NGÔN NGỮ THƠ TÌNH NGUYỄN BÍNH
Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi tiếng những thập niên 30 - 60 của thế kỷ trước trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có một phong cách thơ được nhiều thế hệ đương thời mến mộ, đặc biệt có nhiều bài tuy sáng tác trong phong trào Thơ Mới nhưng đậm chất trữ tình dân gian cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Di sản thơ Nguyễn Bính nói chung, thơ tình Nguyễn Bính nói riêng đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu về mặt nội dung và nghệ thuật....
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ HIỀN
N GÔN NG Ữ T H Ơ T ÌNH
N GUY Ễ N BÍNH
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 60.22.01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
VINH - 2008
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1
1.1. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi tiếng những thập niên 30 -
60 của thế kỷ trước trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có một phong cách thơ
được nhiều thế hệ đương thời mến mộ, đặc biệt có nhiều bài tuy sáng tác trong phong
trào Thơ Mới nhưng đậm chất trữ tình dân gian cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện.
Di sản thơ Nguyễn Bính nói chung, thơ tình Nguyễn Bính nói riêng đã được nhiều
người quan tâm nghiên cứu về mặt nội dung và nghệ thuật. Tuy vậy, cho đến nay
phương diện ngôn ngữ trong thơ tình của ông vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích
đáng. Ngôn ngữ có vai trò “là phương tiện thứ nhất của văn học”, nên chắc chắn việc
khảo sát kỹ lưỡng hệ thống ngôn ngữ trong thơ tình Nguyễn Bính sẽ góp phần xác
định những điểm độc đáo, đặc sắc về hình thức biểu hiện, nhất là về cấu trúc, âm
điệu, các lớp từ giàu giá trị biểu nghĩa và các biện pháp tu từ nổi bật. Đề tài luận văn
“Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi đi theo hướng tiếp cận thơ Nguyễn Bính
dựa trên quan hệ hữu cơ giữa nội dung và hình thức cũng như quan hệ giữa cá tính
của nhà thơ và thi phẩm của ông. Mặt khác, kết quả khảo sát “Ngôn ngữ thơ tình
Nguyễn Bính” có thể góp phần lý giải tại sao mảng thơ này lại có sức cuốn hút nhiều
thế hệ người Việt đến vậy.
1.2. Là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới (1932 - 1945) nói
riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung, nên khá nhiều bài thơ của Nguyễn Bính
được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông. Trong chương trình đào tạo cử nhân Ngữ
văn ở các trường đại học và cao đẳng, Nguyễn Bính luôn có vị trí một tác giả lớn. Tuy
vậy, phương diện ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính nói chung, ngôn ngữ trong những bài thơ
của Nguyễn Bính được giảng dạy ở nhà trường nói riêng chưa được đề cập, phân tích.
Đề tài luận văn “Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính” chúng tôi lựa chọn và thực hiện với
mong muốn tiếp cận mảng thơ tình của Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, qua đó góp
phần nhỏ vào việc dạy học tác giả và tác phẩm Nguyễn Bính trong nhà trường hiện
nay.
2. Lịch sử vấn đề
Nhìn chung qua các thời kỳ khác nhau, thơ Nguyễn Bính có những thăng trầm,
nhưng việc cảm thụ, đánh giá thơ Nguyễn Bính ít có những khác biệt hoặc những
mâu thuẫn gay gắt. Về căn bản, những nhận xét đánh giá của giới phê bình về
2
Nguyễn Bính khá thống nhất. Dù ở giai đoạn nào, Nguyễn Bính vẫn được xem là nhà
thơ của “Chân quê”, “Hồn quê”, “Tình quê”.
Trong thời gian dài, thơ Nguyễn Bính đã được nghiên cứu xem xét ở nhiều góc
độ từ nội dung đến nghệ thuật, từ tư tưởng đến phong cách, từ giọng điệu đến kết cấu.
Chưa có một tác giả nào trực tiếp nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính một cách
tập trung có hệ thống.
* Lịch sử nghiên cứu thơ tình Nguyễn Bính
Có thể thấy các nhận định đánh giá của các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ thơ tình
Nguyễn Bính đều gặp nhau ở điểm: ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính vừa truyền thống
vừa hiện đại nhưng nghiêng về truyền thống, gần gũi với ca dao hơn là sự cách tân, đây
cũng là chỗ đặc sắc hơn người của Nguyễn Bính
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
Qua khảo sát bộ phận thơ tình Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, đề tài có
mục đích góp phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu thơ Nguyễn Bính, một phong cách
thơ có sự nối kết hiệu quả giữa truyền thống và cách tân trong nền thơ Việt Nam
giữa thế kỉ XX.
3.2. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu
a. Nhiệm vụ
Luận văn đi vào giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Khảo sát và miêu tả về cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính.
- Khảo sát và miêu tả các lớp từ và các biện pháp tu từ nổi bật trong thơ tình
Nguyễn Bính.
b. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát 106 bài thơ tình (được sáng tác trước cách mạng
tháng tám năm 1945) có trong tập thơ: Thơ tình Nguyễn Bính (Nxb Đồng Nai, 1996)
và Tuyển tập Nguyễn Bính (Nxb văn học, Hà Nội 1986).
4. Phương pháp nghiên cứu
3
Trong khi thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau
đây:
- Phương pháp thống kê - phân loại: Được dùng khi khảo sát nguồn tư liệu theo
từng vấn đề cụ thể.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm làm sáng tỏ từng luận điểm, từ đó
khái quát thành các luận điểm cơ bản.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Được dùng khi so sánh đối chiếu với nhà
thơ cùng thời về sử dụng ngôn ngữ để làm rõ những đặc điểm riêng về phong cách
ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính.
5. Cái mới của đề tài
Chúng tôi hy vọng đây là một trong những luận văn đầu tiên cố gắng đi vào
tìm hiểu ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính một cách toàn diện về phương tiện nội dung
và hình thức góp phần vào việc giảng dạy thơ Nguyễn Bính trong nhà trường một
cách tốt hơn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số giới thuyết liên quan đến đề tài.
Chương 2: Cấu trúc và âm điệu thơ tình Nguyễn Bính.
Chương 3: Ngữ nghĩa ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính.
4
Chương 1
MỘT SỐ GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Thơ và ngôn ngữ thơ
1.1.1. Sự khác biệt giữa thơ và văn xuôi
Thơ và văn xuôi là hai kiểu tổ chức ngôn từ nghệ thuật mà sự khác nhau thuần
tuý bề ngoài trước hết là ở cơ cấu nhịp điệu.
Trong khi văn xuôi thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả bằng con đường tái
hiện một cách khách quan các hiện tượng đời sống thì thơ lại phản ánh đời sống bằng
cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự cảm thấy mình qua
những ấn tượng, ý nghĩa cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh.
Tác phẩm văn xuôi thường có cốt truyện và hành động. Gắn liền với cốt truyện
là một hệ thống nhân vật được khắc hoạ đầy đủ. Thơ thường không có cốt truyện,
mỗi bài thơ thể hiện một tâm trạng nên dung lượng của nó thường ngắn (vì một trạng
thái tâm trạng không thể kéo dài).
Trong thơ, cái tôi trữ tình giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, thường xuất hiện
dưới dạng nhân vật trữ tình. Còn ở văn xuôi thì nguyên tắc phản ánh hiện thực trong
tính khách quan đã đặt trần thuật vào vị trí là nhân tố tổ chức ra thế giới nghệ thuật
của tác phẩm, nó đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo ra hình tượng người trần thuật.
Thơ là tiếng nói bộc bạch làm việc trên trục dọc (trục lựa chọn, thay thế, tương
đồng, quy chiếu, trục của các ẩn dụ) còn văn xuôi là tiếng nói đối thoại làm việc trên
trục ngang (trục kết hợp, trục tuyến tính).
Không gian trên trang giấy in thơ có nhiều khoảng trắng hơn trang in văn xuôi.
Trong văn xuôi, ngôn từ mang tính miêu tả (tạo hình), nó ít tập trung vào chính
nó, trong khi đó thơ thì không thể tách rời ngôn từ.
Có những hình thức trung gian giữa thơ và văn xuôi: thơ văn xuôi, văn xuôi
nhịp điệu. Đôi khi thơ và văn xuôi xuyên thấm lẫn nhau (ví dụ văn xuôi trữ tình) hoặc
chứa đựng trong nhau những mảng văn bản “dị loại” (tác phẩm thơ có những mảng
văn xuôi hoặc tác phẩm văn xuôi có những đoạn thơ xen kẽ của các nhân vật hoặc
của tác giả).
1.1.2. Các đặc trưng của ngôn ngữ thơ
5
Để thấy rõ đặc trưng của ngôn ngữ thơ, chúng tôi phân biệt thơ với văn xuôi
trên ba cấp độ: ngữ âm, từ vững, ngữ pháp.
a. Về ngữ âm
Đặc điểm nổi bật về ngữ âm để phân biệt thơ với văn xuôi là đặc trưng tính
nhạc.
b. Về ngữ nghĩa
Ngữ nghĩa của ngôn ngữ thơ nhiều khi không dừng lại ở nghĩa đen, nghĩa biểu
vật mà từ nghĩa ban đầu đó còn có những ý nghĩa mới tinh tế hơn, đa dạng hơn, mới
lạ hơn. Đó là nghĩa bóng hay ý nghĩa biểu trưng của ngôn ngữ thơ ca.
c. Về ngữ pháp
Cấu trúc câu trong ngôn ngữ thơ thường không tuân theo quy tắc bắt buộc và
chặt chẽ như câu trong văn xuôi và trong ngữ pháp thông dụng. Nhà thơ có thể sử
dụng các kiểu câu khác nhau như câu đảo ngữ, câu vắt dòng, câu trùng điệp mà
không làm ảnh hưởng đến việc tiếp nhận văn bản của người đọc. Ngược lại những kết
hợp tổ chức ngôn ngữ “bất quy tắc” lại mở ra những giá trị mới, ý nghĩa mới cho
ngôn ngữ thơ ca.
1.1.3. Các lớp từ giàu mầu sắc biểu cảm trong thơ ca Việt Nam
1.1.3.1. Lớp từ láy
Từ láy là “những từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy
tắc nhất định, sao cho giá trị giữa các tiếng trong từ vừa điệp vừa đối hài hoà với
nhau về âm và về nghĩa có giá trị tương đương hoá”.
1.1.3.2. Lớp từ tình thái
Tình thái là “những từ biểu thị sắc thái tình cảm, cảm xúc của người nói”.
1.1.4. Các biện pháp tu từ thường dùng trong thơ ca
1.1.4.1. Ẩn dụ
Ẩn dụ là “phương thức tu từ trên cơ sở đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể
hiện cái này qua cái kia mà bản thân cái được nói tới thì giấu đi một cách kín đáo”.
1.1.4.2. So sánh (tỉ dụ)
So sánh là “phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa trên
cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm
thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm thuộc tính của hiện tượng kia”.
6
1.1.4.3. Đối (đối ngẫu)
Đối là “một phương thức tổ chức lời văn bằng cách điệp ngữ pháp nhằm tạo ra
hai vế, mỗi vế là một câu tương đối hoàn chỉnh được viết thành hai dòng cân xứng,
sóng đôi với nhau”.
1.1.4.4. Điệp ngữ
Điệp ngữ là “một hình thức tu từ có đặc điểm: một từ, cụm từ, câu hoặc
đoạn thơ văn được lặp lại với dụng ý nhấn mạnh hoặc gây ấn tượng cho người
đọc, người nghe”.
1.2. Nguyễn Bính - cuộc đời và thơ
1.2.1. Cuộc đời và tác phẩm
Nguyễn Bính tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính. Nhà thơ sinh vào cuối xuân
đầu hạ năm Mậu Ngọ (1918) trong một gia đình nhà nho nghèo tại xóm Trạm, thôn
Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Thuở bé Nguyễn Bính không được đi học ở trường mà mà chỉ học ở nhà với
cha là ông đồ Nguyễn Đạo Bình, sau được cậu ruột là ông Bùi Trình Khiêm nuôi dạy.
Năm 1932 Nguyễn Bính rời quê ra Hà Nội và từ đây bắt đầu nổi tiếng trong sự
nghiệp sáng tác văn học. Ông được giải khuyến khích của tự lực văn đoàn với tập thơ
Tâm hồn tôi (1940). Năm 1943 Nguyễn Bính được giải nhất văn học Nam Xuyên ở
Sài Gòn với truyện thơ Cây đàn tỳ bà.
Năm 1947 Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Nhà thơ
hăng hái tham gia mọi công tác và được giữ những trách nhiệm trọng yếu. Thời gian
này Nguyễn Bính sáng tác khá kịp thời và đều đặn, cổ động tinh thần yêu nước quyết
chiến quyết thắng giết giặc lập công.
Tháng 11-1954 Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, ông công tác ở hội nhà văn Việt
Nam. Năm 1956, ông làm chủ bút tuần báo “Trăm hoa”
Năm 1958 Nguyễn Bính về cư trú tại Nam Định, ông công tác tại ty văn hoá
thông tin Nam Định.
Mùa thu năm 1965, ông theo cơ quan văn hoá Nam Định sơ tán vào huyện Lý
Nhân.
7
Nguyễn Bính mất đột ngột vào sáng 30 tết năm Ất Tỵ (20-1-1966) lúc đến
thăm một người bạn ỏ xã Hoà Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, khi ông chưa kịp
sang tuổi 49.
Trong hơn 30 năm sáng tác với nhiều thế loại khác nhau (Thơ, truyện thơ, kịch
thơ, kịch bản chèo, lý luận sáng tác). Hoạt động văn nghệ của ông phong phú đa dạng
song thành tựu xuất sắc nhất được độc giả ưa chuộng là thơ bởi thơ là mảng sáng tác
kết tụ tài năng và tâm huyết của cuộc đời ông. Riêng về thơ có thể nói rằng ông là cây
bút sung sức nhất của phong trào Thơ Mới. Chỉ trong một thời gian ngắn (1940-1945)
Nguyễn Bính đã cho ra đời những tập thơ có giá trị: Tâm hồn tôi (1940); Lỡ bước
sang ngang (1940); Hương cố nhân (1941); Một nghìn cửa sổ (1941); người con gái
ở lầu hoa (1942); Mười hai bến nước (1942); Mây tần (1942); Bóng giai nhân (Kịch
thơ - 1942); Truyện tỳ bà (truyện thơ - 1944).
Sau cách mạng Nguyễn Bính lại cho ra mắt các tập thơ: Ông lão mài gươm
(1947); Đồng tháp mười (1955); Trả ta về (1955); Gửi người vợ miền Nam (1955);
Trông bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958); Tình nghĩa đôi ta (1960);
Đêm sao sáng (1962).
Với lối viết giầu chất trữ tình dân gian Nguyễn Bính đã tạo được một gương
mặt riêng trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Năm 2000 Nguyễn Bính đã được
truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
1.2.2. Thơ tình trong thơ Nguyễn Bính
Trong phong trào Thơ Mới (1932 - 1945), Nguyễn Bính là nhà thơ tình có
phong cách riêng. Ông tự xem mình là “Thi sĩ của thương yêu”. Đương thời, dư
luận báo chí nhận xét đọc “Hương cố nhân ta thấy thi sĩ Nguyễn Bính là người đa
cảm, mảnh hồn trong trẻo của tuổi thanh niên đã sớm theo luồng gió ái ân mà nên
câu tuyệt diệu”.
Con tằm đã luỵ ba sinh
Mà em đã luỵ của anh muôn đời.
(Chức nữ Ngưu lang)
Trong thơ tình Nguyễn Bính có một tâm hồn luôn khao khát yêu đương, nhớ
nhung, chia sẻ.
8
Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Bính không bình yên ổn định mà luôn ở trạng
thái bất an. Và chính cái bất an ấy làm cho câu thơ sao xuyến không ngừng rất thích
hợp với tâm trạng người đang yêu.
Lạ quá ! làm sao tôi cứ buồn?
Làm sao tôi cứ khổ luôn luôn?
Làm sao tôi cứ tương tư mãi
Người đã cùng tôi phụ rất tròn?
(Vâng)
Thơ tình Nguyễn Bính là tiếng lòng buồn bã, lỡ làng của một trái tim đang
thổn thức yêu đương và đến với người đọc như một cô gái quê duyên dáng kín đáo.
Thơ tình Nguyễn Bính không đắm đuối ca ngợi tình yêu hưởng lạc như Vũ
Hoàng Chương, Đinh Hùng. Nguyễn Bính có ý thức không để cho tình yêu làm tha
hoá biến chất, không để những ham muốn trong tình yêu lứa đôi cuốn con người vào
vòng truỵ lạc.
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ
Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày
Thơ tình Nguyễn Bính luôn khao khát một mái ấm gia đình đơn sơ giản dị.
Nhà gianh thì sẵn đấy
Vợ xấu có làm sao
Quốc kêu ngoài bãi sậy
Hoa súng nở đầy ao
(Thanh đạm)
Nguyễn Bính luôn nghĩ tới mối tình thuỷ chung, đến những người con gái biết
chung tình với mối tình không dứt, với cuộc sống đoàn viên.
Như truyện Tương Như và Trác Thị
Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng
Vườn xuân trắng xoá hoa cam rụng
Tôi với em Nhi kết vợ chồng
(Hoa với rượu)
9
Thơ tình Nguyễn Bính toát lên tình yêu thương mãnh liệt “Nguyễn Bính đã
đi sâu vào thế giới tâm tình của những mảnh đời ngang trái, dở dang, phân cách,
bẽ bàng. Với ngòi bút của thi nhân, Nguyễn Bính tả chân thực được nỗi u buồn,
trầm lặng, giải toả được những tiếng kêu bi thương của những tâm hồn mộc
mạc”. Chính điều đó đã làm cho hồn thơ Nguyễn Bính đi vào tâm hồn người đọc
một cách nhẹ nhàng.
10
Chương 2
CẤU TRÚC VÀ ÂM ĐIỆU THƠ TÌNH NGUYỄN BÍNH
Hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học bao gồm các phương tiện biểu
hiện nghệ thuật kết hợp hài hoà với hình tượng nghệ thuật nhằm hướng đến phạm trù
thẩm mỹ của tác phẩm, đồng thời nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của nhà văn.
Là một nhà Thơ Mới, Nguyễn Bính vừa kế thừa nhiều hình thức của thơ ca dân
tộc nhưng lại là một nhà cách tân, sáng tạo trên cấu trúc và mô hình truyền thống có
sẵn. Đi vào tìm hiểu cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính cũng chính là
tìm hiểu những cách tân về hình thức nghệ thuật trong thơ tình Nguyễn Bính.
2.1. Các thể thơ tiêu biểu trong thơ tình Nguyễn Bính
2.1.1. Kết quả thống kê phân loại về thể thơ
Bảng 1: Phân loại các thể thơ trong thơ tình Nguyễn Bính
THỂ THƠ SỐ LƯỢNG (BÀI) TỈ LỆ (%)
Thơ lục bát 50 47,16
Thơ bảy chữ 48 45,28
Thơ năm chữ 5 4,71
Thơ đường luật 3 2,83
Tổng 106/106
Qua khảo sát 106 bài thơ tình của Nguyễn Bính trước cách mạng, một điều
chúng tôi dễ nhận thấy là thơ ông không có sự xuất hiện thơ tự do, thơ văn xuôi như
các nhà Thơ Mới khác. Nhà thơ sử dụng chủ yếu và tiêu biểu nhất vẫn là thể thơ lục
bát với số lượng nhiều nhất 50 bài (47,16%), tiếp đến là thể thơ 7 chữ 48 bài
(45,28%). Ngoài ra để góp phần làm tăng sự phong phú cho thể loại thơ tình, Nguyễn
Bính còn sáng tác một số bài thơ 5 chữ và thơ Đường luật trong đó thơ Đường luật
chiếm số lượng ít nhất 3 bài (2,83%) trong tổng số 106 bài thơ tình Nguyễn Bính
2.1.1.1. Thể thơ lục bát
Thơ tình lục bát của Nguyễn Bính là những bài thơ tình hoàn chỉnh, mỗi bài là
một câu chuyện về một cuộc đời, một thân phận, có cảnh ngộ và tâm trạng riêng như
11
trong các bài Lỡ bước sang ngang, Lòng mẹ, Người hàng xóm...Bởi vậy mà dung
lượng bài thơ tình lục bát của Nguyễn Bính phần lớn là những bài thơ dài.
Qua khảo sát 50 bài thơ tình lục bát của Nguyễn Bính chúng tôi thấy có 22 bài
thơ lục bát dưới 10 dòng trong số đó có một bài ngắn nhất là 2 dòng (Hoa cỏ may) và
28 bài thơ lục bát dài trên 10 dòng trở lên.
Trong thơ Nguyễn Bính, âm hưởng của thơ ca dân gian còn vang vọng ở thể thơ
lục bát (thể loại điển hình nhất của ca dao dân ca). Nguyễn Bính đã biết cách làm
giàu cho sáng tác của mình trên mảnh đất văn hoá dân gian, từ đó khai thác và khơi
nguồn cảm hứng để tạo nên những thi phẩm mới
Nguyễn Bính hay vận dụng cách ngắt nhịp đều đặn, hài hoà như ca dao truyền
thống. Đó là nhịp 2/2/2;3/3 (câu lục) và 2/2/2/2; 4/4 (câu bát) thường thấy của ca dao.
Ngôn ngữ thơ lục bát của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian
còn bởi nó giàu hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình cách biểu
hiện thế giới tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể xung
quanh, những cảnh quan bình dị nơi thôn dã gần gũi thân quen, đó là thế giới của
giàn đỗ ván, ao rau cần, dậu mồng tơi, hoa chanh hoa bưởi, gió cả, giời cao
Một điều đáng chú ý là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc của thơ ca
dân gian đã hoà hợp vào thơ Nguyễn Bính một cách rất tự nhiên. Những đại từ phiếm
chỉ ‘‘người’’, ‘‘ai’’, ‘‘ta’’, ‘‘mình’’ hoặc những cụm từ phím chỉ ‘‘người ấy’’, ‘‘bên
ấy’’, ‘‘bên này’’rất tế nhị,
Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc sử
dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so
sánh thường xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình yêu đôi lứa, tác giả thường
dùng hình ảnh hoa -bướm, trầu -cau,bến-đò, nói về thân phận người con gái đi lấy
chồng mà không có hạnh phúc, tác giả gọi là lỡ bước sang ngang, mười hai bến
nước, nói tới thân phận tha hương nhà thơ viết thân nhạn, số long đong.
Nguyễn Bính sử dụng rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong thơ ca dân
gian kiểu: chín nhớ mười mong, bảy nổi ba chìm, ....
Về mặt cấu tứ bài thơ, khảo sát thơ tình Nguyễn Bính nói chung và thơ tình lục
bát Nguyễn Bính nói riêng trước cách mạng, ta có thể nhận thấy trong thơ ông cũng
12
có các cách cấu tứ bài thơ theo thể phú, thể tỷ và thể hứng. Đây là ba thể chính trong
kết cấu bài ca dao.
Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa có những đặc điểm gần gũi về nghệ
thuật thể hiện như trong thơ ca dân gian mà chúng tôi đã trình bày ở trên nhưng lục
bát trong thơ tình Nguyễn Bính có những sáng tạo mới mẻ về hình ảnh, nhịp điệu
trong cách thức và ý nghĩa sử dụng so với ca dao.
Thơ lục bát của Nguyễn Bính là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen
thuộc trog ca dao, với những bờ tre, gốc lúa, mảnh vườn, con đò, bến nước, nương
dâu. Nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca
dao nhưng ông đã thổi vào đó cái hồn của Thơ Mới.
Hình ảnh dòng sông, con thuyền đi vào thơ Nguyễn Bính cũng có sự khác biệt
so với ca dao. Cánh buồm hư ảo xuất hiện trong thơ ông như một sự mở rộng đến cao
độ. Một cánh buồm mở rộng cả không gian, thời gian và chất chứa tâm trạng của sự
chia xa.
Anh đi đấy, anh về đâu ?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm..
(Cánh buồm nâu)
Cũng là hình ảnh ngọn mồng tơi quen thuộc nhưng nếu trong ca dao, ngọn
mồng tơi cũng như giải yếm, cành hồng là những nhịp cầu thể hiện khát vọng gắn kết
đôi lứa lại với nhau.
Ở gần sao chẳng sang chơi
Để anh cắt ngọn mùng tơi bắc cầu
Cô kia cắt cỏ bên sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang
(Ca dao)
Trong thơ Nguyễn Bính những hình ảnh trên lại trở thành biểu tượng cho sự
ngăn cách về tâm hồn, là khoảng cách tâm lí mà con người không dễ gì vượt qua
được. Chàng trai và cô gái trong thơ lục bát Nguyễn Bính chỉ cách nhau bởi giậu
mồng tơi mà đành thu hẹp mình trong nỗi buồn, nỗi cô đơn ngập tràn.
Giá đừng có giậu mồng tơi
13
Thể nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
(Người hàng xóm)
Cuối cùng chàng trai chỉ còn biết gửi hồn vào con bướm trắng, con bướm của
mộng tưởng vẫn đi về giữa đôi bên để làm vơi bớt nỗi cô đơn của chàng trai.
Tìm hiểu thơ tình Nguyễn Bính trước năm 1945, ta thấy thơ lục bát của ông có
những dấu ấn riêng. Lục bát của Nguyễn Bính nhiều khi phá vỡ tính cân xứng hài hoà
của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa ngắt
nhịp theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh hoạt diễn tả
tình cảm tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình.
Lục bát của Nguyễn Bính mang bản sắc,diện mạo trong thơ tình Nguyễn
Bính nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung trong phong trào thơ mới (1932-
1945).Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính thể hiên tâm trạng cái tôi Thơ Mới, mang
đủ mọi cung bậc, cảm xúc buồn vui, ngậm ngùi, cay đắng vừa như kể chuyện lại vừa
như trữ tình.
2.1.1.2. Thể thơ bảy chữ
Sau sự thành công của thể lục bát, thể thơ bảy chữ cũng được Nguyễn Bính thể
hiện khá thành công trong đề tài viết về mùa xuân. Thơ bảy chữ của Nguyễn Bính có
số lượng 48 bài (45%) trong tổng số 106 bài thơ tình Nguyễn Bính.
Cùng với Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Thế Lữ đều
viết về mùa xuân và đã có nhiều bài thơ hay được khơi nguồn từ cảm hứng xuân.
Song trong mạch cảm hứng về thơ xuân ấy, thơ xuân Nguyễn Bính vẫn có một vẻ
riêng.
2.1.1.3. Thể thơ 5 chữ
Thơ 5 chữ là thể thơ truyền thống xuất hiện trong sáng tác dân gian qua thể loại
vè và đồng dao.
Số lượng bài thơ 5 chữ tuy ít hơn rất nhiều so với lục bát và thơ 7 chữ của
Nguyễn Bính. Thơ 5 chữ của Nguyễn Bính có 5/106 bài (4,7%). Những bài thơ này
tuy câu chữ có vẻ hạn hẹp nhưng không vì thế mà nội dung tình cảm lại khô khan,
nghèo nàn. Ngược lại trong khuôn khổ hình thức ấy Nguyễn Bính đã biết lựa chọn và
14
tổ chức ngôn ngữ để tạo nên cho thơ 5 chữ của mình một thế giới cảnh vật đầy ắp
màu sắc hình khối đặc biệt là thế giới tình cảm phong phú, tinh tế của lòng người.
Thơ tình 5 chữ của Nguyễn Bính là những bài thơ tình tác giả viết về tình yêu
lứa đôi, tình cảm vợ chồng, mỗi khổ gồm 4 câu, bài dài nhất là 7 khổ. Cách ngắt nhịp
và gieo vần cũng khác với thể hát giặm. Nếu thể hát giặm chỉ ngắt 1 nhịp 3/2 cố định
như khổ thơ trên thì thơ 5 chữ của Nguyễn Bính nhịp thơ được ngắt linh hoạt theo
dòng tâm trạng và cảm xúc và tâm trạng nhân vật trữ tình, nhịp xen kẽ 2/3 và 3/2
trong một khổ thơ, tác giả gieo vần chân gián cách ở cuối câu thơ.
Thể thơ 5 chữ trong thơ tình Nguyễn Bính dù rất ít nhưng đã góp phần làm giàu
thêm trong sự đa dạng, đa giọng của thể loại thơ tình Nguyễn Bính.
2.1.2. Tổ chức của các bài thơ tình Nguyễn Bính
2.1.2.1. Khái niệm tiêu đề trong văn bản thơ
Tiêu đề là tên gọi cuả một văn bản thơ, thường ở đầu văn bản, được trình bày
bằng những con chữ riêng cho phép phân biệt nó với toàn bộ phần còn lại của văn bản.
2.1.2.2. Tiêu đề các bài thơ tình của Nguyễn Bính
Bảng 2: Độ dài tiêu đề các bài thơ tình của Nguyễn Bính
ĐỘ DÀI TIÊU ĐỀ SỐ BÀI TỈ LỆ % VÍ DỤ
1 âm tiết 5 4,7% Nhớ, ghen…
2 âm tiết 43 40,5% Chờ nhau, Chân quê…
3 âm tiết 30 28,3% Người hàng xóm, Mùa xuân xanh…
4 âm tiết 20 18,8% Một trời quan tái…
5 âm tiết 1 0,9% Giấc mơ anh lái đò…
6 âm tiết 4 3,7% Người con gái ở lầu hoa…
7 âm tiết 3 2,8% Hà Nội ba mươi sáu phố phường..
Qua khảo sát độ dài tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy rằng:
Tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính có độ dài ngắn nhất là 1 âm tiết và dài nhất là
7 âm tiết. Tiêu đề được Nguyễn Bính dùng nhiều nhất là 2 âm tiết và 3 âm tiết
(68,8%), tiêu đề dùng ít nhất là 5 âm tiết (0,9%). Điều này chứng tỏ đồ dài tiêu đề
15
Nguyễn Bính rất ngắn gọn nhưng vẫn thể hiện đầy đủ nội dung chủ đề các bài thơ
tình Nguyễn Bính.
16
Bảng 3: Cấu tạo tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính
CẤU TẠO TIÊU ĐỀ SỐ BÀI TỈ LỆ % VÍ DỤ
Từ 12 11.32% Nhớ, Ghen…
Lỡ bước sang ngang, Hoa với
Cụm từ 84 79,24%
rượu...
Người con gái ở lầu hoa, Nàng đi
Câu 10 9,43%
lấy chồng...
Qua bảng cấu tạo tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy rằng cấu
tạo tiêu đề các bài thơ tình Nguyễn Bính nhiều nhất là cụm từ (79,24%) và cấu tạo
tiêu đề ít nhất là câu (9,43%).
2.1.3. Khổ thơ trong thơ tình Nguyễn Bính
Khổ thơ xét về hình thức biểu hiện gồm nhiều câu thơ, có một ý tương đối độc
lập hoặc có một khoảng cách nhất định khi viết, khi in.
2.1.3.1. Số liệu thống kê - phân loại khổ thơ trong thơ tình Nguyễn Bính
Khảo sát 106 bài thơ tình của Nguyễn Bính, chúng tôi thấy có 82 bài thơ chia
khổ, số lượng khổ thơ là 418 khổ.
Trong thơ tình Nguyễn Bính bài có số khổ nhiều nhất là 25 khổ (Hoa với
rượu), bài có số khổ ít nhất là một khổ (Hoa cỏ may). Những bài thơ nhiều khổ
thường nằm ở thể thơ 7 chữ: Hoa với rượu (25 khổ), Mười hai bến nước (24 khổ),
Viếng hồn trinh nữ (18 khổ). Phổ biến trong mỗi khổ thơ tình Nguyễn Bính là mỗi
khổ 4 câu ở cả thơ lục bát, thơ 7 chữ và thơ 5 chữ.
2.1.3.2. Khổ thơ mở đầu và khổ thơ kết thúc các bài thơ tình của Nguyễn Bính
Trong thơ tình Nguyễn Bính có 82 bài thơ chia khổ và 24 bài thơ không chia
khổ. Các bài thơ chia khổ đều có khổ mở đầu và khổ kết thúc.
Khổ thơ mở đầu và kết thúc đã góp phần làm nổi bật phong cách thơ tình
Nguyễn Bính đầy tự do, cảm xúc, không hề có sự lệ thuộc hay gò ép trong việc thể
hiện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật thơ. Khổ thơ mở đầu và kết thúc có sự
liên hệ chặt chẽ giữa nội dung và hình thức tạo nên tính chỉnh thể trong toàn bộ tác
phẩm thơ tình Nguyễn Bính.
17
2.2. Âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính
a/ Vần điệu thơ
Vần là một “Phương tiện tổ chức văn bản thơ dựa trên cơ sở sự lặp lại không
hoàn toàn các tiếng ở những vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nên tính hài hòa
và liên kết của dòng thơ và giữa các dòng thơ”.
b/ Nhịp điệu thơ
Nhịp điệu là “Một phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật
trong văn học, dựa trên sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quảng hoặc luân phiên các yếu
tố có quan hệ tương đồng trong thời gian hay quá trinh nhằm chia tách và kết hợp các
ấn tượng thẩm mỹ”.
c/ Thanh điệu trong thơ
Thanh điệu là “hiện tượng nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm tiết.
Trong tiếng việt có 6 thanh điệu, có tác dụng khu việt vỏ âm vị và được gọi là âm vị
thanh điệu… mỗi thanh điệu được xác định bằng một chùm các tiêu chí khu biệt về
âm vực, về âm điệu, về đường nét”.
2.2.1. Vần điệu trong thơ tình Nguyễn Bính
Bảng 4: Số liệu kết quả thống kê các loại vần trong thơ tình Nguyễn Bính
Phân loại vần Số lượng cặp vần Tỷ lệ %
Vần chính 416 36,26
Vần thông 139 12,11
Vần ép 112 9,76
Vần chân 259 22,58
Vần lưng 221 19,26
Qua bảng thống kê kết quả các loại vần trong 106 bài thơ tình Nguyễn Bính
chúng tôi thấy có tỷ lệ số vần như sau: Xét theo mức độ hoà âm số cặp gieo vần chính
là 416 cặp (36,26%), số cặp gieo vần thông 139 cặp (12,11%). Xét theo vị trí gieo
vần thì số cặp gieo vần chân 259 cặp (22,58%), số cặp gieo vần lưng 221 cặp
(19,26%).
18
2.2.2. Nhịp điệu trong thơ tình Nguyễn Bính
Thơ tình Nguyễn Bính đã xuất hiện những lối ngắt nhịp không còn tuân theo
những quy tắc truyền thống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, diễn tả tâm
trạng chủ quan của cái tôi cá thể, đào sâu vào thế giới nội tâm của con người. Do vậy
nhịp điệu trong thơ ông là nhịp điệu tâm hồn. Lối ngắt nhịp trong thơ tình Nguyễn
Bính rất tự do, mới mẻ, xôn xao hơi thở thời đại.
2.2.3. Thanh điệu trong thơ tình Nguyễn Bính
Góp phần làm nên tính nhạc tiềm ẩn trong thơ Nguyễn Bính không thể không
nói đến thanh điệu. Trong thơ Nguyễn Bính giữa các câu thơ nói riêng và giữa toàn
bài thơ nhà thơ đã khéo léo phối hợp các yếu tố ngữ âm đặc biệt là thanh điệu làm
cho câu thơ, bài thơ mang âm hưởng và tính nhạc độc đáo.
Tiểu kết chương 2
Nguyễn Bính vừa có kế thừa những yếu tố nghệ thuật truyền thống, nhưng
phần cách tân sáng tạo của ông vẫn là chủ yếu. Đặc biệt ông làm mới lối thơ xưa của
dân tộc bằng cách cấu tứ thiên về trình bày, diễn tả, cách thức và ý nghĩa dùng từ
ngữ, hình ảnh mới lạ, nhịp thơ đầy biến hoá linh hoạt, giọng điệu phong phú.
19
Chương 3
NGỮ NGHĨA CỦA NGÔN NGỮ THƠ TÌNH NGUYỄN BÍNH
Hệ thống các phương tiện biểu hiện nghệ thuật trong thơ tình Nguyễn Bính vô
cùng phong phú và đa dạng. trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945), ông được xem
là nhà thơ “Chân quê, tình quê, hồn quê”. Ngôn ngữ thơ ông trong sáng, giản dị, mộc
mạc giàu màu sắc dân gian. Đi vào vào tìm hiểu hình thức nghệ thuật cũng chính là
tìm hiểu nét đặc sắc về phong cách thơ tình Nguyễn Bính và những đặc điểm về ngữ
nghĩa ngôn ngữ trong thơ tình Nguyễn Bính.
3.1. Từ ngữ giàu giá trị biểu cảm trong thơ tình Nguyễn Bính
3.1.1. Từ láy âm trong thơ tình Nguyễn Bính
Trong thơ tình Nguyễn Bính, các từ láy được dùng có vai trò thể hiện đa dạng
các trạng thái, cung bậc tình cảm của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Trong 106
bài thơ tình, Nguyễn Bính đã dùng 105 từ láy (với 120 lượt dùng trong 53 bài). Trong
đó, từ láy phụ âm đầu 81/105 từ (77,1%), từ láy hoàn toàn 13/105 từ (12,4%) từ láy
vần 11/105 từ (10,5%).
3.1.2. Từ tình thái trong thơ tình Nguyễn Bính
Qua khảo sát và thống kê 106 bài thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi thấy tình
thái trong thơ tình Nguyễn Bính gồm các nhóm: Tình thái gọi đáp, tình thái bộc lộ
cảm xúc, tình thái tạo câu nghi vấn hoặc mệnh lệnh, cầu khiến. Tổng số từ tình thái
mà chúng tôi khảo sát trong 106 bài thơ tình là 343 từ và cụm từ tình thái.
Bảng 5: Từ ngữ tình thái trong thơ tình Nguyễn Bính
Kiểu tình thái Vị trí Số lượng từ ngữ tình thái
Gọi đáp Đầu câu 25 từ (7,28%)
Cuối câu 20 từ (5,83%)
Đầu câu 59 từ hoặc cụm từ (17,2%)
Bộc lộ cảm xúc Giữa câu 49 từ hoặc cụm từ (14,28%)
Cuối câu 63 từ hoặc cụm từ (18,36%)
Tạo câu nghi vấn hoặc Đầu câu 71 từ hoặc cụm từ (20,69%)
mệnh lệnh, cầu khiến Giữa câu 10 từ hoặc cụm từ (2,91%)