lời Tôi để ý thấy, ở nhiều hội thảo, người hỏi thường hỏi dài hơn cả câu trả lời của diễn giả. Người hỏi dường như muốn trả lời luôn cho câu hỏi của mình vậy. Người này làm mất rất nhiều thời gian của thính giả, không tôn trọng thính giả. Trong khi hỏi cũng là một nghệ thuật: hỏi ngắn gọn, đúng trọng tâm cần hỏi, đưa người được hỏi vào thế phải động não và phải trả lời sát với sự thật. Hàn Sĩ Huy (Thanh Xuân- Hà Nội Thứ Bảy, 23/12/2006, 11:57 Có một thứ phí TP - Có nhiều loại phí: Nào là học phí, viện phí, giao thông phí, thủy lợi phí, có làng người dân phải đóng đến 22 thứ phí. Song tôi dám chắc ít ai biết cặn kẽ một loại phí mà theo tôi là đáng lo nhất. Trước hết nói qua về cái sự dốt ta thường nghe. Nói nôm na, dốt là kém hiểu biết, thiếu thông tin, hiểu sai, ngộ nhận, có khi xử lý thông tin chậm hoặc tính quẩn… Chiều hôm qua tôi thấy mình ngu thậm. Tình cờ thấy mớ cá rô đồng tươi, nhẩy đành đạch của bà cụ ven đô, đòi 6.000 đồng mình chỉ cò kè mặc cả 5.000 đến 5.500, bước được vài bước một bà về hưu nhanh chân nẫng ngay sau khi trả đúng giá. Thứ “đặc sản” này, đúng ra phải 10.000 đồng. Của quí hiếm mà một nhà báo trẻ rất tinh nhạy viết rằng: Gì chứ, người Việt mình hầu như chẳng bao giờ tự nhận mình là dốt trừ những phút “sáng suốt, tỉnh táo đột xuất” hay “phê” – say say? Có ba loại dốt. Loại 1: Vì i tờ, mù chữ, thất học; loại 2: Vì tự thấy mình dốt…; ; loại 3: Vì cứ tưởng mình giỏi “nhất thiên hạ”. Một nhà minh triết nói “Càng học, càng biết nhiều càng thấy mình… dốt”. Dốt có thể do nhiều căn nguyên khách quan cũng như chủ quan. Vì chưa có một công trình khoa học nghiêm túc nào khảo sát “cái dốt” của con người ngoài một vài chỉ số IQ thông minh hay xúc cảm của người mình nên tôi không dám bàn thêm, chỉ nhớ mãi chuyện cười hiện đại “Đếm bằng chân”. Một cậu quí tử đi học về khoe mẹ “Hôm nay con đếm bằng chân”. “Sao bằng chân, mà không bằng đầu?” - Bà mẹ hỏi lại. “Vì đếm bằng ngón tay hết mười ngón không đủ phải đếm bằng ngón chân!”. Đã lười nghĩ hay nói cho có “mùi văn” người Việt mình lại hay ngẫm nghĩ lại còn nhiều lúc nghĩ xa xôi – xa xăm như một nữ văn sỹ nước ngoài nhận xét. “Ngày xưa và nay mai” ít khi chăm chú nghĩ thấu đáo đến cái hiện tại, cái hôm nay - lúc này, ở đây – bây giờ. Nghĩ để làm thay vì nghĩ – mộng mơ và nghĩ – hoài niệm. Tôi có cô cháu gái ngoan, giỏi, xinh chỉ vì nghĩ quá xa xôi nên không dám xe duyên với anh chàng chỉ hơn tuổi chút đỉnh. “Nhỡ anh ấy chết trước, mẹ con cháu bơ vơ xứ người thì bám víu vào đâu!”. Nghe vậy tôi suýt ngất! Thận trọng, cân nhắc, tính toán kỹ quá cũng mất thời cơ. Ai trong đời chẳng có lần dốt, nhưng dốt lâu, dốt đặc, cái gì cũng biết lơ tơ mơ hay cứ tưởng mình là giỏi, là nhất thiên hạ, chẳng cần học, cần hỏi, cần tư vấn, lại giấu dốt thì dốt phí phải trả giá đắt khôn lường! Sao La Chủ Nhật, 24/12/2006, 11:34 Ăn nhanh, đi chậm... TPCN - Đây là mở đầu của câu “ca dao hiện đại” được nhiều người nhắc tới khi nói chuyện vui, không chỉ nói đến hiện tượng xấu, mà còn lột tả tư duy, cách sống ngược đời của một số người Việt. 1. Ăn thì cần chậm! “Ăn chậm nhai kỹ, no lâu”, thì những người Việt này lại ăn nhanh. Bởi lẽ, mùa hè nóng nực, ăn mà còn toát cả mồ hôi, lại thêm cơm nóng, canh nóng, nên ăn cũng ngại. Hơn nữa thức ăn nghèo nên ăn quấy quá cho xong bữa. Còn một lý do nữa khi đi làm chung với nhau, “lính tráng có suất”, không ăn nhanh sợ mất phần. 2. Đi thì cần nhanh! Vì đi là biểu hiện của hoạt động và mục đích, cần tới chỗ này, cần đến chỗ kia. Nhưng như ở phần trên đã nói, tư chất “lãn công” làm lãi của một số người rất phổ biến, vì thế muốn đi chậm để dưỡng sức. Thêm nữa người có tư duy thế nào bước đi thế ấy. Người nghĩ xa, nhìn xa, bước đi tự nhiên khoan thai, sải dài. Người nghĩ ngắn, nhìn gần, loay hoay tủn mủn, thì bước chân không thể nào quảng khoát được. Đi cũng là nhịp điệu thể hiện trình độ về tốc độ. Người có tư duy thuộc nền công nghiệp máy móc đi nhanh, hoạt động nhanh. Trái lại, xã hội ta mới đang ở mức xấp xỉ 80% là nông dân sống kiểu “nông nhàn”, vì vậy tốc độ đi còn rất chậm, tốc độ sống còn rất rề rà. Những người này có một câu nói đùa bằng lòng với tốc độ sống của mình rằng: đi chậm cũng nhanh hơn xe bò, đi nhanh cũng chẳng thể kịp ô tô, vậy thì đường ta, ta cứ yên chí mà đi. Nói đến tốc độ, chúng ta đừng nên hiểu lầm, một số kẻ phóng xe bạt mạng ngoài đường là đã vượt quá tốc độ của xã hội công nghiệp. Đó chỉ là những kẻ mắc mặc cảm tự ti, liều lĩnh, muốn ta đây, phóng xe để trộ người… Đa số họ, đi nhanh nhưng chẳng biết đi đâu, nên phóng bạt mạng đến nơi nào đó, nhìn ngó một tẹo, không biết làm gì lại phóng đi. Người Trung Hoa cho rằng: “Kẻ không ngồi ấm chỗ chỉ là hạng lăng xăng...” Phần lớn số này, tài cán chẳng có gì nhiều hơn ngoài đi xe, nên cứ ra oai hết phóng đi rồi lại phóng về. 3. Làm mất vệ sinh nơi công cộng thì khỏi bàn nó xấu thế nào, đó là cách tùy tiện, thấy khát thì uống, thấy buồn thì tè chỗ nào cũng được. Có khi xe đỗ ở ngã tư, đèn xanh, đèn đỏ, giữa ban ngày ban mặt, một anh dừng xe máy phía sau, chạy lên chiếc xe tải đỗ phía trước, tè vào lốp xe. Người làm việc ấy, do trình độ nhận thức thấp đã đành, cách đây ít năm, tôi và mấy người học cùng trường đi dạo ra hồ Thuyền Quang, mấy chàng đã tốt nghiệp đại học hẳn hoi, cơ quan gần đó, nghĩa là không thể bí chỗ đi tiểu, vậy mà họ hồn nhiên đứng dàn hàng ngang tè ngay xuống hồ, vô tư như những chú bé con, còn chưa được mẹ dặn dò chỉ bảo. Ở nơi công cộng, chúng ta ghi “cấm phóng uế bừa bãi”, nhưng lại không có chỗ để người ta phóng uế. Bên Tây chẳng hạn, người ta thường kiểm tra chế độ vệ sinh “đầu ra” của một nhà hàng, nếu chủ quán định mở bao nhiêu bàn ăn, thì nhà vệ sinh (toa- lét) phải đáp ứng ngang bằng. Đằng này, ở ta có khi các quán bia đông cả vài trăm người uống, vậy mà chỗ đi vệ sinh có khi chỉ dành riêng cho một vài người. Có nhiều quán bia, mời người ta ăn thùng uống vại, nhưng cái khoản đầu ra, thì mặc kệ ông muốn giải quyết kiểu nào cũng được… Nguyễn Hoàng Đức Thứ Hai, 25/12/2006, 07:05 Thêm những chuyện thường gặp ở nông thôn TP - Nông thôn mới ở nước ta ngày càng có những đổi thay khởi sắc. Nhưng cũng còn rơi rớt nhiều thói hư tật xấu. Thích khoe khoang Có câu: “Thùng rỗng kêu to”. Nhiều người nghèo nhưng hay khoe khoang, phải chạy vạy từng bữa ăn, vay mượn quanh năm nhưng khi ra ngoài lại hay bốc đồng, khoe chẳng thiếu gì. Thích tụ tập - đàn đúm Dường như đã trở thành một thói xấu phổ biến ở các vùng quê. Ngày mùa thì không sao nhưng cứ rảnh rỗi là đàn ông tụ tập rượu chè, nhậu nhẹt linh đình, dẫn đến tình trạng say rượu, dựa vào rượu để khích bác, gây gổ… Thù dai Ở quê tôi bình thường thì vui vẻ là thế, nhưng chẳng may va chạm, xích mích là y như rằng phải tìm cách trả thù bằng được. Còn nhớ ngày đó, bạn tôi ở xa đến chơi, nó nghịch thế nào mà ném chết con gà hàng xóm. Bố mẹ tôi phải xin lỗi rồi đền tiền, tưởng thế là xong, không ngờ từ đó nhà hàng xóm tìm mọi cách trả thù, hễ thấy gà hay các con vật nhà tôi bất luận ngoài đường hay qua bên đó thì kiểu gì cũng bị ném túi bụi không tha. Xa yêu… gần ghét Anh em, bạn bè ở xa, lâu ngày gặp nhau niềm nở, tay bắt mặt mừng. Vậy mà chỉ cần ở gần nhau một thời gian thì mọi thứ trở nên khác hẳn. Cạnh nhà tôi có nhà anh B, hai anh em xa nhau nên rất quý, lâu ngày ông anh ở xa về chơi thì em niềm nở, một bác, hai bác rất quý hóa. Thời gian sau, ông anh chuyển về quê ở gần thì chẳng thấy anh em đâu nữa. Chuyện bé xé to Những người hiểu biết thường làm cho mọi chuyện va chạm dịu xuống và những chuyện nhỏ nhặt có thể bỏ qua vì họ không muốn tranh cãi làm um lên để bị mọi người chê cười. Song ở nông thôn nhiều người thường thích làm to chuyện. Bố anh bạn tôi làm an ninh xóm, một hôm thấy mấy đứa trẻ con đánh nhau, bố tôi lại can rồi dọa cho nó sợ, không ngờ mẹ đứa trẻ đi qua chẳng hiểu đầu đuôi như thế nào, làm um lên, la trời la đất để mọi người kéo nhau đến rồi bắt ông đưa đứa nhỏ đi bệnh viện trong khi nó chẳng bị làm sao cả. Trâu buộc ghét trâu ăn Suy nghĩ: “Nhà họ có người làm cán bộ mà anh em nhà mình chẳng lẽ lại không có ai” đang phổ biến ở một số vùng quê. Những ngày chuẩn bị cho đại hội bỏ phiếu bầu cán sự mới… thì ở quê tôi cứ nhộn nhịp bàn tán, nhiều người còn tổ chức họp anh em và bạn bè để bỏ phiếu cho một người nào đó trong họ. Mặc dù không có năng lực nhưng dường như người nào đông anh em thì người đó trúng cử. Người ta không cần biết có làm được hay không nhưng phải phấn đấu có được một người làm cán bộ để không phải thua thiên hạ. Giấu chuyện nhà, phô chuyện người Chuyện nhà mình thì tìm cách giấu kín, nhưng lại có thể ngồi cả ngày để nói chuyện nhà hàng xóm. Nhiều người thường những ngày rảnh rỗi lại tụ tập và bàn luận những chuyện đâu đâu, từ đầu làng đến cuối xóm hễ nhà ai có chuyện gì là y như người ta bàn tán xì xào, xấu-tốt lẫn lộn, khen chán, rồi lại chê bai… Trịnh Văn Khiêm Thứ Ba, 26/12/2006, 17:03 Ai sai để một người sai TP - “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Bản tính thiện của con người không phải là duy nhất và thường trực mà còn có cả tính ác, gian manh, hung bạo và muôn vàn thói hư tật xấu. Một nhà văn Pháp nói: “Trong con người có một con thú, thỉnh thoảng nó lại chồm lên. Vì vậy phải luôn cảnh giác với nó”. Người và con, thiện và ác trong con người nhìn bề ngoài khó mà biết. Nó chỉ bộc lộ trong những trường hợp cụ thể qua cách hành xử. Bởi thiện và ác, xấu và tốt là vô hình, là hai mặt đối lập cùng song song tồn tại. Khi cái thiện nổi trội thì sẽ át đi cái ác. Ngược lại khi cái ác nổi lên thì cái thiện sẽ bị suy giảm. Nhớ lại một câu chuyện cách đây đã mấy chục năm do mẹ vợ tôi, quê ở Nghệ An kể. Tuy chẳng được học hành gì nhưng bà thường răn dạy con cháu bằng những câu chuyện thực tế dù con cháu bà hầu hết là những người thành đạt, có học vị tương đối cao và đã lớn tuổi. Bà kể: Năm đó, có một gia đình làm mấy gian nhà gỗ nên mướn một cánh thợ mộc về làm. Trước đây làm nhà không khoán gọn như bây giờ mà chủ yếu là làm công nhật và gia chủ nuôi cơm thợ. Cánh thợ để ý thấy mấy hôm nay bà chủ đi chợ mua những con cá thu rất to về rán rồi kho. Mùi cá kho tỏa ra thơm phức nhưng hôm nào dọn cơm cho thợ ăn cũng không có món cá thu. Cánh thợ thấy gia đình bủn xỉn hư ăn nên đã bàn nhau “trả đũa” bằng cách trở đầu ngọn hai cây cột cái xuống dưới, gốc quay ngược lên. Dân gian thường có quan niệm rằng: Nếu cột, nhất là cột cái bị trở đầu lộn ngược thì gia chủ sẽ bị hại về nhiều mặt. Hai cây cột được đẽo và bào tròn nên chủ nhà chẳng biết đâu là gốc, đâu là ngọn mà chỉ biết tin vào thợ. Đến ngày giáp Tết, tuy nhà chưa làm xong nhưng thợ xin phép gia chủ về quê ăn Tết, đợi ra giêng sẽ quay lại làm tiếp. Trước khi thợ ra về, bà chủ nhà đưa cá thu kho khô đã gói sẵn trong các mo cau biếu mỗi người một gói đem về làm quà để gia đình ăn tết. Vì quê của cánh thợ ở miền ngược không mấy khi được ăn loại cá ngon của biển. Lúc này cả toán thợ đều lặng đi, không ai nói một lời nào. Ăn Tết xong, khi trở lại làm tiếp, cánh thợ tự góp tiền, lặng lẽ mua hai cây gỗ để thay hai cây cột, trước sự ngỡ ngàng của gia chủ. Kể xong, mẹ tôi chỉ nói một câu mộc mạc: “Các con ạ! Ai sai để một người sai!”. Cổ nhân đã dạy: “Sinh sự thì sự sinh”, “Ở hiền thì gặp lành”, “Hại nhân nhân hại” trong Truyện Kiều có câu: “Thiện căn bởi tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Muốn có chữ thiện và chữ tâm thì phải tu dưỡng. Bởi tu thân là biện pháp hữu hiệu để tâm đức luôn được trong sáng. Trong 14 điều được coi là “Lời dạy của Phật” thì điều thứ nhất là: “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình”. Khổng Tử có câu: “Nhất nhật tam tỉnh ngô thân” (Một ngày ba lần tự xem lại mình). Ngày nay nhiều thói hư tật xấu vẫn tồn tại và có chiều hướng gia tăng nhưng cái thiện cái tốt vẫn là chủ yếu, chủ đạo trong mỗi con người và trong toàn xã hội. Cả nước đang xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng xã hội học tập, xây dựng làng, xã văn hóa, gia đình văn hóa nên chúng ta có đủ cơ sở để loại trừ dần những thói hư tật xấu, xây dựng và nâng cao chất lượng sống và phẩm chất tốt đẹp của con người. Nguyễn Xuân Tính Khối 9, Trung Đô, Vinh, Nghệ An Thứ Tư, 27/12/2006, 10:56 Nên chuyển thành cuộc vận động thanh niên cả nước TP - Nên "bình chọn” những thói hư tật xấu nào gây nguy hại nhất trong thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên hiện nay, để tạo thành một cuộc vận động thanh niên cả nước quyết tâm và nhanh chóng sửa chữa... Báo Tiền phong đã rất mạnh dạn và tâm huyết khi mở ra chuyên mục này và đã được nhiệt liệt hưởng ứng với hàng trăm bài viết cũng đầy tâm huyết đối với sự phát triển của đất nước, với sự nâng cao phẩm chất của con người Việt Nam. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở những bài báo thì rồi người đọc ít nhiều cũng sẽ lãng quên đi. Như vậy thật là uổng phí. Thanh niên Việt Nam sống Mặt khác, cũng không thể cùng một lúc sửa chữa hàng mấy chục thói hư tật xấu đã được nêu ra. Do đó nghĩ rằng có ích, văn hóa. Ảnh minh họa. đã đến lúc cần phân thành 3 loại thói hư tật xấu: trong tính cách, trong công việc và trong quan hệ đối xử. Nhất là “bình chọn” những thói hư tật xấu nào là phổ biến nhất, gây nguy hại nhất trong thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên hiện nay, để tạo thành một cuộc vận động thanh niên cả nước quyết tâm và nhanh chóng sửa chữa, vì lợi ích của đất nước, vì phẩm giá của con người. Ba thói hư tật xấu trước mắt cần sửa ngay Tham khảo một số bài trong chuyên mục này cũng như căn cứ vào tình hình hiện nay tôi thấy ở thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên có ba thói hư tật xấu cần phải kiên quyết và gấp rút sửa ngay. Có thể coi đây là bước đột phá của lộ trình đẩy lùi các thói hư tật xấu. Đó là: 1. Không nói tục, gây gổ: Nhằm tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa mọi người với nhau. 2. Không vứt rác bừa bãi: Nhằm giữ gìn môi trường, là vấn đề hết sức quan trọng. 3. Không lạng lách, vượt đèn đỏ: Nhằm hạn chế tai nạn giao thông, là vấn đề hết sức quan trọng và nóng bỏng hiện nay. Đó là những tiêu chí rất cụ thể, có thể lấy làm căn cứ để kiểm điểm, đánh giá một cách cụ thể, chính xác nếp sống có văn hóa của từng thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên, bằng cách nhận xét hành vi hàng ngày của từng người. (Kể ra cũng có một tiêu chí khác, nhưng khó kiểm điểm, đánh giá một cách cụ thể chính xác, hoặc không phổ biến trong mọi tầng lớp nhân dân, nên tạm thời chưa nêu ra). Ba phẩm chất tốt đẹp cần trau dồi Tôi rất tán thành ý kiến “Cần lấy tích cực để đẩy lùi tiêu cực” trong một bài ở chuyên mục này. Nghĩ rằng những “tích cực” ấy không những phải có tác dụng đẩy lùi các thói hư tật xấu mà còn phải góp phần xây dựng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Do đó, trong tình hình nước ta hiện nay, sau khi gia nhập WTO, thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên nói riêng và mọi tầng lớp nhân dân nói chung nên trau dồi ba phẩm chất, vừa có tính truyền thống dân tộc lại vừa đáp ứng được những yêu cầu hiện đại. Đó là: tinh thần năng động, tri thức văn minh và đạo đức nhân hậu. 1. Tinh thần năng động: Đó là yêu cầu cấp bách Thanh niên Việt Nam có văn của đời sống hiện đại. Nó đẩy lùi những thói xấu hóa: lười nghĩ, lười học, lười làm, trì trệ, ỷ lại, thụ động, - Không nói tục, gây gổ ngại khó, bi quan. Nó thúc đẩy sự cần mẫn, óc sáng - Không vứt rác bừa bãi - Không lạng lách, vượt đèn đỏ tạo, vươn lên để vừa hội nhập vừa cạnh tranh với thế giới. - Sống năng động, văn minh, 2. Tri thức văn minh: Năng động nhưng không nhân hậu hăng say mù quáng mà phải dựa trên cơ sở những tri thức khoa học và công nghệ hiện đại. Nó đẩy lùi những thói xấu hủ lậu, lạc hậu, lỗi thời, tự mãn, “ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung”! Nó đẩy lùi những thói xấu sống bừa bãi, không tôn trọng pháp luật, kỷ cương. Nó đẩy lùi ở cán bộ những thói xấu tham nhũng, tùy tiện, thiếu trách nhiệm, thiếu công bằng, dân chủ, thiếu công khai, minh bạch. Nó thúc đẩy sự học tập; rèn luyện không ngừng về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và mọi lĩnh vực khác, thúc đẩy mọi hoạt động, công tác phải có kế hoạch, có hiệu quả, giữ chữ tín trong giao dịch, đúng hẹn, đúng giờ… 3. Đạo đức nhân hậu: Đó vừa là truyền thống dân tộc vừa là yêu cầu cấp bách để đẩy lùi những tiêu cực có thể phát sinh từ nền kinh tế thị trường hiện nay. Nó đẩy lùi những thói xấu vô cảm, tham lam, ích kỷ hại người, gian lận, lừa đảo, hung bạo, độc ác… phát huy tinh thần “một người vì mọi người, mọi người vì một người”. Nếu không có tình người, không có lòng nhân hậu thì sẽ đi chệch hướng, và xã hội chúng ta sẽ không bao giờ có thể trở thành một xã hội xã hội chủ nghĩa! Tóm lại, trong khi chờ đợi những đúc kết tốt hơn, tôi xin đề nghị khẩu hiệu sau đây: Thanh niên Việt Nam có văn hóa: - Không nói tục, gây gổ - Không vứt rác bừa bãi - Không lạng lách, vượt đèn đỏ - Sống năng động, văn minh, nhân hậu. Rất mong Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam sẽ từ chuyên mục này chuyển thành cuộc vận động thanh niên cả nước. Vận động đến từng chi đoàn, từng lớp, từng trường, từng cơ quan, xí nghiệp, từng khu vực dân cư, từng gia đình, với nhiều hình thức sinh động, phong phú và bền bỉ. Tôi nghĩ rằng đó là một việc làm hết sức bổ ích và cần thiết đối với đất nước ta trong thời đại hiện nay. Lê Huy Nguyên Trưởng đoàn chuyên gia giáo dục Thứ Sáu, 29/12/2006, 09:34 Sợ sai TP - Ai cũng nghĩ sai lầm là xấu xa, cần tránh, nhưng về một phương diện khác, sai lầm chưa hẳn đã là xấu. Nói thế không có nghĩa là cổ vũ, khuyến khích phạm sai lầm. Con người ta từ khi sinh ra đến lúc chết đi là một quá trình không ngừng học tập, rèn luyện và trau dồi tri thức. Mong ước lớn nhất của mỗi người là được đóng góp sức mình xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Nhưng cuộc sống vốn rất phong phú và đầy những bất ngờ, có những sự việc không diễn ra theo ý mình mà lại đi ngược lại, bởi vậy con người ta ai cũng mắc phải những sai lầm. “Nhân vô thập toàn” – Con người không có ai toàn vẹn cả, phải có người thế nọ, người thế kia, mới tạo nên một xã hội loài người phong phú và đa dạng. Ai cũng nghĩ sai lầm là xấu xa, cần tránh, nhưng về một phương diện khác, sai lầm chưa hẳn đã là xấu. Nói thế không có nghĩa là cổ vũ, khuyến khích phạm sai lầm. Khi phạm sai lầm người ta thường phải gánh chịu những thất bại nặng nề và cay đắng, chính điều ấy khiến bản thân họ phải xem xét lại hành động, suy nghĩ của mình, rút ra những kinh nghiệm sâu sắc cho bản thân. Trong phẩm chất văn hóa và giáo dục phương Tây, người ta rất coi thường những kẻ sợ sai lầm, cho đó là những kẻ hèn nhát. Bởi lẽ môi trường giáo dục là nơi con người hoạt động sáng tạo về tri thức và những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Con người phải luôn hướng tới những điều mới mẻ, tốt đẹp hơn, họ coi trọng những con người dám nghĩ, dám làm, biết tìm tòi, sáng tạo. Các nước phương Tây cũng là nơi dẫn đầu thế giới về phát minh khoa học và công nghệ. Trong học tập, những giờ học trên lớp trở thành giờ thảo luận sôi nổi, học sinh, sinh viên trao đổi đóng góp ý kiến và giáo viên chỉ là người hướng dẫn. Nếu có gì sai giáo viên sẽ sửa lại. Bởi vậy, chất lượng giáo dục của họ rất cao. Còn ở Việt Nam, tư tưởng “sợ sai” đã ăn sâu vào mỗi người, đặc biệt là trong học sinh, sinh viên. Trên lớp học sinh, sinh viên chỉ như một cỗ máy chỉ biết nghe và ghi chép, nhiều học sinh rất ngại phát biểu ý kiến, vì sợ trả lời sai sẽ trở thành trò cười. Chính những suy nghĩ ấy đang ngày làm mất đi sự năng động sáng tạo của họ, từ đó hình thành tư tưởng chây lười, ỷ lại. Những thói hư tật xấu ấy nếu không sửa chữa thì tác hại của nó quả là không nhỏ. Có câu chuyện thế này: Một anh được nhận vào làm trong một công ty, cùng với anh ta còn có hai người nữa. Ba người được phân công làm cùng một phòng. Trong công việc anh ta không có gì nổi bật, nhưng từ khi vào làm anh ta chưa hề phạm một sai lầm nào, còn hai người kia tuy làm việc tốt song ít nhiều đều đã phạm phải sai lầm. Khi công ty đề cử lãnh đạo, anh ta cứ nghĩ thế nào mình cũng sẽ được chọn, kết quả người được chọn là hai người bạn kia. Một thời gian sau, giám đốc gọi anh ta lên phòng gặp riêng, anh ta tin rằng lần này nhất định mình sẽ được đề bạt. Ông giám đốc tiếp rất thân mật, sau đó chỉ bộ hồ sơ trên bàn và nói: “Trong thời gian qua anh đã làm việc rất tốt nhưng gần đây công ty đang gặp khó khăn nên phải giảm bớt nhân sự, mong anh thông cảm”. Anh ta hoàn toàn bất ngờ. Ông giám đốc nói tiếp: “Tôi biết trong thời gian làm việc ở công ty anh chưa phạm một sai lầm nào, đấy chính là sai lầm lớn nhất của anh. Trên đời này chỉ có hai loại người không mắc sai lầm, một loại chỉ biết làm theo người khác, còn một loại không làm gì cả nên không bao giờ phạm sai lầm. Cũng còn một loại nữa đó là phạm sai lầm nhưng luôn tìm cách giấu giếm không dám thừa nhận, coi như mình không hề biết gì về chuyện ấy. Nhưng dù là loại nào đi nữa thì cái mà công ty cần là những con người thực sự có tài, dám nghĩ, dám làm, không sợ sai và biết sửa sai”. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ mở cửa hội nhập với thế giới, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế có những thay đổi lớn, đất nước đứng trước những cơ hội lớn để phát triển nhưng bên cạnh ấy cũng gặp không ít khó khăn. Trong bối cảnh ấy rất cần những con người thực sự có tài, dám nghĩ dám làm, không sợ khó, sợ khổ, nhất là “không sợ sai”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Chúng ta không sợ sai, chỉ sợ phạm sai lầm mà không sửa chữa”. Trung Nam Hải Từ Liêm – Hà Nội Ca dao, tục ngữ về thói hư tật xấu Đ: - Đổ dầu vào lửa - Đục nước béo cò - Đập đầu ăn vạ (?) - Đánh bùn sang ao - Đòn xóc hai đầu - Đòn càn hai mũi - Đâm bị thóc, chọc bị gạo - Đói ăn vụng túng làm càn - Đong đầy bán vơi - Được đằng chân lân đằng đầu G: - Gió chiều nào che chiều ấy - Gần chùa gọi bụt bằng anh - Ghen ăn tức ở - Giận cá chém thớt Trần Quốc Việt Thái Nguyên Thứ Bảy, 30/12/2006, 14:09 Trông người mà ngẫm… TP - Một số tập quán thói quen của người Việt Nam khi ở nhà ta thấy bình thường nhưng ở hoàn cảnh khác mới thấy là không đẹp, thậm chí rất xấu. Đó là thói quen hay làm ồn nơi công cộng, nói to chỗ đông người, tính kỷ luật kém, tính thiếu trật tự, lãng phí trong sinh hoạt… Khi thầy giáo Phan Văn Thích ở khoa Vật lý trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nói đại ý ở bên Tây cứ chỗ nào ồn ồn là y như rằng có mấy anh Việt Nam, lũ sinh viên chúng tôi cười xòa cho rằng, đó là một tật nho nhỏ đáng yêu. Sau này được ra nước ngoài chúng tôi mới thấy thầy không chỉ nói đùa. Lớp học tiếng Nga chúng tôi đa số học viên lớn tuổi, từng là sĩ quan quân đội vậy mà mỗi khi giải lao hay tan học cả hành lang ồn ào tiếng bước chân, tiếng cười đùa trêu chọc nhau. Cô giáo Liuba Karataeva hỏi tại sao các bạn hay làm ồn như trẻ con vậy, tôi trả lời bừa đó là bản tính sôi nổi của người Việt Nam. Giờ nghĩ lại thấy xấu hổ. Người Việt có tính hay chuyện, gặp nhau là có đủ thứ chuyện để nói, lại còn nói to bất kể là ở bệnh viện, quán ăn hay đang họp. Chắc bạn đọc cũng không lạ gì cảnh họp ở khu dân cư, người chủ trì cứ nói người đi họp cứ nói chuyện rì rầm mặc dù họ gặp nhau cả ngày. Khi chúng tôi tập trung để nghe hướng dẫn thủ tục hộ chiếu đi nước ngoài, tức là một việc hoàn toàn vì lợi ích của người nghe, vậy mà rất ồn ào, người hướng dẫn phải hô hét rất vất vả mới làm cho người ta chịu nghe mình, thật là không thể hiểu được. Tan ca đêm, suốt quãng đường từ nhà máy về nơi ở, từng tốp công nhân Việt Nam nói chuyện oang oang mặc dù lúc đó là nửa đêm. Lên máy bay rồi thì bô bô nói chuyện hay gọi nhau í ới đến nỗi các cô tiếp viên vốn kiên nhẫn cũng không muốn giấu vẻ mặt chán chường, nén giọng: “Các bạn trẻ, đừng làm ồn”. Về tính kỷ luật kém có thể lấy ví dụ về chấp hành giờ giấc. Những ai đã từng đi du lịch theo đoàn dù chỉ một lần chắc cũng trải qua cảm giác bực bội khi cả xe phải chờ một hai người chậm chân nhiều phút mà không rõ lý do, hầu như chặng nào cũng có, đoàn càng đông càng phức tạp. Về tính thiếu trật tự thể hiện rõ nhất ở bức tranh giao thông đường phố làm cho người nước ngoài phát khiếp. Người tự trọng không thể không xấu hổ khi chứng kiến cảnh chen lấn, xô đẩy giữa những người Việt ở khu vực lên máy bay đi Hà Nội sân bay Seremechevo- Matxcơva để rồi ai có vé cũng đi được cả, đó là một sự mệt nhọc vô nghĩa, trong khi đó ở cửa bên cạnh người Âu cứ nhẹ nhàng đi vào với vé trên tay. Nhân đây tôi nhớ đến bài đăng trên Tiền phong có chi tiết một người tỉnh nọ đi Hàn Quốc mà có 20 người đi tiễn, khi Vietnam Airlines lỡ chuyến thì có 21 người vất vả. Liệu có cần đi tiễn đông như vậy và phải ở lại tất cả chờ người nhà bay không. Về chuyện hút thuốc lá tùy tiện tôi nhớ mãi ấn tượng mỗi khi đến Ban quản lý lao động hay Phòng lãnh sự Đại sứ quán ta ở Matxcơva đều thấy cầu thang và hành lang nặng mùi thuốc lá và bẩn hơn ký túc xá nơi chúng tôi ở. Sau một thời gian ở xứ người, nhiều người Việt cũng đã ý thức được những thói quen tập quán nào phải điều chỉnh cho phù hợp. Cùng với mức sống ngày càng được nâng cao, nhiều thói hư tật xấu trong sinh hoạt của chúng ta đã có những thay đổi theo hướng tích cực. Ngày nay ở Việt Nam không hiếm nơi đông người mà vẫn sạch sẽ và không ồn ào. Tuy nhiên, tật xấu vẫn còn khá phổ biến vẫn cần chỉ ra cụ thể để sửa chữa. Tôi muốn nhấn mạnh điều này mong các đơn vị làm công tác xuất khẩu lao động, các bạn sắp ra nước ngoài học tập, làm việc hay du lịch lưu tâm. Có những hành vi là bình thường đối với chúng ta nhưng ở một số nước là xấu, có khi bị cấm, ở một số nước còn có luật tôn giáo khắt khe. Các bạn phải cân nhắc điều gì được làm, điều gì không nên làm và điều gì không được làm trong một xã hội văn minh. Các bạn nhớ nhập gia tùy tục và nên nhận diện một số thói hư tật xấu của người Việt để góp phần xây dựng hình ảnh đẹp về con người, về đất nước Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Dương Công Thao (Lạng Sơn) Chủ Nhật, 31/12/2006, 15:53 Thiếu lòng thành trong buôn bán TPCN - Trước tiên ta lạm bàn đến cái cố tật nói thách hay cò kè, bớt một thêm hai trong lối giao thương của người Việt vẫn còn tồn tại không ít thì nhiều, bằng nhiều phương cách khác nhau dưới mọi hình thức vẫn còn lưu truyền cho đến thời đại bây giờ. Ngay từ xưa khi các bà đội thúng đi họp chợ trong làng để bán buôn, thì hầu hết người mua là chỗ quen biết nên để mua chuộc tình cảm, cốt để giữ tình làng nghĩa xóm đã xảy ra hiện tượng tỷ dụ. Như: lẽ ra con cá đúng ra có hai xu thì phải nói đến bốn xu… để bà con trả xuống một chút thì bán, như thế người mua hoan hỉ vì thấy người bán tốt bụng, còn người bán tự dưng thấy vui vẻ vì mình cũng “rộng lượng” với người mua mà bán được món hàng”. Còn cái tật nữa là các bà ngày xưa ra chợ mua gì cũng xin thêm “một tý” món hàng khác, như mua lát cá thì xin thêm củ hành củ tỏi, mua miếng thịt thì xin thêm cục mỡ về rán… Vậy mới vui vẻ mà đặng lần sau đến chỗ cũ mua tiếp, bằng không thì cho là người bán keo kiệt bủn xỉn… chứ nào có hay bởi cái lẽ ấy mà kẻ bán buôn phải tìm đủ cách để cân thiếu đi hoặc tìm cách dối gạt khác, chỉ cốt để “vui vẻ cả làng” chứ nếu không chỉ có nước bán ế rồi đi đến chỗ bỏ nghề à! Cái sự thiếu lòng thành thật đã ngăn cản mọi nỗ lực của người thành tâm trên chốn thương trường, hoặc tạo tâm lý muốn tìm mọi cách để “đối phó” với điều ước muốn khá “thiển cận” của người mua. Vì thế người mua đôi khi chịu thiệt mà không hề biết. Về sau này cùng với sự phát triển giao thương, nhiều người Việt mình vẫn không sao bỏ được cái tật nói thách hoặc là cò kè, mà giữ mãi cái thói quen ấy đến ngày nay… Do không có tinh thần trọng nghề thương mại nên ngày xưa người ta khó lòng mà chung sức để góp vốn mở hội buôn bán, hoặc nếu liên kết lắm thì chỉ được một thời gian rồi giải tán, vì người chủ hội thì nghi ngờ kẻ làm công ăn bớt, do vậy phải cử người coi sóc hay đích thân kè kè ngay bên để trông nom cẩn thận. Rồi người có phần thì nghi ngờ cho chủ hội cậy thế mà giấu bớt tiền nong hầu hưởng lợi… thậm chí kẻ làm công chẳng phải cũng nghi ngờ chủ hội “ăn trên ngồi chốc” mà tha hồ hốt bạc. Bởi thế chính cái tâm lý thiếu lòng thành thật từ mọi phía đã khiến việc chung đụng nhau mở mang tiểu thủ công nghiệp từ ngày xưa cũng khó tồn tại lâu bền, nói gì đến phát triển để mọi người cùng hưởng lợi và nước nhà được khá lên… Có phải vì thế mà ở mọi lĩnh vực giao thương xưa, người Hoa kiều đã dễ dàng làm chủ và thành công vượt bậc? Vương Hữu Thái Bảo Lộc, Lâm Đồng Thứ Hai, 01/01/2007, 14:08 Dễ thích nghi, chóng hòa nhập TP - Có thể nhận biết rõ tính cách của người dân địa phương trong nước, chẳng hạn người Nghệ An bất khuất vô úy “bầy choa nỏ sợ thằng mô”. Người Hà Nội thanh lịch “chẳng thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”, người Huế thâm trầm kín đáo “con sông dùng dằng con sông không chảy, sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu (Thơ Thu Bồn). Người Nam Bộ bộc trực, phóng khoáng, vô tư “biết sống đến mai, để củ khoai đến mốt”, người Trung Trung Bộ “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co, Bình Định hay lo”. Tuy vậy, có một điều rất hiển nhiên là dù sinh ra và trưởng thành ở một vùng quê nào đó, các tính cách cơ bản đã định hình nhưng khi vì sinh kế phải đi làm ăn xa, người Việt sẵn sàng thích nghi ngay với tác phong, nếp sống, lối sống vùng đất mới. Tính cách, nếp sống người Huế vốn định hình rõ nét từ giọng nói, dáng đi, cách thức ăn uống, nề nếp gia đình, vui chơi giải trí. Cái gì cũng nhè nhẹ, dịu dàng, không ồn ào phô trương, không vội vã quyết liệt… Thanh niên Huế bao đời nay có một thú vui “tà tà dạo phố” bằng cách thả bộ, đi xe đạp hoặc xe máy cũng thế. Dạo quanh một vòng rồi tìm một nơi thoáng đãng có bóng mát ngồi uống cà phê, ngắm sông Hương chảy lững lờ và những con thuyền nhẹ nhàng trôi, người thanh niên Huế cảm thấy cuộc đời có một nét thú vị kỳ lạ. Nhưng cách sống này giết bao nhiêu thì giờ, tiền bạc của họ bên quán cà phê. Có nhiều người uống cà phê, tán chuyện gẫu từ sáng đến trưa rồi lại từ chiều đến tối. Có một triết lý sống ung dung, trung dung trong một bộ phận người Huế tồn tại song hành với lối sống vô vị, giết thời gian một cách vô tư vì chưa có mục tiêu, mục đích sống hay hành động. Nhưng thanh niên Huế khi vào TPHCM làm việc cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong nước, Cty nước ngoài thì ngay lập tức họ thích nghi với lối sống và làm việc ở đó: Tranh thủ, hối hả, cạnh tranh quyết liệt và… đúng giờ, quý thì giờ như vàng. Ai không thích nghi nổi thì buộc phải đi nơi khác hoặc quy hồi cố hương. Những người bà con ở quê vào thăm khó lòng gặp họ nếu không liên hệ trước. Mặc dù vậy, họ vẫn giữ tình cảm gia tộc, đồng hương đậm đà cũng như những nét riêng Huế, từ ăn mặc đến vui chơi, viết báo làm thơ, chơi cây cảnh… Đó là thích nghi hoàn cảnh để sống nhưng không đánh mất bản sắc của mình. Tuy nhiên, rất dễ nhận ra những người Huế đang dần đánh mất bản sắc khi không dám giữ nguyên giọng Huế trong giao tiếp với người Sài Gòn, Hà Nội. Người Huế rất tự hào về một phụ nữ trí thức Huế tinh thông ngoại ngữ và khôn ngoan, bản lĩnh trong ngoại giao trước mọi cường quốc nhưng bao giờ và ở đâu cũng giữ giọng Huế đó là bà Tôn Nữ Thị Ninh. Người miền Bắc trước 1975 không thích lễ bái rườm rà, giao tiếp nhiều thế hệ gia đình như ở Huế. Mâm cơm gia đình của họ tuy ngon và đầy tính khoa học, văn hóa nhưng họ cũng “ớn” kiểu làm mâm cơm gia đình của người Huế, nhất là mâm cơm đãi khách, mâm cỗ cúng: quá chi li, quá chi tiết, rắc rối, rườm rà, hoa hòe, hoa sói. Nhưng những người phụ nữ Bắc- kể cả Hà Nội- vào làm dâu xứ Huế sau chừng vài năm đã có thể thích hợp được với kiểu cách nấu ăn của phụ nữ Huế, sau chừng chục năm thì khó nhận ra họ là người Bắc nếu không nghe giọng nói. Từ nói năng, giao tiếp đến lễ bái đền chùa, cúng giỗ tổ tiên, tham dự lễ cưới, đám ma v.v… họ nhanh chóng thích nghi và “Huế hóa” tự lúc nào. Và họ tự hào về điều đó. Người Nghệ Tĩnh xưa thường bị dân kinh thành (thời nhà Hậu Lê) coi thường thì cũng chính dân Nghệ An có nhiều người đỗ đại khoa, nhiều đại quan, danh tướng, danh thần trên đất Bắc mà các “sĩ phu Bắc Hà” phải kính nể. Họ hòa nhập lối sống thanh lịch của người Tràng An một cách tự nhiên như không, nhưng vẫn giữ nền nếp phong cách, tính cách, bản chất đặc trưng xứ Nghệ-Tĩnh: kiên cường, bộc trực, bản lĩnh, mưu lược, thủy chung, tình nghĩa và đôi khi hơi cực đoan trong tính cách, hành động và sòng phẳng trong quan hệ. Sự nhanh chóng thay đổi phong cách, thói quen trong lối sống, nếp sống để thích nghi hoàn cảnh mới của người Việt ta còn thể hiện rõ ở Việt kiều. Những người thành đạt và có tên tuổi ở các nước phát triển nhờ vào trí tuệ, tài năng và bản lĩnh sống, khả năng thích nghi, đó là những vốn quý của dân tộc ta. Và lòng họ luôn khắc khoải nỗi nhớ quê cha đất tổ, luôn muốn cống hiến tài năng trí tuệ, tiền của cho công cuộc xây dựng đất nước. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hội Việt kiều yêu nước Pháp và các nước phương Tây đã góp phần lớn vào công cuộc kháng chiến, được Đảng, Nhà nước, nhân dân ghi nhận, tuyên dương. Sau năm 1975, vì hoàn cảnh sống khó khăn, nhiều người vượt biên sang Mỹ,Úc, Canada, Pháp… Nhưng khi đã ổn định công việc, có thu nhập, họ lại tích góp tiền bạc gửi về cho người thân, đóng góp cho họ tộc, làng xã xây đình chùa, miếu mạo, nhà thờ họ, trạm y tế, trường học, đường sá … Đó là vốn quý của lòng yêu nước, yêu đồng bào, quê hương, tình cảm cộng đồng và gia tộc của người Việt ta. Phạm Xuân Phụng Huế Thứ Tư, 03/01/2007, 10:54 Tốt đẹp phô ra, xấu xa quét dọn TP - Người Việt xưa có câu: “Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, giờ chúng ta nên thực hiện: Tốt đẹp phô ra, còn xấu xa thì hãy quét dọn. Chứ còn đậy lại, úm ba la thì ai phải ngửi? Cái lý mà người Việt theo đuổi là “Đạo lý làm người”. Dân tộc Việt là một dân tộc rất yêu đạo lý với phương ngôn không còn chỗ nấp nào cho những thứ ậm ừ: “Nói phải củ cải cũng nghe”. Người Việt cũng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”, “Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành”. Đấy, chỉ bằng câu mộc mạc như vậy đã khẳng định “sự thật” là thuốc thần để chữa bách bệnh. Rồi “Thật thà là cha quỉ quái”, “Ở quỉ gặp quái, gian tà gặp nhau”. Ở đời, đức tin có trước mọi tôn giáo, vì không có đức tin làm sao có tôn giáo? Và sự phân biệt tốt - xấu có trước mọi môn đạo đức học. Và người Việt đã đặt ra nền tảng tốt - xấu, hơn thế còn chỉ ra cái xấu để tránh, cái tốt để theo, nghĩa là người Việt đã dấn bước vào phạm trù đạo đức học. Ông cha ta đã dạy dỗ con cái từ trong nhà ra đến ngoài đường rằng: Chớ “Cha nói oan, quan nói hiếp, chồng có nghiệp nói thừa”. Vì thế, có ý kiến cho rằng: Khi ta nói về cái xấu của dân tộc là ta say sưa cái xấu đó, nói vậy là phiến diện. Mới đây tại Malaysia, cả nước tổ chức ngày “toa lét”, muốn giáo huấn toàn dân ý thức đi vệ sinh và giữ vệ sinh chung, để giữ sức khỏe cộng đồng và hấp dẫn du lịch. Khi người ta chú mục đến vấn đề toa lét, đâu có phải là say sưa với nó, mà để giữ cho cơ thể trong sạch hơn. Người Việt xưa có câu: “Ăn hết nhiều, ở hết bao nhiêu”, xây nhà thì chỉ chú ý xây gian giữa, còn cái khoản nhà vệ sinh thì quấy quá cho xong; phải nói, cách nghĩ đó đã quá lạc hậu, giờ đây người hiện đại đã nói ngược lại: “Ở hết nhiều, ăn hết bao nhiêu”. Và một ngôi nhà sang trọng thực sự, thì khu phụ được xây dựng hết sức tốn kém, nào đá lát sàn, lát tường, bồn tắm, vòi phun nóng lạnh… Đây là hình ảnh mộc mạc và hiện đại để chính ta liên tưởng rằng: Càng chú mục để dẹp cái bẩn thì con người chúng ta càng sạch sẽ và lành mạnh. Trái lại, càng lờ cái bẩn đi, thì người ta sẽ bôi bẩn khắp nơi từ nhà ra ngõ đến tận quảng trường. Một xã hội càng có nhiều người dám nhìn ra cái xấu, tức là càng muốn sửa mình, tức càng có nhiều người tình nguyện làm nghề vệ sinh quét dọn, càng làm cho khuôn mặt của xã hội tươi tắn hơn. Người Việt xưa có câu: “Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, giờ chúng ta nên thực hiện: Tốt đẹp phô ra, còn xấu xa thì hãy quét dọn. Chứ còn đậy lại, úm ba la thì ai phải ngửi? Có làm được như vậy, chúng ta mới thực hiện: Con hơn cha để nhà có phúc. Nguyễn Hoàng Đ Thứ Năm, 04/01/2007, 15:56 Thấy người sang bắt quàng làm họ TP - Thói cho họ mình là nhất, khoe khoang gia tộc, bao che con cháu, nhắm vào người quyền lực của họ mình, quê mình để khai thác vô nguyên tắc đang có đất màu mỡ để sống, thiết nghĩ cần đấu tranh, phòng và chống. Những câu chuyện như trong bộ phim “Đất và người” (VTV) không phải chỉ có riêng ở một vùng nào, không phải bây giờ thì không nặng nề nữa. Quy chế dân chủ cơ sở thực hiện được tốt hay không, xét đến cùng là dựa vào phiếu bầu, phiếu thăm dò của dân, của cán bộ đứng đầu ngành, nghĩa là đại cử tri ở địa phương, rồi ý kiến đại diện cho dân khi đại biểu HĐND về tiếp xúc cử tri cũng thế. Sự tín nhiệm ấy nhiều khi là ảo do “lịch sử để lại” xóm ấy, xã ấy số đảng viên cán bộ, đại cử tri đang nghiêng về dòng họ nào. Tính khách quan của ý kiến, của lá phiếu bị thủ tiêu vì thói tật lâu đời “ Đi làng bênh họ”. Chú ý sẽ thấy không phải chủ yếu do tài đức mà lãnh đạo chủ trì ở địa phương nào, người thuộc dòng họ nào thì người ở địa phương đó, dòng họ đó được làm việc, được tham gia lãnh đạo đông hơn. Từ số đông đó lại nảy thêm một thói xấu nữa là khoe và thích họ mình có người làm to. Sự thích trong hiện tại chưa đủ lại còn tìm cách chứng minh trong lịch sử. Chứng minh đúng là tốt, nguy hại nhất là hiện tượng vơ vào “tham ô danh nhân”. Đã có một danh nhân lịch sử được Bộ VHTT cấp bằng chứng nhận danh nhân và di tích lịch sử xong. Về sau nhiều nhà nghiên cứu phát hiện sai, Bộ đã có quyết định thu hồi bằng chứng nhận, nhưng thực tế vẫn chưa thu được. Lại có hiện tượng khác. Bằng công nhận di tích và danh nhân lịch sử cho vị trạng nguyên ấy ở huyện A. Lịch sử địa phương huyện A đã viết công bố hàng chục năm, dòng trưởng tộc vẫn còn ở đó. Bỗng một nhánh họ có người lãnh đạo và có khả năng hơn chứng minh rằng trạng nguyên ấy ở huyện B và xin được rước bằng chứng nhận về “gốc”. Tranh chấp một thời gian, nay chính vị cựu lãnh đạo ấy nói “Danh nhân, nhà thờ ở huyện A là đúng, chớ tranh cãi nữa”. Lại có ba trạng nguyên khác mà bằng công nhận di tích, lịch sử địa phương đã công bố, trường học đã mang tên danh nhân hàng chục năm yên ổn. Nay bỗng có người thuộc nhánh họ đó ở huyện khác nói rằng ba vị trạng ấy không ở đó mà ở huyện mình. Một số đại biểu của nhánh trưởng lên huyện trình bày rằng “Người ta nói nhánh trưởng của chúng tôi thực ra là nhánh thứ. Ngày xưa lị sở ở miền núi nên cha con trạng nguyên phải ở trên miền núi mới đúng”. Một đồng chí nguyên lãnh đạo huyện và là người viết sử địa phương lâu năm nói “không ai có thể buộc lịch sử theo ý cá nhân được, bác mời họ ra Thư viện Quốc gia đọc sẽ thấy rõ”. “Thưa đã ra rồi, họ bảo sang viện Hán Nôm, nhưng chúng tôi không đọc được chữ Hán”. Lại có nơi, danh nhân là nhà thờ đã được xếp hạng thì ở xã miền xuôi, một xã miền núi rước về một ngôi đền ở xã mình. Hàng năm dân đi viếng danh nhân không về nhà thờ tổ mà đến ngôi đền du lịch đó. Anh em ba đời dòng trực hệ còn sống bên nhau rất cần đoàn kết giúp đỡ nhau thẳng thắn còn ngổn ngang bao việc không lo, mà cứ ham đi khắp nước tìm phả hệ từ mấy thế kỷ trước càng tìm càng bí, rồi công bố thiếu chính xác thủy tổ của mình có công cứu nước. Lo lập hội đồng gia tộc toàn quốc, có đại diện ở nước ngoài, huy động đóng góp, xây mới, trùng, xuất bản các ấn phẩm dòng tộc, chân dung danh nhân. Hoàng Văn Hân (Xã Nam Thành, Yên Thành, Nghệ An Thứ Sáu, 05/01/2007, 09:48 Cha chung không ai khóc TP - Xưa nay tư tưởng dùng “của chùa” đã thấm sâu vào trong tư tưởng người Việt. Đồng hành với việc dùng “của chùa” là quan niệm “Cha chung không ai khóc”. Hàng ngày sinh viên chúng tôi sử dụng các vật dụng phục vụ cho công tác giảng dạy như “của chùa”. Hàng tháng, nhà trường phải bỏ ra hàng chục triệu đồng để trả tiền điện, nước trong khi đó sinh viên cứ mặc sức hoang phí. Sử dụng các thiết bị thực hành trị giá hàng trăm triệu đồng nhưng ý thức bảo vệ thì rất kém, ai muốn làm gì thì làm, hư hỏng đã có người khác lo. Ngay cả việc nhỏ nhặt như nhận phấn cho giáo viên, đáng ra chỉ cần nhận 5 viên là đủ viết cả buổi học thì sinh viên lấy gấp 2,3 lần, số phấn dư chỉ dùng để ném nhau hay viết vẽ bậy lên bàn, lên bảng. Chuyện tôi kể có người sẽ cho là nhỏ nhặt nhưng khi hình thành thói quen thì hậu quả của nó sẽ khôn lường, ngày lại ngày nó gặm nhấm dần tài sản công quỹ. Trường tôi có máy nấu nước tự động để phục vụ tại chỗ cho sinh viên. Thay vì phải mất tiền mua nước để uống thì các sinh viên vô tư xách chai đến máy nấu nước trường mang nước về nhà uống. Có người trong bốn năm học đại học không tốn một đồng tiền mua nước uống. Điều nguy hại là những việc làm đó có nhiều người biết là không nên nhưng vẫn đồng lõa, hay thờ ơ, mặc kệ, coi như không liên quan gì đến mình, việc gì phải lên tiếng phản đối để nhận lấy sự thù ghét. Từ công sở đến những nơi công cộng, đâu đâu cũng xảy ra lãng phí, xâm hại của công mà không ai cảm thấy thương tiếc. Thấy người ta ăn cắp, bòn rút, đập phá của công cũng mặc kệ, không ngăn chặn hay tố cáo vì sợ bị trả thù và nghĩ rằng đó là của chung.
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net