Nghị quyết số 21/2008/NQ-CP
Nghị quyết số 21/2008/NQ-CP về việc phiên họp chính phủ thường kỳ tháng 8 năm 2008 do Chính phủ ban hành
CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
--------- Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Số: 21/2008/NQ-CP Hà Nội, ngày 06 tháng 9 năm 2008
NGHN QUYẾT
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 8 NĂM 2008
Trong ba ngày 03, 04 và 05 tháng 9 năm 2008, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng
8, thảo luận và quyết nghị những vấn đề sau đây:
1. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo tình hình kinh tế-xã hội
tháng 8 và 8 tháng năm 2008, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009;
Bộ trưởng Bộ Tài chính báo cáo đánh giá thực hiện ngân sách nhà nước năm 2008, dự
toán ngân sách nhà nước năm 2009; Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội
báo cáo tình hình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; tình hình đình công và giải
quyết đình công từ đầu năm đến ngày 25 tháng 8 năm 2008; Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo công tác chỉ đạo đối phó với cơn bão số 4 và
áp thấp nhiệt đới; Bộ trưởng Bộ Nội vụ báo cáo tình hình thực hiện công tác cải cách
hành chính tháng 8 năm 2008; Tổng Thanh tra Chính phủ báo cáo công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng tháng 8 năm 2008; Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tình hình thực hiện Chương trình
công tác tháng 8 năm 2008 và Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7
năm 2008.
Ngay từ những tháng cuối năm 2007 và quý I năm 2008, tình hình trong nước đã xuất
hiện những diễn biến bất lợi cho nền kinh tế như: lạm phát tăng cao; sản xuất, kinh
doanh gặp nhiều khó khăn; nhập siêu ở mức cao; thiên tai, dịch bệnh diễn ra liên tiếp
đã tác động xấu đến sản xuất và đời sống nhân dân. Trước tình hình đó, Chính phủ đã
điều chỉnh mục tiêu, xác định lại nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2008 là ưu tiên kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng hợp lý,
bền vững. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ cùng với
sự nỗ lực của toàn quân, toàn dân, các ngành, các cấp và doanh nghiệp trong việc thực
hiện đồng bộ các mục tiêu, giải pháp đã đề ra, tình hình kinh tế-xã hội 8 tháng năm
2008 đang có dấu hiệu hồi phục và đạt được những kết quả tích cực; nền kinh tế duy
trì được tốc độ tăng trưởng khá trong điều kiện lạm phát cao; nông nghiệp được mùa;
giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16,3%; cân đối vĩ mô cơ bản được bảo đảm; tốc độ
tăng giá tiêu dùng đang có xu hướng giảm dần; kim ngạch xuất khNu tăng 39,1% so
với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khNu và nhập siêu giảm; thu ngân sách nhà
nước tăng cao, bội chi ngân sách nhà nước giảm so với dự kiến đầu năm; thị trường
chứng khoán hoạt động theo hướng tích cực; huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội đạt 39% GDP; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm cả vốn thực hiện và vốn
đăng ký cấp mới tăng cao; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng so với
cùng kỳ năm trước. Các lĩnh vực xã hội như: giáo dục và đào tạo; y tế; lao động việc
làm; văn hóa, thông tin, thể dục thể thao; bảo vệ môi trường đạt nhiều kết quả; công
tác thông tin tuyên truyền được quan tâm chỉ đạo, tạo được niềm tin và sự đồng tình,
Công tác cải cách hành chính được Chính phủ thường xuyên quan tâm chỉ đạo. Các
Bộ, ngành và địa phương tiếp tục sắp xếp lại tổ chức, xác định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc; đNy mạnh cải cách thủ tục
hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, tập trung trước hết vào những thủ tục
đang gây vướng mắc, phiền hà cho người dân và doanh nghiệp theo chỉ đạo của Chính
phủ.
Công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được các
ngành, các cấp và các doanh nghiệp thực hiện tích cực. Việc phát hiện và xử lý tham
nhũng được quan tâm hơn.
Hoạt động đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế tiếp tục phát triển. N ước ta đã thực
hiện tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài tăng cao, đầu tư gián tiếp nước ngoài vẫn được duy trì đã thể
hiện lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào sự ổn định và phát triển của nền kinh
tế Việt N am.
Bên cạnh các kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại, hạn chế lớn cần được tiếp tục
nỗ lực khắc phục: tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, thấp hơn so với các năm trước
và chưa đạt mục tiêu kế hoạch đề ra; đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều vướng mắc,
khối lượng thực hiện và giải ngân vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách nhà
nước và trái phiếu Chính phủ đạt thấp; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng đã giảm xuống
nhưng vẫn còn cao so với các năm trước; nhập khNu và tỷ lệ nhập siêu tuy đã được
kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao; đời sống của nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; tỷ lệ xóa đói giảm nghèo đạt thấp; tình
hình khiếu kiện đông người vẫn tiếp diễn; tranh chấp lao động, đình công xảy ra nhiều
hơn trước; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp gia tăng. Công tác cải cách hành chính
và phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa đạt được kết
quả như mong muốn. Hoạt động chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước
tuy có tiến bộ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu.
Để đảm bảo thực hiện các mục tiêu tăng trưởng bền vững đi đôi với việc ổn định đời
sống nhân dân trong những tháng cuối năm 2008, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành và
địa phương thực hiện nghiêm túc và quyết liệt 8 nhóm giải pháp đã đề ra, trong đó,
cần tập trung vào một số giải pháp sau:
- Tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng linh hoạt trong điều hành để
bảo đảm yêu cầu thanh khoản của nền kinh tế, bảo đảm vốn cho sản xuất, kinh doanh
và xuất khNu;
- Tập trung xử lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đNy sản xuất, kinh doanh
phát triển;
- Tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp đNy mạnh xuất khNu, quản lý chặt chẽ nhập khNu
để giảm nhập siêu;
- Tiếp tục rà soát, điều chỉnh đầu tư, tập trung vốn cho các dự án, công trình có hiệu
quả, các công trình sắp hoàn thành; đNy nhanh tiến độ giải ngân các dự án, công trình
đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, nhất là các dự án, công trình lớn, tạo đà tăng trưởng
cho các năm sau; thực hiện kiên quyết chủ trương tiết kiệm 10 % chi thường xuyên;
- Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp nhằm ổn
định giá, chống đầu cơ, buôn lậu; bảo đảm cân đối cung cầu các hàng hoá thiết yếu
cho sản xuất và đời sống nhân dân, không để thiếu hàng cục bộ; điều hành giá xăng
dầu theo hướng tiếp cận cơ chế thị trường;
- Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách về an sinh xã hội đã ban hành, đồng thời,
chuNn bị ban hành các chính sách mới, góp phần ổn định sản xuất và đời sống của
người dân; tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc hiện nay;
- Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền để xây dựng niềm tin của nhân dân,
tránh đưa những thông tin bất lợi, tạo dư luận xấu, gây tâm lý hoang mang trong nhân
dân.
Về nhiệm vụ tổng quát năm 2009, Chỉnh phủ xác định tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm
phát theo hướng giảm dần và ổn định kinh tế vĩ mô; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng
cao hơn năm 2008; bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội; giữ vững ổn định chính trị, xã hội
để tạo điều kiện thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch 5 năm
2006 - 2010.
Chính phủ cơ bản nhất trí với các chỉ tiêu chủ yếu trong dự kiến kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2009 được nêu trong báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong
đó, lưu ý xây dựng một số chỉ tiêu về: tổng sản phNm trong nước (GDP); tổng kim
ngạch xuất khNu; nhập siêu; bội chi ngân sách nhà nước; chỉ số giá tiêu dùng… để bảo
đảm tính khả thi.
Để đạt được các chỉ tiêu trên, năm 2009 cần tập trung vào thực hiện 9 nhóm giải pháp
sau:
- Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá để kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô;
- Tập trung tháo gỡ khó khăn, huy động mọi nguồn lực để đầu tư, phát triển sản xuất,
kinh doanh;
- Tạo điều kiện tiếp tục đNy mạnh xuất khNu tạo điều kiện cho tăng trưởng; hạn chế
nhập siêu;
- Bảo đảm cân đối cung cầu hàng hoá thiết yếu, ngăn chặn đầu cơ, điều hành giá cả
theo cơ chế thị trường có hiệu quả gắn liền với hỗ trợ cho các đối tượng chính sách;
- Tăng đầu tư để giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của nhân
dân. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội đã ban hành, đồng thời khNn
- Tăng đầu tư đồng thời đNy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế,
văn hóa, thể dục thể thao và bảo vệ môi trường;
- ĐNy mạnh cải cách hành chính; tăng cường phòng, chống tham nhũng; thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí;
- Tăng cường hoạt động đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt N am trên trường quốc tế ;
- Bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội .
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ,
hoàn chỉnh Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2008 và dự kiến kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2009, Báo cáo đánh giá thực hiện ngân sách nhà nước năm
2008, dự toán ngân sách nhà nước năm 2009 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định để trình Bộ Chính trị cho ý kiến trước khi báo cáo tại Hội nghị lần thứ 8
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X.
2. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ N ội vụ trình bày Báo cáo tổng hợp về sửa đổi những
bất hợp lý trong tương quan tiền lương, phụ cấp và các phương án giải quyết tiền
lương, trợ cấp trong những tháng cuối năm 2008 và năm 2009.
Chính phủ cơ bản nhất trí với nội dung Báo cáo. Giao Bộ N ội vụ chủ trì, phối hợp với
Văn phòng Chính phủ, các bộ, cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính
phủ, hoàn chỉnh đề án sửa đổi những bất hợp lý về tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ,
công chức, viên chức trong các cơ quan của Đảng, N hà nước, Mặt trận và các đoàn
thể, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trước khi trình Bộ Chính trị; hoàn
chỉnh các dự thảo nghị định, quyết định có liên quan, trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét, ký ban hành.
3. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Y tế trình bày Đề án đổi mới cơ chế hoạt động và cơ
chế tài chính, chính sách tiền lương và viện phí đối với các đơn vị sự nghiệp y tế
công.
Trong thời gian qua, Đảng và N hà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách định
hướng cho ngành y tế hoạt động và phát triển, tạo điều kiện cho các cơ sở y tế công
lập phát huy quyền chủ động trong việc sử dụng các nguồn tài chính, cơ sở vật chất,
sắp xếp, bố trí nhân lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao, đáp ứng nhu cầu đa
dạng của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn
gặp nhiều vướng mắc, bất cập. Việc đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính
(trong đó có tiền lương và viện phí) để tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp y tế
công lập hoạt động và phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho công tác phòng bệnh,
khám chữa bệnh, cải thiện chất lượng dịch vụ y tế; nâng cao tính minh bạch, y đức
của người thầy thuốc, phục vụ tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng và
đa dạng của nhân dân.
Chính phủ cơ bản nhất trí với nội dung của Đề án. Giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với
Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ và các Bộ, cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các
thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh Đề án, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét trước
khi báo cáo Bộ Chính trị.
4. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ N ông nghiệp và Phát triển nông thôn trình bày
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện N ghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hàng Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Việc xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ nhằm xác định rõ các nội
dung, nhiệm vụ, thời gian và trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương và chính
quyền địa phương các cấp về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đồng thời, Chương
trình hành động này còn làm cơ sở để các Bộ, ngành và địa phương cụ thể hóa thành
nhiệm vụ, chương trình, đề án trong kế hoạch công tác hàng năm của cơ quan mình.
Giao Bộ N ông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn
phòng Chính phủ và các Bộ, cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên Chính
phủ, hoàn chỉnh Chương trình hành động, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ký ban
hành.
5. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính trình bày Tờ trình Chính phủ về việc trình
Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung Biểu khung thuế xuất khNu.
Biểu khung thuế xuất khNu hiện hành được ban hành theo N ghị quyết số
295/2007/N Q-UBTVQH11 ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã góp phần hạn chế xuất khNu tài nguyên khoáng sản và vật tư, nguyên liệu. Để
nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của thuế xuất khNu, cần phải sửa đổi Biểu khung thuế
xuất khNu theo hướng tăng mức trần của khung hiện có và tập trung bổ sung thêm
khung thuế xuất khNu cho một số nhóm mặt hàng.
Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý kiến thành
viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự thảo N ghị quyết. Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy
quyền Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
6. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình bày dự kiến của Chính phủ về
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2009; dự án Luật Lý lịch tư
pháp; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999; nghe
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến thành viên
Chính phủ về dự kiến Chương trình và các dự án luật.
Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan chủ trì dự án luật, pháp lệnh khi đăng ký vào
Chương trình phải xác định rõ nội dung, định hướng xây dựng hoặc sửa đổi, có kế
hoạch tổ chức soạn thảo chặt chẽ, đúng quy trình để bảo đảm thực hiện đúng tiến độ
đã đề ra.
Quản lý lý lịch tư pháp có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, quản lý
nhà nước và bảo đảm quyền công dân. Tuy nhiên, công tác quản lý lý lịch tư pháp ở
nước ta cho đến nay vẫn chưa được triển khai một cách toàn diện, đúng tầm, quá trình
tác nghiệp còn mang tính chất thủ công, chắp vá, chưa phù hợp với định hướng xây
Bộ luật Hình sự năm 1999 góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống
và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, qua 8 năm thi hành, Bộ luật Hình sự hiện hành
đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu bức
xúc của thực tiễn, bảo đảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, tiếp thu ý kiến các
thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của
Quốc hội năm 2009 và các dự án luật trên. Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ
tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
7. Chính phủ ngheo Bộ trưởng Bộ Xây dựng trình bày dự án Luật Quy hoạch đô thị;
nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến thành
viên Chính phủ về dự án luật.
Trong thời gian qua, hệ thống đô thị ở nước ta đã phát triển nhanh chóng cả về số
lượng, chất lượng và quy mô. Bộ mặt đô thị đã có nhiều khởi sắc theo hướng văn
minh, hiện đại. Tuy nhiên, thực tế phát triển đô thị vẫn còn một số tồn tại, đòi hỏi phải
tăng cường công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị. Việc xây dựng và ban
hành Luật Quy hoạch đô thị nhằm tạo ra một số cơ sở pháp lý đầy đủ và rõ ràng, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong xây dựng và phát triển đô
thị, bảo đảm phát triển hệ thống các đô thị và từng đô thị bền vững, có bản sắc, văn
minh, hiện đại.
Giao Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý
kiến thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án luật. Bộ trưởng Bộ Xây dựng thừa ủy
quyền Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
8. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính trình bày dự án Luật Quản lý nợ công;
nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến thành
viên Chính phủ về dự án luật.
Công tác quản lý nợ cho đến nay đã dần đi vào nề nếp, góp phần ổn định và phát triển
kinh tế đất nước. Tuy vậy, hiện nay vẫn chưa có quy định thống nhất về nợ công; tổ
chức quản lý nợ còn chồng chéo, không tập trung; cơ chế quản lý nợ chưa đầy đủ,
đồng bộ. Việc ban hành Luật Quản lý nợ công nhằm thiết lập khuôn khổ pháp lý hoàn
chỉnh để huy động, sử dụng vốn có hiệu quả, quản lý nợ an toàn, bảo đảm công khai,
minh bạch, tạo điều kiện cho sự kiểm tra, kiểm soát của toàn xã hội đối với hoạt động
vay, trả nợ của Chính phủ cũng như hội nhập quốc tế.
Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý kiến các
thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án luật. Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền
Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội./.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- Văn phòng BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng;
- HĐN D, UBN D các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng; Nguyễn Tấn Dũng
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Toà án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán N hà nước;
- Ủy ban giám sát tài chính quốc gia;
- BQL Khu kinh tế cửa khNu quốc tế Bờ Y;
- N gân hàng Chính sách Xã hội;
- N gân hàng Phát triển Việt N am;
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt N am;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN , các PCN , các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
- Lưu: Văn thư, TH (5b).