Nghiên cứu giá trị thặng dư trong bối cảnh hiện nay
Lý luận giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C. Mác. Nhưng, để nhận thức đúng bản chất khoa học của lý luận này cần đặt nó trong điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc (trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Kiểm soát viên Nghiên cứu giá trị thặng dư trong bối cảnh hiện nay
Lý luận giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C. Mác.
Nhưng, để nhận thức đúng bản chất khoa học của lý luận này cần đặt
nó trong điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc (trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Sinh thời, chính Ph. Ăngghen đã khẳng định:
nhờ hai phát hiện ấy (chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận giá trị thặng
dư), CNXH đã trở thành một khoa học và giờ đây vấn đề trước hết là
phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi chi tiết và mọi mối quan hệ tương
hỗ của nó.
Ăngghen đã đề cập đến mối quan hệ giữa cái bất biến và cái khả biến
trong việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư. Cái bất biến chính là tính
Tham gia ngày: Mar 2009
khoa học bền vững của lý luận giá trị thặng dư, nhưng tính khoa học đó
Đến từ: Sever is Loading....
cần phải được vận dụng sáng tạo và phải đặt trong những điều kiện
Bài gởi: 1,579
lịch sử nhất định của thực tiễn sinh động.
N2CD: 5,542
Thanks: 134
Thanked 609 Times in 327
Thật vậy, hoàn cảnh lịch sử đã đổi mới, cần phải có nhận thức mới; có
Posts
như vậy, chúng ta mới có thể tìm thấy hạt nhân hợp lý của lý luận giá
trị thặng dư trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay ở nước ta. Sinh thời,
chính V.I. Lênin đã căn dặn rằng: Chúng ta không hề coi lý luận của
Mác như là cái gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng
ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những
người XHCN cần phát triển hơn nữa mọi mặt, nếu họ không muốn trở
thành lạc hậu đối với cuộc sống. Rõ ràng, những chỉ dẫn đó của những
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin đã cho chúng ta thấy, những thế
hệ sau Mác phải nghiên cứu, xem xét, bổ sung, hoàn chỉnh chủ nghĩa
Mác nói chung, lý luận giá trị thặng dư nói riêng cho phù hợp với những
điều kiện, những mối quan hệ hiện thực cụ thể, chứ không phải là để
phê phán, phủ nhận nó.
Khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ,
CNXH lâm vào thoái trào, các thế lực thù địch đã hí hửng và ráo riết
tìm mọi cách để tấn công vào chủ nghĩa Mác, đặc biệt là lý luận giá trị
thặng dư. Bởi vì, chúng nhận thức rất rõ rằng, lý luận giá trị thặng dư là
hòn đá tảng của toàn bộ học thuyết kính tế của Mác, nếu bác bỏ được
lý luận giá trị thặng dư sẽ đánh đổ được toàn bộ học thuyết kinh tế của
Mác, từ đó tước bỏ được vũ khí lý luận cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, thực hiện mưu đồ dập tắt phong trào cách
mạng trên hành tinh chúng ta. Những người bài bác chủ nghĩa Mác
Lênin đã lập luận rằng: xây dựng CNXH mà lại thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, thực hiện chính
sách mở cửa, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển tức là Việt Nam
thừa nhận lý luận giá trị thặng dư và toàn bộ chủ nghĩa Mác Lênin đã
bị phá sản. Những người có “thiện chí” hơn thì tỏ ra “khách quan” và
cho rằng: lý luận giá trị thặng dư của Mác ra đời từ thế kỷ 19, vào lúc
CNTB còn đang là CNTB “cổ điển”, còn nhiều tính chất hoang dã,
thiếu tính nhân bản, là sản phẩm của văn minh cơ khí; nay bước sang
thời kỳ mới thời kỳ hậu công nghiệp lý luận giá trị thặng dư của Mác
đã hết sứ mạng lịch sử và không còn phù hợp nữa.
Sự thật có phải vậy không? Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nhưng, phải khẳng định
rằng, điều đó không có nghĩa là lý luận giá trị thặng dư không còn giá
trị, mà sự thật đó là sự vận dụng sáng tạo lý luận giá .trị thặng dư nói
riêng, chủ nghĩa Mác Lênin nói chung vào sự nghiệp phát triển kinh tế
ở nước ta. Thật vậy, Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ quá độ lên
CNXH, nên tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế khác nhau. Hơn nữa, kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay,
đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân không hoàn toàn theo đúng nghĩa
của nó nữa. Nhiều học giả cho rằng: Về mặt chính trị, đại diện cho kinh
tế tư bản tư nhân là giai cấp tư sản. Kinh tế tư bản tư nhân và giai cấp
tư sản là một thực thể gắn liền với CNTB và chỉ tồn tại trong điều kiện
có sự tồn tại của quan hệ sản xuất TBCN. Quá trình đổi mới ở nước ta,
sự xuất hiện và phát triển các loại hình doanh nghiệp của tư nhân
không đồng nghĩa với sự xuất hiện trở lại của quan hệ sản xuất TBCN
và giai cấp tư sản; Về kinh tế, các loại hình doanh nghiệp tư nhân hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp ở nước ta, kể cả doanh nghiệp quy mô
lớn, là một bộ phận quan trọng của quan hệ sản xuất định hướng
XHCN, được hình thành và phát triển trong điều kiện có sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà nước XHCN, phục vụ
cho sự nghiệp đổi mới, được Nhà nước khuyến khích và bảo vệ, không
hoàn toàn do quy luật giá trị thặng dư chi phối. Do đó, ở Việt Nam hiện
nay không có kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân TBCN về
tư liệu sản xuất chủ yếu và bóc lột giá trị thặng dư, do quy luật giá trị
thặng dư chi phối.
Như vậy, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay không hề phủ
nhận lý luận giá trị thặng dư, mà ngược lai, lý luận giá trị thặng dư của
Mác vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên, một số luận điểm riêng biệt của
nó phải được bổ sung, nhận thức một cách đầy đủ hơn trong bối cảnh
mới.
H
ey, Khách ơi, cùng mình chia sẻ nhiều bài viết hay trên
NgoiNhaChung.Net nha. Chữ kí của mình nè:
NgoiNhaChung.Net: Hình ảnh đã thu nhỏ.
Click để xem hình lớn.
[ Hãy đăng kí thành viên để xem liên
kết này. ]
Sống trên đời này phải biết quý 4 chữ:
1. Chữ "Phải" để luôn sống và làm theo lẽ phải.
2. Chữ "Thật" để luôn sống thật, không gian dối.
3. Chữ "Nhẫn" để biết phải luôn tha thứ cho mọi người.
4. Chữ "Tâm" để biết yêu thương những người xung quanh.
Nói tóm lại làm người sống trên đời này phải "Phải Thật Nhẫn
Tâm" thì mới đáng sống!!!
Thành viên gửi lời cảm ơn tới bạn nguyenvanduy_bn (09172009)
_[K]iD_ vì chia sẻ bài viết hay:
_[K]iD_
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới _[K]iD_
Find More Posts by _[K]iD_
06252009,
#2
03:10 PM
_[K]iD_ 2. Lý luận giá trị thặng dư và nghiên cứu kinh tế tư
nhân ở Việt Nam
Kiểm soát viên
Bối cảnh quốc tế và thực tiễn xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ở
Việt Nam cho thấy: lý luận giá trị thặng dư của Mác cần
được nhận thức một cách sâu sắc hơn và hoàn thiện hơn
khi điều kiện lịch sử ngày nay đã có nhiều biến đổi.
Trước mắt, có thể thấy những luận điểm sau đây cần
được hoàn thiện về mặt nhận thức:
Tham gia ngày:
Thứ nhất, lao động tạo ra giá trị trong khu vực kinh tế tư
Mar 2009
nhân.
Đến từ: Sever is
Loading....
Bài gởi: 1,579 Để xây dựng nên lý luận giá trị thặng dư và toàn bộ học
N2CD: 5,542
thuyết của mình, trước hết Mác đã giải quyết vấn đề lý
Thanks: 134
luận giá trị lao động một cách khoa học. Vì vậy, nếu
Thanked 609
Times in 327 Posts không đứng trên quan điểm về giá trị lao động của Mác
thì không thể nắm bắt được hạt nhân hợp lý của lý luận
giá trị thặng dư trong hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi hiện
nay.
Tuy nhiên, với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện
đại, cần đặt ra vấn đề: lao động tạo ra giá trị gồm những
loại lao động nào. Trong một thời gian dài trước đây,
những người theo chủ nghĩa Mác vẫn cho rằng, chỉ có
lao động trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất vật chất mới
tạo ra giá trị, còn lao động ở khu vực lưu thông (trừ giao
thông vận tải) không sản xuất ra giá trị và giá trị thặng
dư; do đó lợi nhuận mà các nhà tư bản ở khu vực này
nhận được là do nhà tư bản ở khu vực sản xuất “nhường”
cho. Thật ra, cách hiểu này cần được bổ sung khi thực
tiễn đã có sự thay đổi, nếu không việc nghiên cứu giá trị
thặng dư của Mác chắc chắn sẽ rơi vào cực đoan và
phiến diện.
Ngày nay, với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thế
giới đang bước vào nền kinh tế hậu công nghiệp, khu
vực dịch vụ phát triển mạnh và tỷ trọng của nó trong
GDP ở một số nước phát triển đã lớn hơn cả hai khu vực
công nghiệp và nông nghiệp cộng lại. Trong số đó có rất
nhiều hoạt động dịch vụ nảy sinh một cách tất yếu khách
quan từ nền kinh tế hiện đại nền kinh tế mà ở đó tri
thức và thông tin trở thành một lực lượng vật chất, tham
gia vào lực lượng sản xuất hiện đại. Trong điều kiện đó,
không phải chỉ lao động ở khu vực sản xuất ra tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng, mà cả lao động ở khu vực
sản xuất ra các dịch vụ, lao động quản lý cũng tạo ra giá
trị mới, trong đó cũng có thời gian lao động cần thiết và
thời gian lao động thặng dư. Lao động tạo ra giá trị mới
trong các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam rất phong
phú và đa dạng. Không phải chỉ có lao động trong lĩnh
vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị, mà cả lao động
sản xuất trong lĩnh vực phi vật chất cũng tạo ra giá trị
mới. Không chỉ có lao động của công nhân trực tiếp sản
xuất ra sản phẩm mới tạo ra giá trị, mà cả lao động
nghiên cứu khoa học kỹ thuật, lao động quản lý doanh
nghiệp cũng tạo ra giá trị mới.
Trước đây, do quá đề cao tính giai cấp, nên chúng ta đã
phê phán phiến diện sự “ăn bám” của nhà tư bản, và cho
rằng đó là loại người không lao động, nếu có lao động thì
lao động của họ chẳng qua cũng chỉ là thứ “lao động bóc
lột”, không tạo ra giá trị. Trong khi đó chúng ta coi lao
động của giám đốc doanh nghiệp quốc doanh là lao
động tạo ra giá trị. Điều này là một sự tự mâu thuẫn.
Trên thực tế, hầu hết các doanh nhân ở nước ta hiện nay
đều vừa là chủ của doanh nghiệp tư nhân, vừa kiêm luôn
công việc quản lý hoặc nghiên cứu. Do đó, lao động của
họ cũng tạo ra giá trị mới cho xã hội. Như vậy, giá trị mới
tạo ra có một phần là do sức lao động của người công
nhân làm thuê, còn một phần là do sức lao động của chủ
doanh nghiệp.
Lao động quản lý doanh nghiệp của chủ doanh nghiệp
cũng giống như lao động của công nhân làm thuê, nó
tạo ra giá trị và gia nhập vào sản phẩm. Điều đáng chú ý
là: lao động quản lý là loại lao động phức tạp. Ngay từ
thời xa xưa, khi nền kinh tế còn đang ở trình độ lạc hậu,
ông cha ta đã có câu “một người lo bằng kho người làm”.
Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển với nhiều mối quan
hệ đan xen lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt, lao động quản
lý càng phức tạp hơn gấp nhiều lần. Vì vậy, nó tạo ra
một lượng khá lớn giá trị mới cho từng doanh nghiệp nói
riêng và cho xã hội nói chung.
Hơn nữa, phần lớn những chủ doanh nghiệp ở Việt Nam
xuất thân từ những doanh nghiệp và cơ quan nhà nước,
là cán bộ quân đội và trí thức, được sinh ra và trưởng
thành trong chế độ mới. Họ đi theo Đảng, trực tiếp hoặc
gián tiếp mang hết trí tuệ và sức lực của mình để phát
triển doanh nghiệp, phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp
đổi mới của Đảng. Do đó, các chủ doanh nghiệp tư nhân
ở nước ta hiện nay không phải là những nhà tư bản như
cách hiểu truyền thống, chỉ biết “ngồi mát ăn bát vàng”
bằng cách bóc lột giá trị thặng dư của người công nhân.
Trái lại, họ thật sự cống hiến sức lực, tiền bạc của mình
để phát triển doanh nghiệp, để làm giàu cho đất nước;
cống hiến của họ đáng được trân trọng. Vì vậy, việc
khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta là một
chủ trương đúng đắn, phát huy được “sức người, sức
của” của các tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là
tầng lớp các doanh nhân, có tri thức, có tâm huyết.
Thứ hai, vấn đề bóc lột giá trị thặng dư.
Như trên đã trình bày, nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư
cần đặt trong bối cảnh lịch sử nhất định, không nên máy
móc quy kết tất cả những ai tham gia vào thụ hưởng
phần giá trị tạo ra ngoài giá trị sức lao động của công
nhân làm thuê đều là kẻ “bóc lột”. Thực tế, trong nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề thụ hưởng giá
trị mới tạo ra không hoàn toàn giống như cách hiểu
truyền thống nữa.
Thật vậy, lao động tham gia vào việc tạo ra giá trị trong
các doanh nghiệp tư nhân bao gồm cả lao động trực tiếp
của công nhân và lao động quản lý, nghiên cứu của
người chủ doanh nghiệp. Nếu sử dụng công thức
(c+v+m) ta thấy, người công nhân đóng góp sức lao
động (một phần của v) mà không đóng góp vốn (c) nên
chỉ được nhận tiền lương. Người chủ doanh nghiệp tư
nhân có đóng góp sức lao động (một phần của v) và vốn
(c) nên được nhận m. Như vậy, lợi nhuận mà chủ doanh
nghiệp thu được không phải tất cả đều có nguồn gốc từ
giá trị thặng dư của công nhân làm thuê tạo ra, mà trong
số đó có hai phần: l) một phần liên quan đến lao động
quản lý, phần này có cơ sở từ lao động quản lý tạo ra giá
trị của người chủ doanh nghiệp và gia nhập vào giá trị
sản phẩm; 2) một phần liên quan đến vai trò chủ sở hữu
tư liệu sản xuất, phần này có cơ sở từ lao động không
được trả công của công nhân làm thuê tạo ra. Rõ ràng,
phần thu nhập thứ nhất là hoàn toàn chính đáng, bởi vì
nó là giá trị do chính sức lao động của người chủ doanh
nghiệp tạo ra. Vấn đề đặt ra là: liệu phần thu nhập thứ
hai có hoàn toàn chính đáng không?
Để trả lời vấn đề này, trước hết cần khẳng định rằng,
việc thụ hưởng giá trị thặng dư là một phạm trù kinh tế
xã hội, tính chất của chúng không hoàn toàn như nhau
dưới các chế độ khác nhau, trong những điều kiện khác
nhau. Trong mối quan hệ này, nó thể hiện quan hệ bóc
lột giá trị thặng dư của người này đối với người khác;
trong mối quan hệ khác, nó không phải là bóc lột. Điều
đó là do quan hệ sản xuất thống trị và thượng tầng kiến
trúc của chế độ nơi mà nó sinh tồn chi phối. Nếu giá trị
thặng dư được sản xuất ra trong điều kiện của quan hệ
sản xuất TBCN, tức là nó được chế độ tư bản “nuôi
dưỡng”, bảo vệ, chi phối, thì kinh tế tư nhân hoàn toàn
do quy luật giá trị thặng dư chi phối. Trong trường hợp
này, kinh tế tư nhân mang tính bóc lột và phần thu nhập
dựa trên sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của
chủ doanh nghiệp là sự chiếm đoạt bất chính thành quả
lao động của người khác.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta lại khác.
Tất cả đều được hình thành và phát triển trong điều kiện
quan hệ sản xuất thống trị không phải là quan hệ sản
xuất TBCN, mà là quan hệ sản xuất định hướng XHCN.
Là sản phẩm của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế tư nhân không
hoàn toàn do quy luật giá trị thặng dư chi phối, nên
không thể mang tính chất TBCN như dưới xã hội tư bản.
Nếu xét từ khía cạnh xã hội, sự bóc lột là một việc làm
phi đạo đức, bị xã hội lên án. Trong Đại từ điển tiếng Việt
xuất bản năm 1998 do GS Nguyễn Như Ý chủ biên cho
rằng: “bóc lột được xem là chiếm đoạt thành quả lao
động của người khác bằng cách dựa vào quyền tư hữu
về tư liệu sản xuất, cũng như địa vị, quyền thế chính trị”.
Như vậy, hành vi bóc lột là hành vi chiếm đoạt thành quả
lao động của người khác dựa trên một quyền lực nào đó
trái với những quy luật khách quan của xã hội đương đại
hoặc trái với những quy định pháp lý, và đáng bị lên án.
Nhưng, ở đây lại phải xem xét mức độ bóc lột. Theo
nhiều chuyên gia kinh tế, nếu xét chung toàn bộ nền
kinh tế thì ở nước ta không có sự chiếm đoạt quá mức
của chủ doanh nghiệp tư nhân đối với công nhân làm
thuê. Trong nhiều trường hợp, người lao động chấp nhận
bị bóc lột ở mức nhất định, nhưng có việc làm và thu
nhập tương đương mặt bằng chung của xã hội.
Hơn nữa, nền kinh tế của nước ta hiện nay mới ở trong
thời kỳ quá độ, nên còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu
khác nhau. Do đó, chủ thể phân phối rất đa dạng, có
nhiều nguyên tắc phân phối khác nhau, chứ không phải
chỉ có một nguyên tắc phân phối theo lao động. Một
điểm nữa là: trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước
ta, việc phân bổ các nguồn lực phải tuân theo cơ chế thị
trường, nên việc phân phối thu nhập cũng phải chịu sự
điều tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, trong thời kỳ quá
độ lên CNXH thời kỳ mà ở đó những người sản xuất
tiểu nông còn chiếm tuyệt đại đa số dân cư, kinh tế tư
bản tư nhân vẫn còn có vai trò quan trọng như ở nước
ta hiện nay, thì giá trị mới tạo ra không chỉ phân phối cho
lao động tạo ra nó, mà trái lại, sẽ hợp đạo lý và chính
đáng, nếu như giá trị mới đó được phân phối cho tất cả
các yếu tố tạo điều kiện cho sức lao động phát huy tác
dụng.
Tóm lại, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN của
Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp tư nhân không
hoàn toàn giống kinh tế tư bản tư nhân dưới chế độ
TBCN và cũng không hoàn toàn chịu sự chi phối của quy
luật giá trị thặng dư. Do đó, việc thừa nhận sự tiến bộ,
hợp pháp của kinh tế tư nhân và khuyến khích nó phát
triển là khuyến khích sản xuất ngày càng nhiều giá trị
mới cho xã hội (làm giàu), khuyến khích sự phát triển
của xã hội, chứ không phải là khuyến khích sự bóc lột.
Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin trong
điều kiện Việt Nam hiện nay. Sự khẳng định này đã góp
phần xóa bỏ mặc cảm, tháo gỡ rào cản cho kinh tế tư
nhân phát triển, thực hiện CNH, HĐH ở nước ta. Đương
nhiên, kinh tế tư nhân dù ở loại hình nào cũng phải
chấp hành nghiêm luật pháp, thực hiện đúng chính sách
của Nhà nước, tôn trọng nhân phẩm của người lao động
và tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện.
nguyenvanduy_bn (09172009)
Thành viên gửi lời
cảm ơn tới bạn
_[K]iD_ vì chia sẻ bài
viết hay:
_[K]iD_
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới _[K]iD_
Find More Posts by
_[K]iD_
#3
08132009, 07:32 PM
bài viết này có nhiều điểm mới so với sách giáo khoa hiện hành vè
cuongdtvt
KTCT, viết về GTTD. rất nhiều người học KTCT maclenin đã phản
Học viên mới
đối thuyết giá trị thặng dư và cho rằng ở các nước TB, việc CN làm
thuê cho nhà chủ là tự nguyện, có hợp đồng lao động hẳn hoi chứ
không phải là bóc lột. trên thực tế các nhà tư bản đã được hưởng lợi
từ giá trị thặng dư có nguồn gốc từ V của công nhân là có thật, tuy
nhiên như phân tích trên bài viết, quy luật phân phối có nhiều dạng
khác nhau chứ k chỉ phân phối theo sức lao động mà còn theo
thành quả lao động và công sức, nỗ lực, tiền bạc mà các nhà tư bản
bỏ ra để hoàn thiện mình trước khi bước vào thương trường do đó
Tham gia ngày: Aug 2009
Bài gởi: 1 học hưởng phần 1 phần m do V tạo ra là chính đáng, nhưng bài viết
N2CD: 20
cho rằng sự chính đáng đó chỉ có ở VN do "nền KTTT định hướng
Thanks: 0
XHCN", không có ở các nước tư bản khác...mà lại không chỉ ra
Thanked 0 Times in 0 Posts
được vì sao, các đoạn quan trọng nhất mà tác giả chỉ nói chung
chung, cố ý "phớt" đi, chưa chỉ ra rõ ràng sự khác nhau đó. theo tôi
nếu phân tích như trên cũng đúng với các nước TB chứ k riêng gì
các nước XHCN. không những vậy, chủ các doanh nghiệp tư nhân
ở VN thậm chí làm việc siêng năng hơn là chủ doanh nghiệp nhà
nước, hưởng thành quả lao động xứng đáng hơn, công nhân ở đó
lương cao hơn mà vẫn năng suất làm việc như vậy so với doanh
nghiệp nhà nước. tóm lại, phê phán CNTB phương tây vẫn thực sự
chưa có cơ sở, phân biệt TB ở Vn và TB ở phương tây vẫn chưa rõ
ràng. tác giả có vẻ thành công khi biện minh cho TB tư nhân ở VN
nhưng lại thất bại trong việc lập luận để giữ nguyên sự chỉ trích đối
với TB phương tây.
cuongdtvt
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới cuongdtvt
Find More Posts by cuongdtvt
#4
09172009, 03:55 PM
bài viết thật là hay! quả là phải rất tâm huyết.Cám ơn bạn nhiều nha.
nguyenvanduy_bn
Học viên mới
Tham gia ngày: Apr 2009
Đến từ: BAC NINH
Bài gởi: 2
N2CD: 35
Thanks: 3
Thanked 0 Times in 0 Posts
nguyenvanduy_bn
Xem hồ sơ
Gởi nhắn tin tới nguyenvanduy_bn
Find More Posts by nguyenvanduy_bn
Bookmarks
Digg
del.icio.us
StumbleUpon
Google
Trùm SEO
Bài Hay
Sig VietNam
Tags
bối, cảnh, cứu, dư, giá, hiện, nay, nghiên, thặng, trị, trong
« Ðề Tài Trước | Ðề Tài Kế »
Ðiều Chỉnh
Tạo trang in
Email trang này
Xếp Bài
Linear Mode
Switch to Hybrid Mode
Switch to Threaded Mode
Quuyền Hạn Của Bạn
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts
BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Forum Rules
Những chủ đề tương tự