Nghịch lý tiền lương
Nếu như cách đây 10 năm, mức lương 1.500 USD Mỹ/tháng cho người trong nước là rất hiếm hoi, chủ yếu ở các công ty có vốn đầu tư nước ngoài thì nay mức 3.000 USD, thậm chí 5.000 USD không phải là ít, ở ngay công ty trong nước
Nghịch lý tiền lương
Nếu như cách đây 10 năm, mức lương 1.500 USD Mỹ/tháng cho người trong nước là
rất hiếm hoi, chủ yếu ở các công ty có vốn đầu tư nước ngoài thì nay mức 3.000 USD,
thậm chí 5.000 USD không phải là ít, ở ngay công ty trong nước.
Trong khi đó, lương phổ biến của công nhân trước đây 10 năm chừng 700.000 đồng,
bây giờ giỏi lắm cũng chỉ trên 1 triệu/tháng.
Các công ty cung ứng nhân lực cho rằng mức lương trong 10 năm qua đã tăng nhưng
không đều - tăng rất mạnh ở những mức lương đã cao sẵn và tăng rất yếu ở loại công
việc lương thấp. Nhiều khảo sát qui mô lớn ở nước ngoài cho thấy tình hình cũng
tương tự ở các nước như Mỹ, Trung Quốc...
Nếu hình dung thị trường lao động toàn cầu là một cái chảo khổng lồ, đáy chảo là
những công việc chân tay và tiến dần lên phía trên là những công việc đòi hỏi nhiều
kỹ năng lao động hơn, thì 10 năm qua đã chứng kiến những thay đổi lớn lao trên thị
trường này. Công việc đơn giản như may mặc, đóng giày, thậm chí lắp ráp máy móc
được dịch chuyển linh hoạt khắp nơi trên thế giới để tận dụng lao động giá rẻ.
Đặt nhà máy ở Bangladesh không có lời, nhà đầu tư sẽ chuyển sang Trung Quốc hay
Việt Nam để tăng biên độ lợi nhuận; đặt nhà máy ở TP.HCM khó kiếm lao động chịu
làm với mức lương thấp, họ sẵn sàng chuyển ra miền Trung hay về miền Tây. Vì thế,
mức lương của công nhân không thể nào tăng nhanh được.
Quan trọng hơn, các nước đã “nhuần nhuyễn” với bài học toàn cầu hóa bỏ hẳn những
công đoạn ít làm ra lãi (và ai làm cũng được) như sản xuất, lắp ráp để tập trung vào
các hoạt động mang tính sáng tạo hơn như nghiên cứu, thiết kế, rồi tiếp thị hay xây
dựng thương hiệu. Và để tối đa hóa lợi nhuận, các tập đoàn đa quốc gia gán chi phí
cao nhất cho những công đoạn họ vẫn đang thực hiện, ép mức chi phí thấp nhất cho
những công đoạn họ thuê bên ngoài làm.
Máy tính xách tay của Toshiba chẳng hạn, do một công ty nào đó ở Đài Loan sản xuất,
chi phí thấp nhưng công đoạn thiết kế mẫu mới hay tiếp thị cho một dòng máy mới
vẫn do Toshiba làm và tỉ trọng chi phí trong cơ cấu giá thành sẽ cao hơn thực tế nhiều.
Chẳng lạ gì lương một công nhân lắp ráp máy tính xách tay ở Đài Loan tăng không
đáng kể trong 10 năm qua, nhưng lương một người ngồi suy nghĩ một chiến lược tiếp
thị cho chiếc máy này vào thị trường châu Âu sẽ tăng nhanh hơn nhiều lần.
Ở ngay trong cùng một nước, quá trình điều chỉnh tiền lương cũng diễn ra tương tự.
Một công ty nhận gia công phần mềm cho Nhật Bản chẳng hạn, sẽ phải trả lương rất
cao cho người lo chuyện tìm hợp đồng và mức lương này phải tăng liên tục để giữ
chân người giỏi, trong khi mức lương của người viết phần mềm gia công theo đơn đặt
hàng sẽ không thể tăng nhanh bằng.
Toàn cầu hóa dẫn đến nhiều hệ
Thoạt nhìn, cách trả lương như thế là hoàn toàn hợp quả, trong đó dễ thấy nhất là mức
lý, nhưng thử nhìn ở bình diện chung, khi mức tăng cách biệt giàu nghèo, thu nhập từ
năng suất, hiệu suất công việc như nhau thì mức tăng lao động ngày càng tăng. Vì sao có
lương khác nhau là một bất công, một khiếm khuyết nghịch lý này? Không phải toàn
cầu hóa đem lại miếng bánh lớn
do toàn cầu hóa gây ra. Xin nhắc lại, ở đây nói về
hơn cho mọi người hay sao?
mức tăng lương chứ không phải là mức lương, vì rõ
ràng giám đốc phụ trách nghiên cứu của một công ty ắt phải có lương cao hơn kỹ sư
phụ trách sản xuất.
Một đặc điểm nữa là công nghệ thông tin đã tác động rất lớn vào kỹ năng lao động.
Công việc lao động chân tay phải dịch chuyển cả nhà máy nhưng công việc thiết kế,
nghiên cứu có thể linh hoạt chuyển đi khắp thế giới đến nơi nào làm tốt nhất, giá rẻ
nhất.
Một kỹ sư hoàn tất bản vẽ sản phẩm mới ở Milan, dùng mạng Internet giao sản phẩm
cho một công ty khác ở Chicago, nơi này chuyển bản vẽ đã duyệt sang Thâm Quyến
thực hiện - tất cả đã trở thành hiện thực chứ không phải là chuyện khoa học viễn
tưởng nữa. Vì thế, chuyện một người VN thiết kế quảng cáo cho một hãng thời trang
ở Pháp không có gì là xa vời và lúc đó, dù ngồi ở Củ Chi, người này vẫn có thể nhận
đồng lương của thị trường lao động Paris.
Đây đang là xu hướng và một khi đã là xu hướng chung thì đừng trông mong thay đổi
theo ý chủ quan. Chỉ có điều nó cho thấy toàn cầu hóa không hẳn là miếng bánh chia
đều cho mọi người. Người nông dân dù bán sản phẩm ra toàn cầu cũng phải chịu
miếng bánh nhỏ nhất, và kẻ có tiền, tác động được vào chuỗi giá trị tăng thêm của sản
phẩm sẽ giành cho mình phần bánh lớn hơn cả.
Những nước đang muốn tham gia dòng chảy toàn cầu hóa rất cần xây dựng được một
hệ thống xã hội minh bạch để tiền lương không bị bóp méo đi. Lấy ví dụ ở ngành may
mặc, một hệ thống phân bổ quota không công bằng sẽ tạo điều kiện cho những ai lo
chuyện chạy quota mức thu nhập cao ngất, ép đồng lương của công nhân đã thấp càng
thấp hơn.
Và cuối cùng, nền giáo dục khi không đáp ứng được thực tế của một thị trường lao
động như thế sẽ càng làm gia tăng khoảng cách thu nhập giữa những người được đào
tạo khác nhau. Ở cùng mức xuất phát là tốt nghiệp phổ thông trung học, bốn năm sau,
một người tốt nghiệp từ một trường đại học của Úc sẽ có nhiều cơ may nhận việc
làm với mức lương 8-10 triệu đồng/tháng; còn người tốt nghiệp đại học trong nước
vẫn sẽ loay hoay tìm việc làm hay chấp nhận công việc trái nghề được đào tạo với
mức lương 1-2 triệu đồng/tháng. Đấy cũng chính là nghịch lý nhưng của ngành giáo
dục chứ không phải của thị trường lao động nữa.
Theo Tuổi Trẻ chủ nhật