Nghệ thuật là gì?
Câu hỏi Nghệ thuật là gì? kéo theo luôn hai câu hỏi khác: Cái đẹp là gì? và Họa sĩ là ai?. Tổng quan hai bài viết của Bart Rosier [1] và Joseph A. Goguen [2] được trình bày dưới đây cũng chỉ nhằm làm sáng tỏ một phần những vấn đề tuy không mới nhưng vẫn rất nan giải đó. Phần Phụ lục tóm tắt quan điểm về nghệ thuật của Lev Tolstoy [3] có kèm theo lời bàn. Cả ba tác phẩm của Rosier, Goguen va Tolstoy đều có chung một nhan đề Nghệ thuật là gì?...
Nghệ thuật là gì?
NGUYỄN ĐÌNH ĐĂNG
Câu hỏi Nghệ thuật là gì? kéo theo luôn hai câu hỏi khác: Cái đẹp là gì? và Họa sĩ là ai?. Tổng
quan hai bài viết của Bart Rosier [1] và Joseph A. Goguen [2] được trình bày dưới đây cũng chỉ
nhằm làm sáng tỏ một phần những vấn đề tuy không mới nhưng vẫn rất nan giải đó. Phần Phụ
lục tóm tắt quan điểm về nghệ thuật của Lev Tolstoy [3] có kèm theo lời bàn. Cả ba tác phẩm
của Rosier, Goguen va Tolstoy đều có chung một nhan đề Nghệ thuật là gì?
1. Nghệ thuật là gì?
Thời Cổ đại, người ta chia nghệ thuật ra làm bảy loại hình nghệ thuật tự do (artes liberales) là:
trivium (3 con đường) bao gồm: Văn phạm, Logic, Hùng biện; và quadrivium (4 con đường)
bao gồm: Số học (lý thuyết về các con số), Hình học (các con số trong không gian), Âm nhạc
(các con số trong thời gian), và Thiên văn học (các con số trong không gian và thời gian). Mẹ
của cả 7 nghệ thuật đó là Triết học. Các nghệ thuật mang tính kỹ thuật như kiến trúc, nông
nghiệp, hội họa, điêu khắc, và các nghề thủ công khác được xếp ở hàng thấp hơn.
Thời Trung cổ, nghệ thuật được coi là đứa con của tự nhiên. Dần dần nghệ thuật chỉ còn là
những gì mà người xưa coi là nghề thủ công. Từ "nghệ thuật" đòi hỏi một cái gì đó được tạo
nên một cách khéo léo bởi người nghệ sĩ. Có điều chính các nghệ sĩ đã phá bỏ các hạn chế
do các định nghĩa loại đó tạo ra, thách thức các định kiến của chúng ta, và vượt xa các triết
gia, các nhà tâm lý học và phê bình, chứ đừng nói chi đến đại chúng.
M. Duchamp, Đài phun, 1917/1964
Ngày nay, thật khó định nghĩa được nghệ thuật. Đã qua rồi cái thời có thể chỉ ra được cái gì là
nghệ thuật, cái gì không phải là nghệ thuật. Sau khi Marcel Duchamp [4] triển lãm chậu đi tiểu
vào năm 1917 tại New York, hay Andy Warhol [5] bày ra các tranh in lưới hàng loạt các đồ hộp
giống nhau như đúc vào những năm 1962 1964, thì bất cứ cái gì cũng có thể là nghệ thuật.
Quan niệm này có vẻ phù hợp với nghệ thuật đương đại.
Vậy cái gì làm cho một bức họa trở thành một tác phẩm nghệ thuật? Có khá nhiều quan điểm
khác nhau về vấn đề này. Dưới đây chỉ liệt kê và bình luận một số quan điểm tạm gọi là tiêu
biểu nhất.
Có quan điểm cho rằng họa sĩ vẽ tranh, nhưng cần sự giám định của ít nhất một đại diện của
thế giới hội họa để khiến bức tranh trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Như vậy một người
bình thường không thể trả lời được nghệ thuật là gì. Chúng ta cần người "định hướng nghệ
thuật" như tín đồ cần vị cố đạo để nói cho biết chân lý ở đâu. Nếu quan niệm này đúng, nó loại
trừ sự huyền bí trong nghệ thuật, sẽ được nói đến bên dưới.
Trái với quan điểm mang tính ngoại suy kể trên, những người theo quan điểm nội suy cho rằng
tiêu chuẩn của nghệ thuật nằm trong tính trực cảm của bức họa, rằng hành động vẽ phải có
chủ đích, có nghĩa là họa sĩ phải chủ tâm tạo ra nghệ thuật. Hành động vẽ phải được diễn ra
theo một cách đặc biệt nhằm tạo ra nghệ thuật. Như vậy người xem sẽ phải học cách làm sao
nhận ra được tính trực cảm đó. Ngoài ra, nếu nghệ thuật là cái do nghệ sĩ chủ tâm tạo ra, thì
câu hỏi tiếp theo sẽ là: "Vậy thì nghệ sĩ là ai?"
Quan điểm dựa trên lý thuyết về nguồn gốc của nghệ thuật lại cho rằng nghệ thuật là các đồ
vật hoặc hình ảnh do con người tạo ra với một ý nghĩa tượng trưng như một phương thức giao
tiếp. Tuy nhiên, không phải tất cả các hình ảnh đó đều là nghệ thuật, mà một số chỉ đơn thuần
là các ký hiệu mà thôi.
Gần với quan điểm nguồn gốc nghệ thuật kể trên là phát biểu của nhà vật lý thiên tài Albert
Einstein: "Cái đẹp nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm là sự huyền bí." Như vậy sự huyền bí là
nguồn gốc của mọi nghệ thuật đích thực. Chính vì lý do đó chúng ta không có hy vọng có
được một định nghĩa rõ ràng về nghệ thuật. Nghệ thuật là cái gì đó chúng ta chỉ có thể cảm
thấy mà không tài nào diễn giải được bằng lời. Nó giống như một trải nghiệm huyền bí vậy.
Ngày nay các nghệ sĩ một mặt tiếp tục truyền thống chọc tức xã hội tư sản, xã hội tiêu thụ, mặt
khác đã mở rộng vai trò của mình. Thay vì vẽ tranh hay nặn tượng, họ trưng bày xác các con
vật ngâm trong formaldehyde, các vật thể đa dạng kể cả sỏi đá, cành cây, và dây thừng. Nghệ
thuật môi trường đã giải phóng các triển lãm khỏi 4 bức tường của viện bảo tàng. Các hình
thức nghệ thuật mới như trình diễn, sắp đặt, cơ thể, v.v. đã và đang thách thức các quan niệm
về ranh giới giữa các loại hình nghệ thuật. Kể cả trình diễn thời trang, trò chơi điện tử video,
phun sơn lên tường, và các trang nhà trên internet cũng bắt đầu được coi là nghệ thuật.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của phương Đông và phương
Tây cũng xích lại gần nhau hơn, chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Nghệ thuật bonsai của Nhật Bản
trở nên thời thượng ở phương Tây. Nhiều nhạc sĩ phương Tây sử dụng nhiều yếu tố âm nhạc
phương Đông trong các tác phẩm của mình.
2. Cái Đẹp là gì?
Cái Đẹp thường được đưa ra như một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng nghệ thuật. Tuy
nhiên, định nghĩa được cái Đẹp còn khó hơn định nghĩa được Nghệ thuật, vì cái Đẹp phụ thuộc
vào văn hóa và thời gian nhiều hơn.
Lý thuyết đơn giản nhất về cái Đẹp là coi cái Đẹp như sự bắt chước tự nhiên. Lý thuyết này
định ra một tiêu chuẩn khá lý trí và đơn giản cho cái đẹp. Tiếc rằng nó phụ thuộc chẳng những
vào việc tách riêng chủ thể và khách thể, mà còn phụ thuộc vào sự phân chia nghệ thuật và tự
nhiên, và thế là lại rơi vào cái vòng luẩn quẩn về khái niệm nghệ thuật phụ thuộc vào văn hóa,
chứ không phải là cái gì đó toàn cầu. Hơn nữa tiến bộ của khoa học công nghệ ngày nay đang
làm khó cho định nghĩa tự nhiên là gì. Thêm vào đó rõ ràng là lý thuyết này đã bỏ qua hầu như
toàn bộ nghệ thuật đương đại. Cuối cùng, hoàn toàn không rõ là liệu có một cơ sở vững chắc
để phán xét một tác phẩm nghệ thuật bắt chước tự nhiên giỏi đến mức nào.
Một cách tiếp cận khác đến cái Đẹp là đo nó bằng cảm xúc của người xem. Phương pháp theo
kiểu "tôi biết tôi thích gì" này có vẻ như vô vọng vì nó hoàn toàn chủ quan. Tuy vậy vẫn có
những hình thức phức tạp hơn một chút, trong đó người ta dùng các thiết bị khoa học để đo
mức độ của phản ứng, thu thập một số lượng lớn các dữ liệu thống kê, và lấy trung bình để
đưa ra những kết luận có tính tổng quát nhất. Tuy nhiên phương pháp này cuối cùng cũng vẫn
rơi vào việc phân chia chủ thể và khách thể. Nó có thể có ích cho một số lĩnh vực như trong
thiết kế nhưng chẳng có giá trị gì mấy cho mỹ thuật nói chung.
Plato [6] cho rằng cái Đẹp phải phản ánh chân lý. Đến đây ta lại vấp phải câu hỏi Pilate đã đặt
ra cho Chúa Jesus: "Vậy thì Chân lý là cái gì?". Theo thi sĩ lãng mạn John Keats [7] chân lý ở
đây phải được hiểu là chân lý nghệ thuật. Ông viết: "Cái đẹp là Chân lý, Chân lý là cái Đẹp",
tức là một chân lý mang tính cảm xúc, một biểu hiện chính xác cảm xúc thực của nghệ sĩ, chứ
không phải là chân lý theo nghĩa triết học hay khoa học, như là sự thật chẳng hạn.
Heidegger [8] đã phát triển quan niệm nghệ thuật tuyệt đối của Kant [9] . Kant cho cái Đẹp là
cái gì đó không có bất kỳ một chức năng nào khác ngoài chức năng làm cái Đẹp. Khi đó một
vật thể thể sẽ trở thành thuần túy là một vật thể, hiện ra hoàn toàn chỉ vì nó đẹp chứ không vì
bất cứ công dụng nào khác. Như vậy nghệ thuật theo Kant là một cách biểu diễn đẹp của một
hình thức, thông qua đó nghệ sĩ mặc sức tưởng tượng để liên tục mở rộng quan niệm về chính
cái Đẹp. Điều đó có nghĩa là nghệ thuật đã đi ra ngoài thế giới của lý trí, và cái Đẹp là cái gì
đó không thể cắt nghĩa được. Lý thuyết này có nhiều điểm giống với quan điểm của trường
phái lãng mạn nói trên. Tuy nhiên nó loại trừ vai trò của nghệ sĩ, của ảnh hưởng văn hóa, cũng
như sự chuẩn bị của người xem.
Lý thuyết "hiện đại" về cái Đẹp thì cho rằng một vật chỉ đẹp khi có hình thức phù hợp với công
dụng của nó. Chậu đi tiểu của Marcel Duchamp xem ra thỏa mãn tiêu chuẩn này. Trong khi đó
tiêu chuẩn như vậy không thể đem áp dụng cho những thứ vô dụng như các bức họa trường
phái ấn tượng, các bức tượng lập thể, thơ, cho dù tất cả những thứ đó có thể dùng cho nhiều
mục đích khác nhau như làm tiền, làm "lác mắt" bạn bè, hay để thư giãn khi ngắm nhìn chúng.
Lý thuyết này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của Oscar Wilde [10] . Ông cho rằng: "Cái
cớ duy nhất để làm ra một vật vô dụng là vì ta ngưỡng mộ nó sâu sắc. Toàn bộ nghệ thuật là
vô dụng." Lý thuyết này đã gây ra một số hậu quả như việc tạo ra những kiến trúc quái đản
trong các dự án xây dựng hàng loạt nhà cao tầng cho những người thu nhập thấp trong những
năm 50 60. Một lần nữa, ta thấy đây là một minh họa rất rõ rằng các lý thuyết về cái Đẹp
cũng phụ thuộc và điều kiện xã hội và văn hóa.
Trong tác phẩm "Luận về thơ", Aritsotle [11] định nghĩa nghệ thuật là một sự bắt chước, nhưng
ông đã rất khôn ngoan không gọi đó là "bắt chước tự nhiên", mà là "bắt chước con người hành
động". Hơn nữa ông đã dùng một cách tiếp cận cân bằng, không quy nghệ thuật, hay cách
nhìn nhận nghệ thuật, về một thứ. Đặc biệt, ông không hề gợi ý là phải dùng cái Đẹp để đo
nghệ thuật. Thay vào đó, ông đã đưa ra một loạt các tiêu chuẩn về chất lượng dựa trên một số
ví dụ như bi kịch, chơi đàn lyre, v.v. Aristotle nói rằng mục đích của bi kịch là gây nên nỗi sợ và
buồn thương ở người xem thông qua việc bắt chước các hành động mang tính anh hùng. Tiêu
chuẩn về sự xuất sắc của ông bao gồm sự thống nhất của không gian và thời gian, việc sử
dụng ngôn ngữ thành thạo và khéo léo, đặc biệt cách dùng hình ảnh trong ngôn ngữ, v.v.
Cách tiếp cận của ông kết hợp khéo léo các quan điểm giải tích, lịch sử, luân lý và thực dụng
về bi kịch, có ảnh hưởng rất lớn cho đến tận ngày hôm nay. Đối với Aristotle, cũng như nhiều
nghệ sĩ đương đại, cái Đẹp quá lắm chỉ là mối quan tâm hạng hai.
3. Nghệ thuật và khoa học
Phương pháp của khoa học đòi hỏi các phép đo chính xác có thể lặp lại được, và một tính
khách quan tới mức có thể loại trừ tất cả các yếu tố chủ quan từ phía người tiến hành thí
nghiệm. Điều này khiến các phương pháp nghiên cứu khoa học hoàn toàn ngược với các
phương pháp của nghệ thuật. Nghệ thuật đương đại đòi hỏi tính chủ quan của nghệ sĩ trong
các tác phẩm. Nghệ thuật tối kỵ sự lặp lại. Ngay cả khi Monet [12] vẽ một ngôi nhà thờ rất
nhiều lần, các bức tranh của ông vẫn rất khác nhau. Ông sử dụng nhiều hoà sắc khác nhau,
vẽ ở các thời điểm khác nhau trong ngày, v.v. Các đoạn gọi là nhắc lại trong âm nhạc thực
chất không bao giờ được chơi như nhau, mà có thể là cường độ khác nhau, hoặc độ nhanh
chậm khác nhau, v.v. Nhận xét về điểm này Anthony Freeman [13] nói: "Thật nghịch lý là nhà
khoa học tìm ra chân lý sau nhiều lần lặp lại thí nghiệm và thu được các kết quả giống hệt
nhau, trong khi đó nghệ sĩ tìm thấy chân lý sau khi thu được các kết quả hoàn toàn khác
nhau." Những phép đo khách quan, như luật viễn cận, luật hòa sắc, pha màu, hoà thanh, lên
dây đàn, v.v. được dùng trong nghệ thuật như sự hỗ trợ về kỹ thuật cho sáng tạo. Xuất phát từ
quan sát này là quan điểm cho rằng không hề có một liên hệ nào có nghĩa giữa khoa học và
nghệ thuật. Cho dù có không ít người đồng ý, quan điểm này rõ ràng là sai. Một ví dụ hiển
nhiên là sự phát triển hình học thời Phục hưng đã kéo theo sự phát triển của luật viễn cận
trong nghệ thuật. Công nghệ hiện đại là yếu tố quan trọng sản sinh ra nhiều hình thức nghệ
thuật đương đại như điện ảnh, âm nhạc điện tử, nghệ thuật video, v.v.
J. Pollock, Những chiếc sào xanh, 1952
Ngày nay khoa học được áp dụng để thẩm định nghệ thuật (qua các phương pháp như đánh
dấu carbon, dùng máy tính điện tử để thẩm định các tác phẩm của Jackson Pollock [14] , v.v.).
Khoa học cũng được áp dụng để đo các hưởng ứng sinh lý của người trước các tác phẩm nghệ
thuật. Các nghiên cứu khoa học về tâm lý con người khi tiếp xúc với tác phẩm nghệ thuật cũng
có hữu ích cho các nghệ sĩ và những người yêu nghệ thuật.
Lại có quan điểm ngược lại cho rằng khoa học và nghệ thuật có thể hòa nhập vì đều dựa trên
hoạt động sáng tạo của con người. Tuy nhiên nếu đi sâu vào tính chất của sự sáng tạo, ta thấy
rõ các lý thuyết khoa học đều mang tính toán học rất cao, còn các thực nghiệm khoa học đòi
hỏi sự lặp đi lặp lại đã nói ở trên, khiến sáng tạo trong khoa học khác với sáng tạo trong nghệ
thuật.
Nghệ thuật và khoa học là các thành tố của văn hóa. Vì thế bản chất và quan hệ giữa chúng
thực ra khá phức tạp, thay đổi tùy theo thời gian và địa điểm. Sẽ thật ngây thơ khi cho rằng có
thể tìm thấy một sự mô tả quan hệ bất biến giữa chúng. Trong tương lai sự tiến triển mau lẹ
của nghệ thuật, khoa học và công nghệ sẽ còn đem lại cho chúng ta nhiều điều bất ngờ. Ví dụ
internet có liên hệ thế nào với nghệ thuật? Chúng ta sẽ thấy nhiều phương tiện dùng kỹ thuật
số, dùng network bandwidth. Chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều loại hình nghệ thuật mới,
song liệu chúng ta có thấy các giá trị thẩm mỹ mới không? Có lẽ chúng ta cũng sẽ được thấy
sự ra đời của nhiều lý thuyết mới về nghệ thuật. Nhưng liệu chúng có hơn gì những lý thuyết
cũ không?