Người Việt - Phẩm chất - Thói hư tật xấu
Thực tế đã chứng minh rằng người Việt Nam thông minh không kém bất
kỳ người nước nào trên thế giới. Cái khôn tích cực, đáng để ca ngợi phải gắn
liền với lợi ích của dân tộc và cộng đồng.
Ngược lại, cái khôn sẽ trở nên gian dối và cao hơn sẽ là “thủ đoạn”, sẽ không được
xã hội chấp nhận. Như gian dối trong thương mại, cố ý cân, đong, đo, đếm không
chính xác, cố ý tráo hàng, làm tăng trọng nhưng giảm hoặc biến chất hàng hóa…...
Thứ Sáu, 15/12/2006, 07:43
Khôn quá… hóa dại và…
TP - Thực tế đã chứng minh rằng người Việt Nam thông minh không kém bất
kỳ người nước nào trên thế giới. Cái khôn tích cực, đáng để ca ngợi phải gắn
liền với lợi ích của dân tộc và cộng đồng.
Ngược lại, cái khôn sẽ trở nên gian dối và cao hơn sẽ là “thủ đoạn”, sẽ không được
xã hội chấp nhận. Như gian dối trong thương mại, cố ý cân, đong, đo, đếm không
chính xác, cố ý tráo hàng, làm tăng trọng nhưng giảm hoặc biến chất hàng hóa…
Khi mua cá ở chợ, người mua thuê người bán làm cá. Người bán đã tráo cá lớn thành
cá bé, nhiều con thành ít con;
Trước đây người bán thường cân non (cân thiếu) với thao tác nhanh nhằm qua mắt
người mua. Khi mọi người cảnh giác tốt hơn, ngày nay người bán lại cố ý điều chỉnh
cân đĩa cho non vài vạch.
Vì thường khi chưa đặt hàng hóa, thực phẩm lên đĩa để cân thì người mua hiếm khi
kiểm tra cân và “điêu luyện” hơn, để tránh sự kiểm tra của người mua hàng về độ
chính xác của cân, người bán hàng thường cầm đĩa cân ra khỏi cân, viện lý là để
hứng nhận thực phẩm, hàng hóa từ tay người mua lựa chọn, sau đó mới đặt lên cân.
Khi cân thì kim đồng hồ cân đĩa vẫn chỉ đúng vạch hẳn hoi…
Trước đây có lúc, có vài nơi khi tôm xuất khẩu có giá cao thì lấy đinh, kẽm “lụi” vào
tôm, tiêm Agar vào tôm để tăng trọng. Lúc hồ tiêu cao giá thì trộn hạt gòn vào để
xuất khẩu… Khi bị “phát giác” thì bị hủy hợp đồng mua bán, hàng hóa ứ đọng, tuột
giá và thậm chí phải bồi thường hợp đồng thế là mất… Vì khôn quá… hóa hại!
Đó là những thủ đoạn, những gian lận điển hình trong thương mại cần được lên án.
Nước ta đã là thành viên thứ 150 của WTO, vấn nạn trên cần khắc phục triệt để.
Bệnh cẩu thả do thiếu trách nhiệm và hạn chế về nghiệp vụ của một số cán bộ xã
phường.
Họ và tên người nói riêng và nhân thân của một người, nói chung, phải có sự thống
nhất và cố định, vì nó có quan hệ trực tiếp đến những bằng cấp, chứng chỉ cũng như
sự trưởng thành và tiến thân của mỗi người.
Thực tế ở nhiều địa phương, khi chuyển đổi hộ khẩu, lập bản sao khai sinh… cho
công dân, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có sự cẩu thả (có thể, một phần do trình độ
chuyên môn còn giới hạn nên chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm), cán bộ trước
viết chữ ẩu “hơn Bác sĩ”, cán bộ sau đọc không được rồi lại tiếp tục viết chữ ẩu “hơn
Bác sĩ”…
Kết quả, đã làm sai lệch ngày, tháng, năm sinh và họ tên… của một số người
(Nguyễn Văn Hen thành Nguyên Văn Hên, Long thành Lòng, Chư thành Chủ…) chỉ
cần bị một sai lệch nhỏ (sai một dấu trong họ, tên hoặc sai một số trong ngày, tháng,
năm sinh), nếu người dân phát hiện muộn thì việc điều chỉnh sẽ phiền phức vô cùng.
Thanh Hùng
Thứ Bảy, 16/12/2006, 15:29
Từ cày chìa vôi đến computer
TP - Hình ảnh “con trâu đi trước cái cày theo sau” đang mờ dần trong mắt các
bạn trẻ. Nhưng cái cày chìa vôi với nghĩa đen là công cụ canh tác cổ xưa nay là
công cụ, máy móc, kỹ năng làm việc theo nghĩa bóng hầu như không thay đổi
nói gì đến thay thế ở người Việt mình.
Nói ngắn gọn, sang thế kỷ 21, không ít người vẫn làm việc, thao tác “chay” hoặc
thiếu công cụ, máy móc thô sơ như vài chục năm về trước! Ngay ở tầm quốc gia, dù
không thiếu tiền, ngành xăng dầu vẫn dùng máy kiểm tra cổ lỗ sỹ thời Liên Xô nên
không thể đo được aceton quá liều lượng cho phép trong xăng...
Không rõ thực hư thế nào, nhưng ông bạn tôi ở ngành Cổ sinh học bảo nhiều GS đại
học không biết dùng điện thoại di động, riêng máy vi tính theo một cuộc điều tra có
đến 51% cán bộ giảng dạy đại học không sử dụng.
Lười, không có tiền mua hay quen “dạy chay” (đọc - ghi) hay quen xin, được biếu.
Một ông trị sự tạp chí đầy ắp thông tin, nhiều cây đa cây đề viết vẫn phải cầu cứu
các ông chủ doanh nghiệp mua cho để phát, biếu... Chương trình tin học hóa nơi nơi,
cơ quan, xí nghiệp nào cũng san sát máy vi tính nhưng chủ yếu đánh văn bản, chới
game và buôn chuyện. Với điện thoại di động cũng vậy!
Những quốc gia giàu có, văn minh phát triển coi chất xám là thứ quý nhất vì sinh lợi
nhiều nhất, đất đai chẳng là thứ gì. Ở họ, cái đầu lại nối với computer và nối kết với
nhau trong thế giới phẳng thay vì cái đầu của nhiều thanh niên ở xứ ta.
Kể ra cũng thông thái chẳng kém ai nhưng vẫn trơ cái nắm tóc hay trọc nhẵn theo
mốt, đã thế khi trang bị “hoành tráng” lại vẫn không nối kết với nhau... trong khi
không tiếc tiền thay dàn loa, con xe hay bộ xa lông đang mới cứng để tỏ ra “sành
điệu”. Nghèo chơi sang đi một lẽ. Vô lý đùng đùng, giàu lại chơi trội khoe của, sắm
ôtô cả triệu đô, đến tỷ phú Mỹ cũng trố mắt.
Thời đại hội nhập, muốn xóa đói giảm nghèo tiến lên thịnh vượng, phải sắm sửa
“chăm sóc” công cụ, máy móc, công nghệ, từ cái gọt bút chì, máy tính cá nhân, cờ lê
mỏ lết,... đến computer là vì thế.
Cơ bắp (vai u thịt bắp) giỏi lắm, cần cù, lam lũ đến mấy cũng chỉ đủ ăn thôi. Công
cụ mới, hiện đại chỉ là đồ trang trí nếu con người không học sử dụng, nâng cao kỹ
năng, rèn thói quen mới.
Đức Úy
Chủ Nhật, 17/12/2006, 11:05
Tư duy tổng hợp
TPCN - Trên báo Nhân Dân ngày 26/11/2000, ông Tố Hữu kể, năm 1965 Bác Hồ
và Trung ương Đảng cử ông vào Quảng Bình, Vĩnh Linh: “Trước khi tôi lên
đường, Bác gọi đến hỏi: “Chú vô định làm gì?”.
“Thưa Bác, cháu hiểu mọi việc đều do Đảng lãnh đạo. Đảng có vững mạnh mới đoàn
kết được nhân dân kháng chiến”.
Tôi nghĩ Bác đang “sát hạch” mình, nên trình bày đủ các vấn đề, từ nhiệm vụ của tổ
chức Đảng, của đảng viên, tư cách đạo đức cán bộ, phương pháp công tác ra sao…
Nghe một chặp, Bác bảo: “Sao chú nói dài thế!”. Tôi mạnh dạn: “Thưa Bác, làm thế
có được không ạ. Xin Bác cho ý kiến”.
Bác cười: “Ô hay, sao chú lại hỏi tôi? Hỏi dân ấy! Dân mới đánh giá được ai giỏi ai
không, mới hiểu được cán bộ có gương mẫu, sinh hoạt lành mạnh không. Chú về mà
hỏi bà con ấy”. Ông Tố Hữu vào Quảng Bình, Vĩnh Linh lắng nghe dân đã biết ai có
công, ai bè phái từ đó củng cố tổ chức vững mạnh.
“Hỏi dân, nghe dân” là lối tư duy tổng hợp từ thực tiễn.
Trong nhiều diễn đàn long trọng hiện nay, cả không ít cuộc “hội thảo khoa học”, vẫn
thường nghe những ý kiến phân tích một vấn đề nào đó rất giỏi.
Tuy nhiên, phân tích hài hước mà nghiêm túc, dài dòng mà say sưa thì ai bằng được
các bà nhà quê ngồi lê đôi mách chuyện hàng xóm, thể hiện tình yêu thương hay sự
ghen tỵ của các bà?
Hoặc anh thợ thủ công phân tích sản phẩm của anh mà mỗi đường nét đã gắn với
cảm xúc, thậm chí là bí quyết gia truyền, sản phẩm như đứa con tinh thần, anh yêu
quý hơn mọi sản phẩm cùng loại của người khác.
Những phân tích như thế thường kém sự liên hệ rộng và sâu ra bên ngoài nên dù sắc
sảo vẫn kém lôi cuốn, lại sẵn định kiến cá nhân nên thiếu mục đích cao cả, ít có giá
trị với người khác.
Tư duy sản xuất nông nghiệp theo kinh nghiệm, thợ thủ công coi trọng bí quyết gia
truyền, thân phận nô lệ cam chịu thuần phục và cả thời bao cấp quen chờ chỉ đạo của
cấp trên đều là lối tư duy thiếu chủ động sáng tạo.
Tất cả gần với tư duy bảo thủ, phát triển khả năng phân tích để bảo vệ quan điểm sẵn
có, để tự vệ, xa lạ với tư duy tổng hợp để rút ra những kết luận mới mẻ, tạo sức sống
mới mẻ.
Tư duy phân tích vì thế thường lúng túng, yếu ớt ở các thời điểm có tính bước ngoặt,
trong lịch sử lâu dài dân tộc ta đã bao lần bị đẩy đến chân tường, phải quyết liệt vùng
lên thoát khỏi tư duy lạc hậu để thoát ách nô dịch. Tư duy phân tích nói chung đi sau
cuộc sống.
Tư duy tổng hợp thực tiễn (chứ không phải trong các phòng họp) là tư duy đi trước
cuộc sống, luôn đổi mới, sẵn sàng để không bị động trước cuộc sống. Đó dường như
cũng là tư duy cần có của người Việt thời hội nhập!
Sáu Nghệ
Thứ Ba, 19/12/2006, 08:06
Từ chuyện thầy Min Đơ, Min Toa...
TP - Hà Nội thuộc Pháp, các Đơ, Min Toa (*) không ngại mặc quần soóc đạp xe
đi khắp nơi xử phạt đái đường… Hà Nội ngày nay đang bỏ phí một nguồn thu
đáng kể. Giải quyết đúng nơi quy định chỉ mất 500đ. Thế mà vẫn còn nhiều
chuyện tế nhị... đằng sau!
Người Hà Nội ai chẳng nhiều lần qua gầm cầu Long Biên, lên đường đê Yên Phụ.
Con đường một chiều rộng, thoáng, đẹp, nhưng người xe chỉ lưu thông trên một nửa.
Nửa còn lại về phía bên phải - luôn dành ghi dấu vết sẫm màu của những dòng
nước... đổ dài từ chân khắp các cột đèn đường. Nếu du khách nước nào cố ý tọc
mạch về những dòng nước “hóa thạch” này, tôi gợi ý quý bạn đọc kể một câu
chuyện: Vùng này người ta nuôi nhiều chó to. Sáng cũng như chiều, chúng được dẫn
đi dạo trên con đường này…
Hai bên hông Cung Văn hóa Hữu Nghị (phố Trần Bình Trọng và Yết Kiêu), chân
tường cũng có những dấu vết tương tự nhưng phân tán, vì ở đây không có cột đèn.
Từ khi dãy quán cà phê mọc lên, cùng các bãi trông xe hình thành thì về ban ngày
hiện tượng đái bậy chắc không còn nữa, nhưng những dấu vết chưa có ý định nhạt
phai.
Còn ở đâu nữa nhỉ? Khắp nơi (cứ phải nhắc đến tên những con phố mang tên danh
nhân không tiện tí nào)! Có lần vừa bước ra khỏi cổng cơ quan, giật mình vì một chị
bỗng… nhô lên từ dưới cống nước lộ thiên (đang mùa cạn).
Có lần thấy cảnh hai cụ ngồi đánh cờ thanh tao trên bãi cỏ trong khuôn viên Văn
Miếu, tôi giơ máy chụp. Về phóng ảnh to lên, mới thấy trên bức tường hậu cảnh hiện
dòng chữ “Cấm ỉa bậy”!
Lại nhớ đến tường bao miếu Văn về phía Nguyễn Khuyến trước đây dích dắc tạo
thành góc vuông… “Lợi tiểu” đến độ người ta đã phải nắn lại cho thẳng, những
mong các “tiểu nhân” chỗ khác cho!
Trong một tiết mục hài đề cập chuyện này, diễn viên hỏi giùm: Đã quay mặt vào
trong còn bảo không lịch sự à? Thực tế không phải lúc nào cũng như vậy.
Chẳng hạn, tường ở đây lại là tường hoa sắt bao quanh công viên Thống Nhất; còn
cột điện không phải lúc nào cũng bên đường, mà lại trên dải ngăn cách; đi xuống
sông nhưng bên này lại là đường Láng...
Trên những phố phường thủ đô, các thủ phạm đái bậy đang là đối tượng được tôn
trọng “quyền riêng tư”!
Hà Nội là trung tâm của cả nước. Đây là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng tính tình của
người Việt Nam. Cái hay phô bày đã đành, cái dở vẫn phô bày trước thiên hạ...
Thế nên mới có chuyện bác nông dân buồn lắm rồi nhưng vẫn phải vác cái phần
dưới về tới đất nhà mình mới tuôn ra. Hà Nội là thành phố từ bao giờ, nhưng cho
đến những năm cuối thế kỷ XX, vẫn còn hố xí đổ thùng - mang ra ngoại thành bón
ruộng được.
Hà Nội thuộc Pháp còn các thầy Min Đơ, Min Toa(*) không ngại mặc quần soóc đạp
xe đi khắp nơi xử phạt đái đường… Hà Nội ngày nay đang bỏ phí một nguồn thu
đáng kể. Giải quyết đúng nơi quy định chỉ mất 500đ. Tìm một quán nước có toa lét
giải quyết mất khoảng 5.000đ lại được uống trà chanh. Còn nếu muốn bậy cứ nộp
vào công quỹ 500.000đ– những người buồn... dọc đường sẽ tự tìm ra giải pháp thích
hợp.
Giải pháp tham khảo dành cho người đi đường: Các hàng quán ở khu vực phố cổ đã
quen với việc ông Tây khoác ba lô từ nghìn dặm đến lịch sự xin vào thẳng phần phụ.
Tầng lớp công chức cũng chẳng ngại, khi nào buồn họ chỉ cần tạt vào một khách sạn
4-5 sao gần nhất (chính thế mà không phải khách sạn to nào cũng miễn tiền gửi xe!).
Thiên Hà Thủy
(*) Hai nhân vật cảnh sát trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng.
Thứ Tư, 20/12/2006, 06:29
Nghĩ lại một chút về bình đẳng giới
TP - Sự bình đẳng là do nhận thức đem lại. Nhiều phụ nữ đi làm có thu nhập
cao, thậm chí còn cao hơn của chồng nữa nhưng vẫn bị chồng coi thường, phụ
bạc...
Những người đi Nhật về thường kể rằng đa số ở đây
phụ nữ sau khi lấy chồng thì không đi làm nữa dù có
bằng tiến sĩ, chỉ ở nhà bếp núc và nuôi dạy con cái.
Người ta cũng kể rằng khi cùng đi với chồng, phụ nữ
thường lái xe, bê xách hành lý. Có khách đến nhà, vợ
đem trà hoặc thức ăn lên chứ quyết không ngồi tiếp
khách với chồng…
Cũng hơi kỳ. Thì phong tục của Nhật là như vậy, người Ảnh minh
đàn bà Nhật vốn nổi tiếng về sự chu đáo với chồng con họa:www.vneconomy.com.vn
“Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”. Những chuyện như lái xe đưa chồng đi chơi,
bê xách hành lý… có lẽ ta chả nên bắt chước, nhưng chuyện thôi đi làm để ở nhà
chăm sóc chồng con, ở vào thời nay, cũng cần tham khảo.
Ở thế kỷ trước người ta thường cho rằng sự bất bình đẳng nam nữ nguyên do là bất
bình đẳng về kinh tế, người vợ không làm ra tiền nên phải chịu lệ thuộc vào người
chồng, vì thế muốn có bình đẳng với nam giới thì nữ giới cũng đi làm, có thu nhập
riêng.
Thực tế các gia đình trong điều kiện văn minh phát triển cho thấy vấn đề không hoàn
toàn ở lý do kinh tế. Hạnh phúc gia đình trước hết phải được xây dựng trên cơ sở
tình yêu.
Sự bình đẳng là do nhận thức đem lại. Nhiều phụ nữ đi làm có thu nhập cao, thậm
chí còn cao hơn của chồng nữa nhưng vẫn bị chồng coi thường, phụ bạc, ngược lại
có người hầu như chẳng làm được gì, thậm chí lại còn ốm đau bệnh tật thế mà vẫn
được chồng hết sức thương yêu, chiều chuộng.
Không thiếu anh chồng vin vào lý do “lo việc đại sự” để suốt ngày lê la ở quán rượu,
hàng bia, cà phê, nước chè… để kệ vợ bươn chải nhặt nhạnh gom góp từng đồng.
Không thiếu người mẹ để lại con thơ cho chồng hoặc người thân chăm sóc để đi làm
thuê, vào các nhà máy, xí nghiệp nơi này nơi nọ, xa quê, xa nước.
Tôi có biết vài phụ nữ vì không muốn bỏ lỡ dịp được ra nước ngoài làm luận án hay
qua một kỳ tu nghiệp mà sẵn sàng xa con nhỏ. Chế độ lao động mới cho phép người
lao động nữ được nghỉ khi sinh con, thế là đã tiến bộ nhiều so với trước đây.
Không được ở bên mẹ 3 năm đầu đời là một sự thiệt thòi rất lớn đối với một đứa trẻ,
cho dù nó được hưởng chế độ dinh dưỡng rất tốt. Sự thiệt thòi ấy không nhìn thấy
được, không tính đếm hết được. Cuộc sống của một số gia đình trở nên buồn tẻ, ảm
đạm vì cả bố lẫn mẹ đều quá giỏi giang, quá thành đạt và say mê công việc…
Nước ta hiện nay vẫn còn thiếu công ăn việc làm, nên chăng động viên một số chị
em sau khi lấy chồng thì nhường bớt công việc cho nam giới để chuyên tâm hơn với
gia đình, những người chồng vừa phải cảm ơn họ vì luôn có cơm dẻo, canh ngọt chỡ
sẵn ở nhà, vừa có thêm cơ hội để thể hiện mình là đấng trượng phu.
Đặng Hồng Nam
Thứ Năm, 21/12/2006, 08:46
Ít hiểu mình hiểu người
TP - Nếu như Viện Nghiên cứu xã hội Mỹ từng đưa 10 đặc điểm tính cách của
người Việt mình khá trúng thì, ngược lại, chúng ta ít hiểu biết về người khác.
Nói chung chúng ta ít hiểu mình và hiểu người. Ngay cả nhìn nhận những xấu
xí cũng chưa thật thà.
Ít hiểu và chưa thật thà khiến chúng ta, nếu không cẩn thận, sẽ ngày càng bị bỏ lại
phía sau những cuộc chơi lớn, bị knock out tại sân nhà. Thử điểm qua một vài tật
khác nữa.
Thiếu kiên nhẫn
Điều đầu tiên là việc đa số không có thói quen xếp hàng, không đủ kiên nhẫn để xếp
hàng. Đó có lẽ là nguyên nhân số một khiến luôn có hiện tượng tắc đường, tắc ngõ.
Cũng là nguyên nhân khiến cho sự chen lấn, xô đẩy khi đi xe bus, lúc đợi làm công
chứng.
Dường như ai ai cũng bận rộn tới độ không thể nhường cho kẻ khác, nhiều khi
không thể đợi cả đèn xanh đèn đỏ. Không phải người mình có chí tiến thủ nên cứ
phải vượt lên hàng trước một cách vô kỷ luật. Vấn đề là cái Tôi bị dồn nén và bộc
phát không đúng cách.
Đáng lẽ ra cái Tôi ấy phải được tự do thể hiện những suy nghĩ của mình- kể cả việc
suy nghĩ ấy ngô nghê đi chăng nữa - ngay từ khi học vỡ lòng. Ngược lại, chúng ta
được dạy dỗ theo kiểu phải tôn trọng số đông, trong khi trái tim và khối óc thực sự
không muốn như vậy.
“Tôi không biết”
Đây là câu mà người Việt thích nói nhất. Có vẻ ai cũng bận suy nghĩ rất nhiều thứ, tỉ
như bao giờ nước mình có tàu lên sao Kim, sao Thổ. Nhưng khi được hỏi bất cứ điều
gì, câu trả lời trước nhất hẳn phải là “Tôi không biết”.
Bắt đầu từ việc vô trách nhiệm ngay với sự nghĩ của mình, tất cả mọi thứ đều có thể
vô trách nhiệm được cả.
Hiếu học nhưng chỉ là học lỏm
Quả thật, người Việt ta có thói quen đi đâu cũng quan sát và học hỏi. Tuy nhiên cái
sự học này thật là abc. Abc ở chỗ không bao giờ bỏ công bỏ của ra học một cách bài
bản, học theo kiểu à ừ.Nghĩa là cái gì cũng biết sơ sơ, qua qua. Hỏi sâu một chút là y
như rằng tịt.
Cái sự học luật mà tôi đang theo đuổi mới thê thảm. Mỗi anh làm một bộ luật. Anh
đi Nga về cho rằng luật nước Nga là nhất. Anh đi Pháp bảo luật Pháp vĩ đại. Có hỏi
tận tình, có khi cả hai anh nói trên đều không hiểu rõ cái sự nhất ở đây là gì.
Trong khi đó, sự học cứ thế truyền nhau mãi, học lỏm của học lỏm. Cuối cùng sư tổ
của cái sự học lóm ấy nghe lại bài giảng của chính mình cũng không hiểu là mình
muốn nói gì.
Cũng tựa như dịch sách từ tiếng Nga trong khi nguyên bản là tiếng Anh. Cái chuỗi
phiên dịch Anh- Nga- Việt đến tới người đọc không hiểu đó là thứ hầm bà làng gì
nữa.
Nhầm lẫn giữa chữ nhẫn nhịn và nhẫn nhục
Nhẫn là để giữ cái hoà khí để đứng thẳng chứ không phải cái sự nhục để cúi đầu. Sự
nhẫn nhục đi đôi với cái gọi là dĩ hoà vi quý. Đấy không phải là chữ nhẫn.
Đấy là sự hèn nhát ngay cả trong tư tưởng. Điều này thật đáng sợ.
Nhầm lẫn giữa câu hỏi và câu trả lời
Tôi để ý thấy, ở nhiều hội thảo, người hỏi thường hỏi dài hơn cả câu trả lời của diễn
giả. Người hỏi dường như muốn trả lời luôn cho câu hỏi của mình vậy.
Người này làm mất rất nhiều thời gian của thính giả, không tôn trọng thính giả.
Trong khi hỏi cũng là một nghệ thuật: hỏi ngắn gọn, đúng trọng tâm cần hỏi, đưa
người được hỏi vào thế phải động não và phải trả lời sát với sự thật.
Hàn Sĩ Huy
(Thanh Xuân- Hà Nội
Thứ Bảy, 23/12/2006, 11:57
Có một thứ phí
TP - Có nhiều loại phí: Nào là học phí, viện phí, giao thông phí, thủy lợi phí, có
làng người dân phải đóng đến 22 thứ phí. Song tôi dám chắc ít ai biết cặn kẽ
một loại phí mà theo tôi là đáng lo nhất.
Trước hết nói qua về cái sự dốt ta thường nghe. Nói nôm na, dốt là kém hiểu biết,
thiếu thông tin, hiểu sai, ngộ nhận, có khi xử lý thông tin chậm hoặc tính quẩn…
Chiều hôm qua tôi thấy mình ngu thậm. Tình cờ thấy mớ cá rô đồng tươi, nhẩy đành
đạch của bà cụ ven đô, đòi 6.000 đồng mình chỉ cò kè mặc cả 5.000 đến 5.500, bước
được vài bước một bà về hưu nhanh chân nẫng ngay sau khi trả đúng giá.
Thứ “đặc sản” này, đúng ra phải 10.000 đồng. Của quí hiếm mà một nhà báo trẻ rất
tinh nhạy viết rằng: Gì chứ, người Việt mình hầu như chẳng bao giờ tự nhận mình là
dốt trừ những phút “sáng suốt, tỉnh táo đột xuất” hay “phê” – say say?
Có ba loại dốt. Loại 1: Vì i tờ, mù chữ, thất học; loại 2: Vì tự thấy mình dốt…; ; loại
3: Vì cứ tưởng mình giỏi “nhất thiên hạ”. Một nhà minh triết nói “Càng học, càng
biết nhiều càng thấy mình… dốt”.
Dốt có thể do nhiều căn nguyên khách quan cũng như chủ quan. Vì chưa có một
công trình khoa học nghiêm túc nào khảo sát “cái dốt” của con người ngoài một vài
chỉ số IQ thông minh hay xúc cảm của người mình nên tôi không dám bàn thêm, chỉ
nhớ mãi chuyện cười hiện đại “Đếm bằng chân”.
Một cậu quí tử đi học về khoe mẹ “Hôm nay con đếm bằng chân”. “Sao bằng chân,
mà không bằng đầu?” - Bà mẹ hỏi lại. “Vì đếm bằng ngón tay hết mười ngón không
đủ phải đếm bằng ngón chân!”.
Đã lười nghĩ hay nói cho có “mùi văn” người Việt mình lại hay ngẫm nghĩ lại còn
nhiều lúc nghĩ xa xôi – xa xăm như một nữ văn sỹ nước ngoài nhận xét.
“Ngày xưa và nay mai” ít khi chăm chú nghĩ thấu đáo đến cái hiện tại, cái hôm nay -
lúc này, ở đây – bây giờ. Nghĩ để làm thay vì nghĩ – mộng mơ và nghĩ – hoài niệm.
Tôi có cô cháu gái ngoan, giỏi, xinh chỉ vì nghĩ quá xa xôi nên không dám xe duyên
với anh chàng chỉ hơn tuổi chút đỉnh. “Nhỡ anh ấy chết trước, mẹ con cháu bơ vơ xứ
người thì bám víu vào đâu!”. Nghe vậy tôi suýt ngất!
Thận trọng, cân nhắc, tính toán kỹ quá cũng mất thời cơ. Ai trong đời chẳng có lần
dốt, nhưng dốt lâu, dốt đặc, cái gì cũng biết lơ tơ mơ hay cứ tưởng mình là giỏi, là
nhất thiên hạ, chẳng cần học, cần hỏi, cần tư vấn, lại giấu dốt thì dốt phí phải trả giá
đắt khôn lường!
Sao La
Chủ Nhật, 24/12/2006, 11:34
Ăn nhanh, đi chậm...
TPCN - Đây là mở đầu của câu “ca dao hiện đại” được nhiều người nhắc tới khi
nói chuyện vui, không chỉ nói đến hiện tượng xấu, mà còn lột tả tư duy, cách
sống ngược đời của một số người Việt.
1. Ăn thì cần chậm! “Ăn chậm nhai kỹ, no lâu”, thì những người Việt này lại ăn
nhanh. Bởi lẽ, mùa hè nóng nực, ăn mà còn toát cả mồ hôi, lại thêm cơm nóng, canh
nóng, nên ăn cũng ngại.
Hơn nữa thức ăn nghèo nên ăn quấy quá cho xong bữa. Còn một lý do nữa khi đi làm
chung với nhau, “lính tráng có suất”, không ăn nhanh sợ mất phần.
2. Đi thì cần nhanh! Vì đi là biểu hiện của hoạt động và mục đích, cần tới chỗ này,
cần đến chỗ kia. Nhưng như ở phần trên đã nói, tư chất “lãn công” làm lãi của một
số người rất phổ biến, vì thế muốn đi chậm để dưỡng sức.
Thêm nữa người có tư duy thế nào bước đi thế ấy. Người nghĩ xa, nhìn xa, bước đi
tự nhiên khoan thai, sải dài. Người nghĩ ngắn, nhìn gần, loay hoay tủn mủn, thì bước
chân không thể nào quảng khoát được.
Đi cũng là nhịp điệu thể hiện trình độ về tốc độ. Người có tư duy thuộc nền công
nghiệp máy móc đi nhanh, hoạt động nhanh. Trái lại, xã hội ta mới đang ở mức xấp
xỉ 80% là nông dân sống kiểu “nông nhàn”, vì vậy tốc độ đi còn rất chậm, tốc độ
sống còn rất rề rà.
Những người này có một câu nói đùa bằng lòng với tốc độ sống của mình rằng: đi
chậm cũng nhanh hơn xe bò, đi nhanh cũng chẳng thể kịp ô tô, vậy thì đường ta, ta
cứ yên chí mà đi.
Nói đến tốc độ, chúng ta đừng nên hiểu lầm, một số kẻ phóng xe bạt mạng ngoài
đường là đã vượt quá tốc độ của xã hội công nghiệp. Đó chỉ là những kẻ mắc mặc
cảm tự ti, liều lĩnh, muốn ta đây, phóng xe để trộ người…
Đa số họ, đi nhanh nhưng chẳng biết đi đâu, nên phóng bạt mạng đến nơi nào đó,
nhìn ngó một tẹo, không biết làm gì lại phóng đi. Người Trung Hoa cho rằng: “Kẻ
không ngồi ấm chỗ chỉ là hạng lăng xăng...” Phần lớn số này, tài cán chẳng có gì
nhiều hơn ngoài đi xe, nên cứ ra oai hết phóng đi rồi lại phóng về.
3. Làm mất vệ sinh nơi công cộng thì khỏi bàn nó xấu thế nào, đó là cách tùy tiện,
thấy khát thì uống, thấy buồn thì tè chỗ nào cũng được. Có khi xe đỗ ở ngã tư, đèn
xanh, đèn đỏ, giữa ban ngày ban mặt, một anh dừng xe máy phía sau, chạy lên chiếc
xe tải đỗ phía trước, tè vào lốp xe.
Người làm việc ấy, do trình độ nhận thức thấp đã đành, cách đây ít năm, tôi và mấy
người học cùng trường đi dạo ra hồ Thuyền Quang, mấy chàng đã tốt nghiệp đại học
hẳn hoi, cơ quan gần đó, nghĩa là không thể bí chỗ đi tiểu, vậy mà họ hồn nhiên
đứng dàn hàng ngang tè ngay xuống hồ, vô tư như những chú bé con, còn chưa được
mẹ dặn dò chỉ bảo.
Ở nơi công cộng, chúng ta ghi “cấm phóng uế bừa bãi”, nhưng lại không có chỗ để
người ta phóng uế. Bên Tây chẳng hạn, người ta thường kiểm tra chế độ vệ sinh “đầu
ra” của một nhà hàng, nếu chủ quán định mở bao nhiêu bàn ăn, thì nhà vệ sinh (toa-
lét) phải đáp ứng ngang bằng.
Đằng này, ở ta có khi các quán bia đông cả vài trăm người uống, vậy mà chỗ đi vệ
sinh có khi chỉ dành riêng cho một vài người. Có nhiều quán bia, mời người ta ăn
thùng uống vại, nhưng cái khoản đầu ra, thì mặc kệ ông muốn giải quyết kiểu nào
cũng được…
Nguyễn Hoàng Đức
Thứ Hai, 25/12/2006, 07:05
Thêm những chuyện thường gặp ở nông thôn
TP - Nông thôn mới ở nước ta ngày càng có những đổi thay khởi sắc. Nhưng
cũng còn rơi rớt nhiều thói hư tật xấu.
Thích khoe khoang
Có câu: “Thùng rỗng kêu to”. Nhiều người nghèo nhưng hay khoe khoang, phải chạy
vạy từng bữa ăn, vay mượn quanh năm nhưng khi ra ngoài lại hay bốc đồng, khoe
chẳng thiếu gì.
Thích tụ tập - đàn đúm
Dường như đã trở thành một thói xấu phổ biến ở các vùng quê. Ngày mùa thì không
sao nhưng cứ rảnh rỗi là đàn ông tụ tập rượu chè, nhậu nhẹt linh đình, dẫn đến tình
trạng say rượu, dựa vào rượu để khích bác, gây gổ…
Thù dai
Ở quê tôi bình thường thì vui vẻ là thế, nhưng chẳng may va chạm, xích mích là y
như rằng phải tìm cách trả thù bằng được. Còn nhớ ngày đó, bạn tôi ở xa đến chơi,
nó nghịch thế nào mà ném chết con gà hàng xóm.
Bố mẹ tôi phải xin lỗi rồi đền tiền, tưởng thế là xong, không ngờ từ đó nhà hàng xóm
tìm mọi cách trả thù, hễ thấy gà hay các con vật nhà tôi bất luận ngoài đường hay
qua bên đó thì kiểu gì cũng bị ném túi bụi không tha.
Xa yêu… gần ghét
Anh em, bạn bè ở xa, lâu ngày gặp nhau niềm nở, tay bắt mặt mừng. Vậy mà chỉ cần
ở gần nhau một thời gian thì mọi thứ trở nên khác hẳn. Cạnh nhà tôi có nhà anh B,
hai anh em xa nhau nên rất quý, lâu ngày ông anh ở xa về chơi thì em niềm nở, một
bác, hai bác rất quý hóa. Thời gian sau, ông anh chuyển về quê ở gần thì chẳng thấy
anh em đâu nữa.
Chuyện bé xé to
Những người hiểu biết thường làm cho mọi chuyện va chạm dịu xuống và những
chuyện nhỏ nhặt có thể bỏ qua vì họ không muốn tranh cãi làm um lên để bị mọi
người chê cười. Song ở nông thôn nhiều người thường thích làm to chuyện.
Bố anh bạn tôi làm an ninh xóm, một hôm thấy mấy đứa trẻ con đánh nhau, bố tôi lại
can rồi dọa cho nó sợ, không ngờ mẹ đứa trẻ đi qua chẳng hiểu đầu đuôi như thế nào,
làm um lên, la trời la đất để mọi người kéo nhau đến rồi bắt ông đưa đứa nhỏ đi bệnh
viện trong khi nó chẳng bị làm sao cả.
Trâu buộc ghét trâu ăn
Suy nghĩ: “Nhà họ có người làm cán bộ mà anh em nhà mình chẳng lẽ lại không có
ai” đang phổ biến ở một số vùng quê. Những ngày chuẩn bị cho đại hội bỏ phiếu bầu
cán sự mới… thì ở quê tôi cứ nhộn nhịp bàn tán, nhiều người còn tổ chức họp anh
em và bạn bè để bỏ phiếu cho một người nào đó trong họ.
Mặc dù không có năng lực nhưng dường như người nào đông anh em thì người đó
trúng cử. Người ta không cần biết có làm được hay không nhưng phải phấn đấu có
được một người làm cán bộ để không phải thua thiên hạ.
Giấu chuyện nhà, phô chuyện người
Chuyện nhà mình thì tìm cách giấu kín, nhưng lại có thể ngồi cả ngày để nói chuyện
nhà hàng xóm. Nhiều người thường những ngày rảnh rỗi lại tụ tập và bàn luận những
chuyện đâu đâu, từ đầu làng đến cuối xóm hễ nhà ai có chuyện gì là y như người ta
bàn tán xì xào, xấu-tốt lẫn lộn, khen chán, rồi lại chê bai…
Trịnh Văn Khiêm
Thứ Ba, 26/12/2006, 17:03
Ai sai để một người sai
TP - “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Bản tính thiện của con người không phải là
duy nhất và thường trực mà còn có cả tính ác, gian manh, hung bạo và muôn
vàn thói hư tật xấu.
Một nhà văn Pháp nói: “Trong con người có một con thú, thỉnh thoảng nó lại chồm
lên. Vì vậy phải luôn cảnh giác với nó”.
Người và con, thiện và ác trong con người nhìn bề ngoài khó mà biết. Nó chỉ bộc lộ
trong những trường hợp cụ thể qua cách hành xử. Bởi thiện và ác, xấu và tốt là vô
hình, là hai mặt đối lập cùng song song tồn tại. Khi cái thiện nổi trội thì sẽ át đi cái
ác. Ngược lại khi cái ác nổi lên thì cái thiện sẽ bị suy giảm.
Nhớ lại một câu chuyện cách đây đã mấy chục năm do mẹ vợ tôi, quê ở Nghệ An kể.
Tuy chẳng được học hành gì nhưng bà thường răn dạy con cháu bằng những câu
chuyện thực tế dù con cháu bà hầu hết là những người thành đạt, có học vị tương đối
cao và đã lớn tuổi.
Bà kể: Năm đó, có một gia đình làm mấy gian nhà gỗ nên mướn một cánh thợ mộc
về làm. Trước đây làm nhà không khoán gọn như bây giờ mà chủ yếu là làm công
nhật và gia chủ nuôi cơm thợ.
Cánh thợ để ý thấy mấy hôm nay bà chủ đi chợ mua những con cá thu rất to về rán
rồi kho. Mùi cá kho tỏa ra thơm phức nhưng hôm nào dọn cơm cho thợ ăn cũng
không có món cá thu.
Cánh thợ thấy gia đình bủn xỉn hư ăn nên đã bàn nhau “trả đũa” bằng cách trở đầu
ngọn hai cây cột cái xuống dưới, gốc quay ngược lên. Dân gian thường có quan niệm
rằng: Nếu cột, nhất là cột cái bị trở đầu lộn ngược thì gia chủ sẽ bị hại về nhiều mặt.
Hai cây cột được đẽo và bào tròn nên chủ nhà chẳng biết đâu là gốc, đâu là ngọn mà
chỉ biết tin vào thợ. Đến ngày giáp Tết, tuy nhà chưa làm xong nhưng thợ xin phép
gia chủ về quê ăn Tết, đợi ra giêng sẽ quay lại làm tiếp.
Trước khi thợ ra về, bà chủ nhà đưa cá thu kho khô đã gói sẵn trong các mo cau biếu
mỗi người một gói đem về làm quà để gia đình ăn tết. Vì quê của cánh thợ ở miền
ngược không mấy khi được ăn loại cá ngon của biển. Lúc này cả toán thợ đều lặng
đi, không ai nói một lời nào.
Ăn Tết xong, khi trở lại làm tiếp, cánh thợ tự góp tiền, lặng lẽ mua hai cây gỗ để
thay hai cây cột, trước sự ngỡ ngàng của gia chủ.
Kể xong, mẹ tôi chỉ nói một câu mộc mạc: “Các con ạ! Ai sai để một người sai!”. Cổ
nhân đã dạy: “Sinh sự thì sự sinh”, “Ở hiền thì gặp lành”, “Hại nhân nhân hại” trong
Truyện Kiều có câu: “Thiện căn bởi tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Muốn có chữ thiện và chữ tâm thì phải tu dưỡng. Bởi tu thân là biện pháp hữu hiệu
để tâm đức luôn được trong sáng.
Trong 14 điều được coi là “Lời dạy của Phật” thì điều thứ nhất là: “Kẻ thù lớn nhất
của đời người là chính mình”. Khổng Tử có câu: “Nhất nhật tam tỉnh ngô thân” (Một
ngày ba lần tự xem lại mình).
Ngày nay nhiều thói hư tật xấu vẫn tồn tại và có chiều hướng gia tăng nhưng cái
thiện cái tốt vẫn là chủ yếu, chủ đạo trong mỗi con người và trong toàn xã hội.
Cả nước đang xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng xã hội học
tập, xây dựng làng, xã văn hóa, gia đình văn hóa nên chúng ta có đủ cơ sở để loại trừ
dần những thói hư tật xấu, xây dựng và nâng cao chất lượng sống và phẩm chất tốt
đẹp của con người.
Nguyễn Xuân Tính
Khối 9, Trung Đô, Vinh, Nghệ An
Thứ Tư, 27/12/2006, 10:56
Nên chuyển thành cuộc vận động thanh niên cả nước
TP - Nên "bình chọn” những thói hư tật xấu nào gây nguy hại nhất trong thanh
thiếu niên, học sinh, sinh viên hiện nay, để tạo thành một cuộc vận động thanh
niên cả nước quyết tâm và nhanh chóng sửa chữa...
Báo Tiền phong đã rất mạnh dạn và tâm huyết khi mở ra
chuyên mục này và đã được nhiệt liệt hưởng ứng với
hàng trăm bài viết cũng đầy tâm huyết đối với sự phát
triển của đất nước, với sự nâng cao phẩm chất của con
người Việt Nam.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở những bài báo thì rồi người đọc
ít nhiều cũng sẽ lãng quên đi. Như vậy thật là uổng phí.
Thanh niên Việt Nam sống
Mặt khác, cũng không thể cùng một lúc sửa chữa hàng
mấy chục thói hư tật xấu đã được nêu ra. Do đó nghĩ rằng có ích, văn hóa. Ảnh minh
họa.
đã đến lúc cần phân thành 3 loại thói hư tật xấu: trong
tính cách, trong công việc và trong quan hệ đối xử.
Nhất là “bình chọn” những thói hư tật xấu nào là phổ biến nhất, gây nguy hại nhất
trong thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên hiện nay, để tạo thành một cuộc vận động
thanh niên cả nước quyết tâm và nhanh chóng sửa chữa, vì lợi ích của đất nước, vì
phẩm giá của con người.
Ba thói hư tật xấu trước mắt cần sửa ngay
Tham khảo một số bài trong chuyên mục này cũng như căn cứ vào tình hình hiện
nay tôi thấy ở thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên có ba thói hư tật xấu cần phải
kiên quyết và gấp rút sửa ngay. Có thể coi đây là bước đột phá của lộ trình đẩy lùi
các thói hư tật xấu. Đó là:
1. Không nói tục, gây gổ: Nhằm tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa mọi người với nhau.
2. Không vứt rác bừa bãi: Nhằm giữ gìn môi trường, là vấn đề hết sức quan trọng.
3. Không lạng lách, vượt đèn đỏ: Nhằm hạn chế tai nạn giao thông, là vấn đề hết sức
quan trọng và nóng bỏng hiện nay.
Đó là những tiêu chí rất cụ thể, có thể lấy làm căn cứ để kiểm điểm, đánh giá một
cách cụ thể, chính xác nếp sống có văn hóa của từng thanh thiếu niên, học sinh, sinh
viên, bằng cách nhận xét hành vi hàng ngày của từng người. (Kể ra cũng có một tiêu
chí khác, nhưng khó kiểm điểm, đánh giá một cách cụ thể chính xác, hoặc không phổ
biến trong mọi tầng lớp nhân dân, nên tạm thời chưa nêu ra).
Ba phẩm chất tốt đẹp cần trau dồi
Tôi rất tán thành ý kiến “Cần lấy tích cực để đẩy lùi tiêu cực” trong một bài ở
chuyên mục này. Nghĩ rằng những “tích cực” ấy không những phải có tác dụng đẩy
lùi các thói hư tật xấu mà còn phải góp phần xây dựng “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Do đó, trong tình hình nước ta hiện nay, sau khi gia nhập WTO, thanh thiếu niên,
học sinh, sinh viên nói riêng và mọi tầng lớp nhân dân nói chung nên trau dồi ba
phẩm chất, vừa có tính truyền thống dân tộc lại vừa đáp ứng được những yêu cầu
hiện đại.
Đó là: tinh thần năng động, tri thức văn minh và đạo đức nhân hậu.
1. Tinh thần năng động: Đó là yêu cầu cấp bách
Thanh niên Việt Nam có văn
của đời sống hiện đại. Nó đẩy lùi những thói xấu
hóa:
lười nghĩ, lười học, lười làm, trì trệ, ỷ lại, thụ động,
- Không nói tục, gây gổ
ngại khó, bi quan. Nó thúc đẩy sự cần mẫn, óc sáng
- Không vứt rác bừa bãi
- Không lạng lách, vượt đèn đỏ tạo, vươn lên để vừa hội nhập vừa cạnh tranh với
thế giới.
- Sống năng động, văn minh,
2. Tri thức văn minh: Năng động nhưng không
nhân hậu
hăng say mù quáng mà phải dựa trên cơ sở những
tri thức khoa học và công nghệ hiện đại. Nó đẩy lùi những thói xấu hủ lậu, lạc hậu,
lỗi thời, tự mãn, “ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung”!
Nó đẩy lùi những thói xấu sống bừa bãi, không tôn trọng pháp luật, kỷ cương. Nó
đẩy lùi ở cán bộ những thói xấu tham nhũng, tùy tiện, thiếu trách nhiệm, thiếu công
bằng, dân chủ, thiếu công khai, minh bạch.
Nó thúc đẩy sự học tập; rèn luyện không ngừng về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và
mọi lĩnh vực khác, thúc đẩy mọi hoạt động, công tác phải có kế hoạch, có hiệu quả,
giữ chữ tín trong giao dịch, đúng hẹn, đúng giờ…
3. Đạo đức nhân hậu: Đó vừa là truyền thống dân tộc vừa là yêu cầu cấp bách để
đẩy lùi những tiêu cực có thể phát sinh từ nền kinh tế thị trường hiện nay. Nó đẩy lùi
những thói xấu vô cảm, tham lam, ích kỷ hại người, gian lận, lừa đảo, hung bạo, độc
ác… phát huy tinh thần “một người vì mọi người, mọi người vì một người”.
Nếu không có tình người, không có lòng nhân hậu thì sẽ đi chệch hướng, và xã hội
chúng ta sẽ không bao giờ có thể trở thành một xã hội xã hội chủ nghĩa!
Tóm lại, trong khi chờ đợi những đúc kết tốt hơn, tôi xin đề nghị khẩu hiệu sau đây:
Thanh niên Việt Nam có văn hóa:
- Không nói tục, gây gổ
- Không vứt rác bừa bãi
- Không lạng lách, vượt đèn đỏ
- Sống năng động, văn minh, nhân hậu.
Rất mong Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam sẽ từ
chuyên mục này chuyển thành cuộc vận động thanh niên cả nước. Vận động đến
từng chi đoàn, từng lớp, từng trường, từng cơ quan, xí nghiệp, từng khu vực dân cư,
từng gia đình, với nhiều hình thức sinh động, phong phú và bền bỉ. Tôi nghĩ rằng đó
là một việc làm hết sức bổ ích và cần thiết đối với đất nước ta trong thời đại hiện
nay.
Lê Huy
Nguyên Trưởng đoàn chuyên gia giáo dục
Thứ Sáu, 29/12/2006, 09:34
Sợ sai
TP - Ai cũng nghĩ sai lầm là xấu xa, cần tránh, nhưng về một phương diện khác,
sai lầm chưa hẳn đã là xấu. Nói thế không có nghĩa là cổ vũ, khuyến khích
phạm sai lầm.
Con người ta từ khi sinh ra đến lúc chết đi là một quá trình không ngừng học tập, rèn
luyện và trau dồi tri thức. Mong ước lớn nhất của mỗi người là được đóng góp sức
mình xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Nhưng cuộc sống vốn rất phong phú và đầy những bất ngờ, có những sự việc không
diễn ra theo ý mình mà lại đi ngược lại, bởi vậy con người ta ai cũng mắc phải những
sai lầm. “Nhân vô thập toàn” – Con người không có ai toàn vẹn cả, phải có người thế
nọ, người thế kia, mới tạo nên một xã hội loài người phong phú và đa dạng.
Ai cũng nghĩ sai lầm là xấu xa, cần tránh, nhưng về một phương diện khác, sai lầm
chưa hẳn đã là xấu. Nói thế không có nghĩa là cổ vũ, khuyến khích phạm sai lầm.
Khi phạm sai lầm người ta thường phải gánh chịu những thất bại nặng nề và cay
đắng, chính điều ấy khiến bản thân họ phải xem xét lại hành động, suy nghĩ của
mình, rút ra những kinh nghiệm sâu sắc cho bản thân.
Trong phẩm chất văn hóa và giáo dục phương Tây, người ta rất coi thường những kẻ
sợ sai lầm, cho đó là những kẻ hèn nhát. Bởi lẽ môi trường giáo dục là nơi con người
hoạt động sáng tạo về tri thức và những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Con người phải
luôn hướng tới những điều mới mẻ, tốt đẹp hơn, họ coi trọng những con người dám
nghĩ, dám làm, biết tìm tòi, sáng tạo. Các nước phương Tây cũng là nơi dẫn đầu thế
giới về phát minh khoa học và công nghệ.
Trong học tập, những giờ học trên lớp trở thành giờ thảo luận sôi nổi, học sinh, sinh
viên trao đổi đóng góp ý kiến và giáo viên chỉ là người hướng dẫn. Nếu có gì sai
giáo viên sẽ sửa lại. Bởi vậy, chất lượng giáo dục của họ rất cao. Còn ở Việt Nam, tư
tưởng “sợ sai” đã ăn sâu vào mỗi người, đặc biệt là trong học sinh, sinh viên.
Trên lớp học sinh, sinh viên chỉ như một cỗ máy chỉ biết nghe và ghi chép, nhiều học
sinh rất ngại phát biểu ý kiến, vì sợ trả lời sai sẽ trở thành trò cười. Chính những suy
nghĩ ấy đang ngày làm mất đi sự năng động sáng tạo của họ, từ đó hình thành tư
tưởng chây lười, ỷ lại. Những thói hư tật xấu ấy nếu không sửa chữa thì tác hại của
nó quả là không nhỏ.
Có câu chuyện thế này: Một anh được nhận vào làm trong một công ty, cùng với anh
ta còn có hai người nữa. Ba người được phân công làm cùng một phòng. Trong công
việc anh ta không có gì nổi bật, nhưng từ khi vào làm anh ta chưa hề phạm một sai
lầm nào, còn hai người kia tuy làm việc tốt song ít nhiều đều đã phạm phải sai lầm.
Khi công ty đề cử lãnh đạo, anh ta cứ nghĩ thế nào mình cũng sẽ được chọn, kết quả
người được chọn là hai người bạn kia. Một thời gian sau, giám đốc gọi anh ta lên
phòng gặp riêng, anh ta tin rằng lần này nhất định mình sẽ được đề bạt.
Ông giám đốc tiếp rất thân mật, sau đó chỉ bộ hồ sơ trên bàn và nói: “Trong thời gian
qua anh đã làm việc rất tốt nhưng gần đây công ty đang gặp khó khăn nên phải giảm
bớt nhân sự, mong anh thông cảm”. Anh ta hoàn toàn bất ngờ.
Ông giám đốc nói tiếp: “Tôi biết trong thời gian làm việc ở công ty anh chưa phạm
một sai lầm nào, đấy chính là sai lầm lớn nhất của anh. Trên đời này chỉ có hai loại
người không mắc sai lầm, một loại chỉ biết làm theo người khác, còn một loại không
làm gì cả nên không bao giờ phạm sai lầm.
Cũng còn một loại nữa đó là phạm sai lầm nhưng luôn tìm cách giấu giếm không
dám thừa nhận, coi như mình không hề biết gì về chuyện ấy. Nhưng dù là loại nào đi
nữa thì cái mà công ty cần là những con người thực sự có tài, dám nghĩ, dám làm,
không sợ sai và biết sửa sai”.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ mở cửa hội nhập với thế giới, đặc biệt là sau khi
gia nhập WTO, nền kinh tế có những thay đổi lớn, đất nước đứng trước những cơ hội
lớn để phát triển nhưng bên cạnh ấy cũng gặp không ít khó khăn. Trong bối cảnh ấy
rất cần những con người thực sự có tài, dám nghĩ dám làm, không sợ khó, sợ khổ,
nhất là “không sợ sai”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Chúng ta không sợ sai, chỉ
sợ phạm sai lầm mà không sửa chữa”.
Trung Nam Hải
Từ Liêm – Hà Nội
Ca dao, tục ngữ về thói hư tật xấu
Đ:
- Đổ dầu vào lửa
- Đục nước béo cò
- Đập đầu ăn vạ (?)
- Đánh bùn sang ao
- Đòn xóc hai đầu
- Đòn càn hai mũi
- Đâm bị thóc, chọc bị gạo
- Đói ăn vụng túng làm càn
- Đong đầy bán vơi
- Được đằng chân lân đằng đầu
G:
- Gió chiều nào che chiều ấy
- Gần chùa gọi bụt bằng anh
- Ghen ăn tức ở
- Giận cá chém thớt
Trần Quốc Việt
Thái Nguyên
Thứ Bảy, 30/12/2006, 14:09
Trông người mà ngẫm…
TP - Một số tập quán thói quen của người Việt Nam khi ở nhà ta thấy bình
thường nhưng ở hoàn cảnh khác mới thấy là không đẹp, thậm chí rất xấu.
Đó là thói quen hay làm ồn nơi công cộng, nói to chỗ đông người, tính kỷ luật kém,
tính thiếu trật tự, lãng phí trong sinh hoạt…
Khi thầy giáo Phan Văn Thích ở khoa Vật lý trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nói
đại ý ở bên Tây cứ chỗ nào ồn ồn là y như rằng có mấy anh Việt Nam, lũ sinh viên
chúng tôi cười xòa cho rằng, đó là một tật nho nhỏ đáng yêu.
Sau này được ra nước ngoài chúng tôi mới thấy thầy không chỉ nói đùa. Lớp học
tiếng Nga chúng tôi đa số học viên lớn tuổi, từng là sĩ quan quân đội vậy mà mỗi khi
giải lao hay tan học cả hành lang ồn ào tiếng bước chân, tiếng cười đùa trêu chọc
nhau.
Cô giáo Liuba Karataeva hỏi tại sao các bạn hay làm ồn như trẻ con vậy, tôi trả lời
bừa đó là bản tính sôi nổi của người Việt Nam. Giờ nghĩ lại thấy xấu hổ.
Người Việt có tính hay chuyện, gặp nhau là có đủ thứ chuyện để nói, lại còn nói to
bất kể là ở bệnh viện, quán ăn hay đang họp. Chắc bạn đọc cũng không lạ gì cảnh
họp ở khu dân cư, người chủ trì cứ nói người đi họp cứ nói chuyện rì rầm mặc dù họ
gặp nhau cả ngày.
Khi chúng tôi tập trung để nghe hướng dẫn thủ tục hộ chiếu đi nước ngoài, tức là
một việc hoàn toàn vì lợi ích của người nghe, vậy mà rất ồn ào, người hướng dẫn
phải hô hét rất vất vả mới làm cho người ta chịu nghe mình, thật là không thể hiểu
được.
Tan ca đêm, suốt quãng đường từ nhà máy về nơi ở, từng tốp công nhân Việt Nam
nói chuyện oang oang mặc dù lúc đó là nửa đêm. Lên máy bay rồi thì bô bô nói
chuyện hay gọi nhau í ới đến nỗi các cô tiếp viên vốn kiên nhẫn cũng không muốn
giấu vẻ mặt chán chường, nén giọng: “Các bạn trẻ, đừng làm ồn”.
Về tính kỷ luật kém có thể lấy ví dụ về chấp hành giờ giấc. Những ai đã từng đi du
lịch theo đoàn dù chỉ một lần chắc cũng trải qua cảm giác bực bội khi cả xe phải chờ
một hai người chậm chân nhiều phút mà không rõ lý do, hầu như chặng nào cũng có,
đoàn càng đông càng phức tạp.
Về tính thiếu trật tự thể hiện rõ nhất ở bức tranh giao thông đường phố làm cho
người nước ngoài phát khiếp.
Người tự trọng không thể không xấu hổ khi chứng kiến cảnh chen lấn, xô đẩy giữa
những người Việt ở khu vực lên máy bay đi Hà Nội sân bay Seremechevo-
Matxcơva để rồi ai có vé cũng đi được cả, đó là một sự mệt nhọc vô nghĩa, trong khi
đó ở cửa bên cạnh người Âu cứ nhẹ nhàng đi vào với vé trên tay.
Nhân đây tôi nhớ đến bài đăng trên Tiền phong có chi tiết một người tỉnh nọ đi Hàn
Quốc mà có 20 người đi tiễn, khi Vietnam Airlines lỡ chuyến thì có 21 người vất vả.
Liệu có cần đi tiễn đông như vậy và phải ở lại tất cả chờ người nhà bay không.
Về chuyện hút thuốc lá tùy tiện tôi nhớ mãi ấn tượng mỗi khi đến Ban quản lý lao
động hay Phòng lãnh sự Đại sứ quán ta ở Matxcơva đều thấy cầu thang và hành lang
nặng mùi thuốc lá và bẩn hơn ký túc xá nơi chúng tôi ở.
Sau một thời gian ở xứ người, nhiều người Việt cũng đã ý thức được những thói
quen tập quán nào phải điều chỉnh cho phù hợp. Cùng với mức sống ngày càng được
nâng cao, nhiều thói hư tật xấu trong sinh hoạt của chúng ta đã có những thay đổi
theo hướng tích cực.
Ngày nay ở Việt Nam không hiếm nơi đông người mà vẫn sạch sẽ và không ồn ào.
Tuy nhiên, tật xấu vẫn còn khá phổ biến vẫn cần chỉ ra cụ thể để sửa chữa. Tôi muốn
nhấn mạnh điều này mong các đơn vị làm công tác xuất khẩu lao động, các bạn sắp
ra nước ngoài học tập, làm việc hay du lịch lưu tâm.
Có những hành vi là bình thường đối với chúng ta nhưng ở một số nước là xấu, có
khi bị cấm, ở một số nước còn có luật tôn giáo khắt khe. Các bạn phải cân nhắc điều
gì được làm, điều gì không nên làm và điều gì không được làm trong một xã hội văn
minh.
Các bạn nhớ nhập gia tùy tục và nên nhận diện một số thói hư tật xấu của người Việt
để góp phần xây dựng hình ảnh đẹp về con người, về đất nước Việt Nam trong mắt
bạn bè quốc tế.
Dương Công Thao
(Lạng Sơn)
Chủ Nhật, 31/12/2006, 15:53
Thiếu lòng thành trong buôn bán
TPCN - Trước tiên ta lạm bàn đến cái cố tật nói thách hay cò kè, bớt một thêm
hai trong lối giao thương của người Việt vẫn còn tồn tại không ít thì nhiều, bằng
nhiều phương cách khác nhau dưới mọi hình thức vẫn còn lưu truyền cho đến
thời đại bây giờ.
Ngay từ xưa khi các bà đội thúng đi họp chợ trong làng để bán buôn, thì hầu hết
người mua là chỗ quen biết nên để mua chuộc tình cảm, cốt để giữ tình làng nghĩa
xóm đã xảy ra hiện tượng tỷ dụ.
Như: lẽ ra con cá đúng ra có hai xu thì phải nói đến bốn xu… để bà con trả xuống
một chút thì bán, như thế người mua hoan hỉ vì thấy người bán tốt bụng, còn người
bán tự dưng thấy vui vẻ vì mình cũng “rộng lượng” với người mua mà bán được
món hàng”.
Còn cái tật nữa là các bà ngày xưa ra chợ mua gì cũng xin thêm “một tý” món hàng
khác, như mua lát cá thì xin thêm củ hành củ tỏi, mua miếng thịt thì xin thêm cục
mỡ về rán…
Vậy mới vui vẻ mà đặng lần sau đến chỗ cũ mua tiếp, bằng không thì cho là người
bán keo kiệt bủn xỉn… chứ nào có hay bởi cái lẽ ấy mà kẻ bán buôn phải tìm đủ cách
để cân thiếu đi hoặc tìm cách dối gạt khác, chỉ cốt để “vui vẻ cả làng” chứ nếu không
chỉ có nước bán ế rồi đi đến chỗ bỏ nghề à!
Cái sự thiếu lòng thành thật đã ngăn cản mọi nỗ lực của người thành tâm trên chốn
thương trường, hoặc tạo tâm lý muốn tìm mọi cách để “đối phó” với điều ước muốn
khá “thiển cận” của người mua.
Vì thế người mua đôi khi chịu thiệt mà không hề biết. Về sau này cùng với sự phát
triển giao thương, nhiều người Việt mình vẫn không sao bỏ được cái tật nói thách
hoặc là cò kè, mà giữ mãi cái thói quen ấy đến ngày nay…
Do không có tinh thần trọng nghề thương mại nên ngày xưa người ta khó lòng mà
chung sức để góp vốn mở hội buôn bán, hoặc nếu liên kết lắm thì chỉ được một thời
gian rồi giải tán, vì người chủ hội thì nghi ngờ kẻ làm công ăn bớt, do vậy phải cử
người coi sóc hay đích thân kè kè ngay bên để trông nom cẩn thận.
Rồi người có phần thì nghi ngờ cho chủ hội cậy thế mà giấu bớt tiền nong hầu hưởng
lợi… thậm chí kẻ làm công chẳng phải cũng nghi ngờ chủ hội “ăn trên ngồi chốc”
mà tha hồ hốt bạc.
Bởi thế chính cái tâm lý thiếu lòng thành thật từ mọi phía đã khiến việc chung đụng
nhau mở mang tiểu thủ công nghiệp từ ngày xưa cũng khó tồn tại lâu bền, nói gì đến
phát triển để mọi người cùng hưởng lợi và nước nhà được khá lên… Có phải vì thế
mà ở mọi lĩnh vực giao thương xưa, người Hoa kiều đã dễ dàng làm chủ và thành
công vượt bậc?
Vương Hữu Thái
Bảo Lộc, Lâm Đồng
Thứ Hai, 01/01/2007, 14:08
Dễ thích nghi, chóng hòa nhập
TP - Có thể nhận biết rõ tính cách của người dân địa phương trong nước, chẳng
hạn người Nghệ An bất khuất vô úy “bầy choa nỏ sợ thằng mô”.
Người Hà Nội thanh lịch “chẳng thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng
người Tràng An”, người Huế thâm trầm kín đáo “con sông dùng dằng con sông
không chảy, sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu (Thơ Thu Bồn).
Người Nam Bộ bộc trực, phóng khoáng, vô tư “biết sống đến mai, để củ khoai đến
mốt”, người Trung Trung Bộ “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co, Bình Định
hay lo”.
Tuy vậy, có một điều rất hiển nhiên là dù sinh ra và trưởng thành ở một vùng quê
nào đó, các tính cách cơ bản đã định hình nhưng khi vì sinh kế phải đi làm ăn xa,
người Việt sẵn sàng thích nghi ngay với tác phong, nếp sống, lối sống vùng đất mới.
Tính cách, nếp sống người Huế vốn định hình rõ nét từ giọng nói, dáng đi, cách thức
ăn uống, nề nếp gia đình, vui chơi giải trí. Cái gì cũng nhè nhẹ, dịu dàng, không ồn
ào phô trương, không vội vã quyết liệt…
Thanh niên Huế bao đời nay có một thú vui “tà tà dạo phố” bằng cách thả bộ, đi xe
đạp hoặc xe máy cũng thế. Dạo quanh một vòng rồi tìm một nơi thoáng đãng có
bóng mát ngồi uống cà phê, ngắm sông Hương chảy lững lờ và những con thuyền
nhẹ nhàng trôi, người thanh niên Huế cảm thấy cuộc đời có một nét thú vị kỳ lạ.
Nhưng cách sống này giết bao nhiêu thì giờ, tiền bạc của họ bên quán cà phê. Có
nhiều người uống cà phê, tán chuyện gẫu từ sáng đến trưa rồi lại từ chiều đến tối.
Có một triết lý sống ung dung, trung dung trong một bộ phận người Huế tồn tại song
hành với lối sống vô vị, giết thời gian một cách vô tư vì chưa có mục tiêu, mục đích
sống hay hành động.
Nhưng thanh niên Huế khi vào TPHCM làm việc cho các cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân trong nước, Cty nước ngoài thì ngay lập tức họ thích nghi với lối
sống và làm việc ở đó: Tranh thủ, hối hả, cạnh tranh quyết liệt và… đúng giờ, quý
thì giờ như vàng. Ai không thích nghi nổi thì buộc phải đi nơi khác hoặc quy hồi cố
hương.
Những người bà con ở quê vào thăm khó lòng gặp họ nếu không liên hệ trước. Mặc
dù vậy, họ vẫn giữ tình cảm gia tộc, đồng hương đậm đà cũng như những nét riêng
Huế, từ ăn mặc đến vui chơi, viết báo làm thơ, chơi cây cảnh…
Đó là thích nghi hoàn cảnh để sống nhưng không đánh mất bản sắc của mình. Tuy
nhiên, rất dễ nhận ra những người Huế đang dần đánh mất bản sắc khi không dám
giữ nguyên giọng Huế trong giao tiếp với người Sài Gòn, Hà Nội.
Người Huế rất tự hào về một phụ nữ trí thức Huế tinh thông ngoại ngữ và khôn
ngoan, bản lĩnh trong ngoại giao trước mọi cường quốc nhưng bao giờ và ở đâu cũng
giữ giọng Huế đó là bà Tôn Nữ Thị Ninh.
Người miền Bắc trước 1975 không thích lễ bái rườm rà, giao tiếp nhiều thế hệ gia
đình như ở Huế. Mâm cơm gia đình của họ tuy ngon và đầy tính khoa học, văn hóa
nhưng họ cũng “ớn” kiểu làm mâm cơm gia đình của người Huế, nhất là mâm cơm
đãi khách, mâm cỗ cúng: quá chi li, quá chi tiết, rắc rối, rườm rà, hoa hòe, hoa sói.
Nhưng những người phụ nữ Bắc- kể cả Hà Nội- vào làm dâu xứ Huế sau chừng vài
năm đã có thể thích hợp được với kiểu cách nấu ăn của phụ nữ Huế, sau chừng chục
năm thì khó nhận ra họ là người Bắc nếu không nghe giọng nói.
Từ nói năng, giao tiếp đến lễ bái đền chùa, cúng giỗ tổ tiên, tham dự lễ cưới, đám ma
v.v… họ nhanh chóng thích nghi và “Huế hóa” tự lúc nào. Và họ tự hào về điều đó.
Người Nghệ Tĩnh xưa thường bị dân kinh thành (thời nhà Hậu Lê) coi thường thì
cũng chính dân Nghệ An có nhiều người đỗ đại khoa, nhiều đại quan, danh tướng,
danh thần trên đất Bắc mà các “sĩ phu Bắc Hà” phải kính nể.
Họ hòa nhập lối sống thanh lịch của người Tràng An một cách tự nhiên như không,
nhưng vẫn giữ nền nếp phong cách, tính cách, bản chất đặc trưng xứ Nghệ-Tĩnh:
kiên cường, bộc trực, bản lĩnh, mưu lược, thủy chung, tình nghĩa và đôi khi hơi cực
đoan trong tính cách, hành động và sòng phẳng trong quan hệ.
Sự nhanh chóng thay đổi phong cách, thói quen trong lối sống, nếp sống để thích
nghi hoàn cảnh mới của người Việt ta còn thể hiện rõ ở Việt kiều.
Những người thành đạt và có tên tuổi ở các nước phát triển nhờ vào trí tuệ, tài năng
và bản lĩnh sống, khả năng thích nghi, đó là những vốn quý của dân tộc ta.
Và lòng họ luôn khắc khoải nỗi nhớ quê cha đất tổ, luôn muốn cống hiến tài năng trí
tuệ, tiền của cho công cuộc xây dựng đất nước. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hội
Việt kiều yêu nước Pháp và các nước phương Tây đã góp phần lớn vào công cuộc
kháng chiến, được Đảng, Nhà nước, nhân dân ghi nhận, tuyên dương.
Sau năm 1975, vì hoàn cảnh sống khó khăn, nhiều người vượt biên sang Mỹ,Úc,
Canada, Pháp…
Nhưng khi đã ổn định công việc, có thu nhập, họ lại tích góp tiền bạc gửi về cho
người thân, đóng góp cho họ tộc, làng xã xây đình chùa, miếu mạo, nhà thờ họ, trạm
y tế, trường học, đường sá … Đó là vốn quý của lòng yêu nước, yêu đồng bào, quê
hương, tình cảm cộng đồng và gia tộc của người Việt ta.
Phạm Xuân Phụng
Huế
Thứ Tư, 03/01/2007, 10:54
Tốt đẹp phô ra, xấu xa quét dọn
TP - Người Việt xưa có câu: “Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, giờ chúng ta nên
thực hiện: Tốt đẹp phô ra, còn xấu xa thì hãy quét dọn. Chứ còn đậy lại, úm ba
la thì ai phải ngửi?
Cái lý mà người Việt theo đuổi là “Đạo lý làm người”. Dân tộc Việt là một dân tộc
rất yêu đạo lý với phương ngôn không còn chỗ nấp nào cho những thứ ậm ừ: “Nói
phải củ cải cũng nghe”.
Người Việt cũng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”, “Ăn ngay nói thật, mọi
tật mọi lành”. Đấy, chỉ bằng câu mộc mạc như vậy đã khẳng định “sự thật” là thuốc
thần để chữa bách bệnh. Rồi “Thật thà là cha quỉ quái”, “Ở quỉ gặp quái, gian tà gặp
nhau”.
Ở đời, đức tin có trước mọi tôn giáo, vì không có đức tin làm sao có tôn giáo? Và sự
phân biệt tốt - xấu có trước mọi môn đạo đức học. Và người Việt đã đặt ra nền tảng
tốt - xấu, hơn thế còn chỉ ra cái xấu để tránh, cái tốt để theo, nghĩa là người Việt đã
dấn bước vào phạm trù đạo đức học.
Ông cha ta đã dạy dỗ con cái từ trong nhà ra đến ngoài đường rằng: Chớ “Cha nói
oan, quan nói hiếp, chồng có nghiệp nói thừa”. Vì thế, có ý kiến cho rằng: Khi ta nói
về cái xấu của dân tộc là ta say sưa cái xấu đó, nói vậy là phiến diện.
Mới đây tại Malaysia, cả nước tổ chức ngày “toa lét”, muốn giáo huấn toàn dân ý
thức đi vệ sinh và giữ vệ sinh chung, để giữ sức khỏe cộng đồng và hấp dẫn du lịch.
Khi người ta chú mục đến vấn đề toa lét, đâu có phải là say sưa với nó, mà để giữ
cho cơ thể trong sạch hơn.
Người Việt xưa có câu: “Ăn hết nhiều, ở hết bao nhiêu”, xây nhà thì chỉ chú ý xây
gian giữa, còn cái khoản nhà vệ sinh thì quấy quá cho xong; phải nói, cách nghĩ đó
đã quá lạc hậu, giờ đây người hiện đại đã nói ngược lại: “Ở hết nhiều, ăn hết bao
nhiêu”. Và một ngôi nhà sang trọng thực sự, thì khu phụ được xây dựng hết sức tốn
kém, nào đá lát sàn, lát tường, bồn tắm, vòi phun nóng lạnh…
Đây là hình ảnh mộc mạc và hiện đại để chính ta liên tưởng rằng: Càng chú mục để
dẹp cái bẩn thì con người chúng ta càng sạch sẽ và lành mạnh. Trái lại, càng lờ cái
bẩn đi, thì người ta sẽ bôi bẩn khắp nơi từ nhà ra ngõ đến tận quảng trường.
Một xã hội càng có nhiều người dám nhìn ra cái xấu, tức là càng muốn sửa mình,
tức càng có nhiều người tình nguyện làm nghề vệ sinh quét dọn, càng làm cho
khuôn mặt của xã hội tươi tắn hơn.
Người Việt xưa có câu: “Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, giờ chúng ta nên thực hiện:
Tốt đẹp phô ra, còn xấu xa thì hãy quét dọn. Chứ còn đậy lại, úm ba la thì ai phải
ngửi? Có làm được như vậy, chúng ta mới thực hiện: Con hơn cha để nhà có phúc.
Nguyễn Hoàng Đ
Thứ Năm, 04/01/2007, 15:56
Thấy người sang bắt quàng làm họ
TP - Thói cho họ mình là nhất, khoe khoang gia tộc, bao che con cháu, nhắm
vào người quyền lực của họ mình, quê mình để khai thác vô nguyên tắc đang có
đất màu mỡ để sống, thiết nghĩ cần đấu tranh, phòng và chống.
Những câu chuyện như trong bộ phim “Đất và người” (VTV) không phải chỉ có
riêng ở một vùng nào, không phải bây giờ thì không nặng nề nữa.
Quy chế dân chủ cơ sở thực hiện được tốt hay không, xét đến cùng là dựa vào phiếu
bầu, phiếu thăm dò của dân, của cán bộ đứng đầu ngành, nghĩa là đại cử tri ở địa
phương, rồi ý kiến đại diện cho dân khi đại biểu HĐND về tiếp xúc cử tri cũng thế.
Sự tín nhiệm ấy nhiều khi là ảo do “lịch sử để lại” xóm ấy, xã ấy số đảng viên cán
bộ, đại cử tri đang nghiêng về dòng họ nào. Tính khách quan của ý kiến, của lá phiếu
bị thủ tiêu vì thói tật lâu đời “ Đi làng bênh họ”. Chú ý sẽ thấy không phải chủ yếu
do tài đức mà lãnh đạo chủ trì ở địa phương nào, người thuộc dòng họ nào thì người
ở địa phương đó, dòng họ đó được làm việc, được tham gia lãnh đạo đông hơn.
Từ số đông đó lại nảy thêm một thói xấu nữa là khoe và thích họ mình có người làm
to. Sự thích trong hiện tại chưa đủ lại còn tìm cách chứng minh trong lịch sử. Chứng
minh đúng là tốt, nguy hại nhất là hiện tượng vơ vào “tham ô danh nhân”. Đã có một
danh nhân lịch sử được Bộ VHTT cấp bằng chứng nhận danh nhân và di tích lịch sử
xong. Về sau nhiều nhà nghiên cứu phát hiện sai, Bộ đã có quyết định thu hồi bằng
chứng nhận, nhưng thực tế vẫn chưa thu được.
Lại có hiện tượng khác. Bằng công nhận di tích và danh nhân lịch sử cho vị trạng
nguyên ấy ở huyện A. Lịch sử địa phương huyện A đã viết công bố hàng chục năm,
dòng trưởng tộc vẫn còn ở đó. Bỗng một nhánh họ có người lãnh đạo và có khả năng
hơn chứng minh rằng trạng nguyên ấy ở huyện B và xin được rước bằng chứng nhận
về “gốc”. Tranh chấp một thời gian, nay chính vị cựu lãnh đạo ấy nói “Danh nhân,
nhà thờ ở huyện A là đúng, chớ tranh cãi nữa”.
Lại có ba trạng nguyên khác mà bằng công nhận di tích, lịch sử địa phương đã công
bố, trường học đã mang tên danh nhân hàng chục năm yên ổn. Nay bỗng có người
thuộc nhánh họ đó ở huyện khác nói rằng ba vị trạng ấy không ở đó mà ở huyện
mình. Một số đại biểu của nhánh trưởng lên huyện trình bày rằng “Người ta nói
nhánh trưởng của chúng tôi thực ra là nhánh thứ. Ngày xưa lị sở ở miền núi nên cha
con trạng nguyên phải ở trên miền núi mới đúng”.
Một đồng chí nguyên lãnh đạo huyện và là người viết sử địa phương lâu năm nói
“không ai có thể buộc lịch sử theo ý cá nhân được, bác mời họ ra Thư viện Quốc gia
đọc sẽ thấy rõ”. “Thưa đã ra rồi, họ bảo sang viện Hán Nôm, nhưng chúng tôi không
đọc được chữ Hán”. Lại có nơi, danh nhân là nhà thờ đã được xếp hạng thì ở xã miền
xuôi, một xã miền núi rước về một ngôi đền ở xã mình. Hàng năm dân đi viếng danh
nhân không về nhà thờ tổ mà đến ngôi đền du lịch đó.
Anh em ba đời dòng trực hệ còn sống bên nhau rất cần đoàn kết giúp đỡ nhau thẳng
thắn còn ngổn ngang bao việc không lo, mà cứ ham đi khắp nước tìm phả hệ từ mấy
thế kỷ trước càng tìm càng bí, rồi công bố thiếu chính xác thủy tổ của mình có công
cứu nước. Lo lập hội đồng gia tộc toàn quốc, có đại diện ở nước ngoài, huy động
đóng góp, xây mới, trùng, xuất bản các ấn phẩm dòng tộc, chân dung danh nhân.
Hoàng Văn Hân
(Xã Nam Thành, Yên Thành, Nghệ An
Thứ Sáu, 05/01/2007, 09:48
Cha chung không ai khóc
TP - Xưa nay tư tưởng dùng “của chùa” đã thấm sâu vào trong tư tưởng người
Việt. Đồng hành với việc dùng “của chùa” là quan niệm “Cha chung không ai
khóc”.
Hàng ngày sinh viên chúng tôi sử dụng các vật dụng phục vụ cho công tác giảng dạy
như “của chùa”. Hàng tháng, nhà trường phải bỏ ra hàng chục triệu đồng để trả tiền
điện, nước trong khi đó sinh viên cứ mặc sức hoang phí.
Sử dụng các thiết bị thực hành trị giá hàng trăm triệu đồng nhưng ý thức bảo vệ thì
rất kém, ai muốn làm gì thì làm, hư hỏng đã có người khác lo. Ngay cả việc nhỏ nhặt
như nhận phấn cho giáo viên, đáng ra chỉ cần nhận 5 viên là đủ viết cả buổi học thì
sinh viên lấy gấp 2,3 lần, số phấn dư chỉ dùng để ném nhau hay viết vẽ bậy lên bàn,
lên bảng.
Chuyện tôi kể có người sẽ cho là nhỏ nhặt nhưng khi hình thành thói quen thì hậu
quả của nó sẽ khôn lường, ngày lại ngày nó gặm nhấm dần tài sản công quỹ.
Trường tôi có máy nấu nước tự động để phục vụ tại chỗ cho sinh viên. Thay vì phải
mất tiền mua nước để uống thì các sinh viên vô tư xách chai đến máy nấu nước
trường mang nước về nhà uống.
Có người trong bốn năm học đại học không tốn một đồng tiền mua nước uống. Điều
nguy hại là những việc làm đó có nhiều người biết là không nên nhưng vẫn đồng lõa,
hay thờ ơ, mặc kệ, coi như không liên quan gì đến mình, việc gì phải lên tiếng phản
đối để nhận lấy sự thù ghét.
Từ công sở đến những nơi công cộng, đâu đâu cũng xảy ra lãng phí, xâm hại của
công mà không ai cảm thấy thương tiếc. Thấy người ta ăn cắp, bòn rút, đập phá của
công cũng mặc kệ, không ngăn chặn hay tố cáo vì sợ bị trả thù và nghĩ rằng đó là của
chung.