Ngành dệt may quay về nội địa với 3 đề án
Phát triển ngành công nghiệp may, giày dép theo h ng b n v ng UBND t nh Đ ng Nai đã quy ể ệ ệ ướ ề ữ ỉ ồ ết
định phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may và giày dép trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến
năm 2015, có tính đến năm 2020 với quan điểm phát theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, tạo bước
nhảy vọt về chất sản phẩm, tăng nhanh tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu, gắn chặt với việc bảo vệ môi trường và phù hợp với khả năng...
Phát triển ngành công nghiệp dệt, may, giày dép theo hướng bền vững UBND tỉnh Đồng Nai đã quyết
định phê duyệt quy hoạch phat triên nganh công nghiệp dêt, may và giay dep trên đia ban tinh Đông Nai đên
́ ̉ ̀ ̣ ̀ ́ ̣ ̀̉ ̀ ́
năm 2015, có tính đên năm 2020 với quan điểm phat theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, tạo bước
́ ́
nhảy vọt về chất sản phẩm, tăng nhanh tỷ trong kim ngach xuất khẩu, găn chặt với viêc bao vệ môi
̣ ̣ ́ ̣ ̉
trương và phù hợp với khả năng đáp ứng về nguồn nhân lực, góp phần phat triên kinh tế – xã hôi Đông
́ ̉ ̣ ̀
Nai bên vững.
̀
Thơi gian qua, nganh công nghiêp dệt, may, giày dép trên địa bàn tỉnh phat triên khá manh, tốc độ tăng
̀ ̣ ́ ̉ ̣
trưởng bình quân giai đoạn 2001-2007 đạt 21,6%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 23,5%/năm;
năm 2007 đạt 2.540 triệu USD, chiếm tỷ trọng trên 51% kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh, góp phần phát
triển kinh tế của tỉnh và giải quyết nhiều việc làm cho xã hội. tính đến hết năm 2007 có 188.465 lao động
làm việc trong ngành này, chiếm 45,6% trong cơ cấu lao động toàn ngành công nghiệp. Tuy nhiên, sự phat ́
triên nay con mang tinh tự phat, chưa có sự chon loc, phân kỳ kêu gọi cac dự an đâu tư cung như phân bố
̉ ̀ ̀ ́ ́ ̣ ̣ ́ ́ ̀ ̃
hợp lý giữa cac đia phương, vung lanh thô, lam mât cân đôi về cơ câu lao đông và môt số vân đề xã hôi phat
̣́ ̀ ̃ ̉̀ ́ ́ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ́
sinh về yêu tố con ngươi, môi trương, nhà ở…Vì thế, cần thiết phải hình thành định hướng quy hoạch cho
́
ngành để hội nhập bền vững.
Với mục tiêu phát triển ngành công nghiệp dệt, may, giày dép thành một ngành công nghiệp chủ lực,
mui nhon về xuất khẩu của địa phương, đóng vai trò quan trọng trong phục vụ nhu câu tiêu dùng trong
̃ ̣ ̀
nước, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp của tỉnh phát triển bền
vững, UBND tỉnh Đồng Nai đã phê duyệt quy hoạch phát triển ngành đến năm 2015, tầm nhìn đến năm
2020.
Theo đó, đến năm 2010, giá trị sản xuất hàng công nghiệp dệt, may, giày dép đạt 23.750 tỷ đồng,
chiếm 24% trong cơ cấu toàn ngành công nghiệp, tăng gấp 2,4 lần so với năm 2005. Đến năm 2015, giá trị
sản xuất đạt 40.020 tỷ đồng, chiếm 18,1% trong cơ cấu toàn ngành công nghiệp, tăng gấp 1,7 lần so với
năm 2010. Và đến năm 2020, giá trị sản xuất đạt 56.130 tỷ đồng, chiếm 11,8% trong cơ cấu toàn ngành
công nghiệp, tăng gấp 1,4 lần so với năm 2015. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm sản xuất ngành DMG theo
hướng sản xuất sản phẩm sạch, sản phẩm thơi trang cao cấp, sản phẩm có giá trị gia tăng và hàm lượng
chất xám cao. Tiếp tục mở rộng thị trương xuất khẩu và phát triển thị trương nội địa, hạn chế gia công
sản phẩm. Đa dạng hoá việc sản xuất các sản phẩm từ nguồn nguyên liệu trong nước, các sản phẩm
ngành nghề thủ công truyền thống. Nhanh chóng thay thế những thiết bị và công nghệ lạc hậu, nâng cấp
những thiết bị còn khả năng khai thác, bổ sung thiết bị mới, đổi mới công nghệ và thiết bị để nâng cao
chất lượng sản phẩm. Phát triển vùng nguyên liệu bông và tơ tằm để chủ động về nguyên liệu dệt, giảm
nhập khẩu nguyên liệu.
Để tránh ô nhiễm môi trương, sẽ xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp chuyên ngành dệt may có cơ
sở hạ tầng đủ điều kiện cung cấp điện, nước, xử lý nước thải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trương theo
quy định của Nhà nước. Thực hiện di dơi và xây dựng mới các cơ sở dệt nhuộm tại các Khu, Cụm Công
nghiệp tập trung để có điều kiện xử lý nước thải và giải quyết tốt việc ô nhiễm môi trương…
Hoàng Anh
Tìm kiếm
Hệ thống Khuyến Khách Sổ tay nội Siêu thị trực Tin tức Sự
Trang chủ Liên hệ
Rosa mãi hàng trợ tuyến kiện
Trang chủ Tin tức sự kiện Tin thị trương Ngành dệt may quay về nội địa với 3 đề
án
Ngành dệt may quay về nội địa với 3 đề án
Thứ sáu, 17 Tháng 7 2009 08:29
Thứ trưởng thương trực Bộ Công thương Bùi Xuân Khu cho biết bộ đang chỉ đạo
ngành dệt may xây dựng ba đề án quan trọng nhằm tạo động lực phát triển ngành
trong thơi gian từ nay đến năm 2015 theo hướng nội địa hóa và phát triển công nghiệp
hỗ trợ.
Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng tăng tỷ lệ nội địa hóa và thơi trang hóa còn
nhiều thách thức
Thông tin trên được Thứ trưởng Bùi Xuân Khu chia sẻ với Thơi Báo Kinh Tế Sài Gòn
Online trong một phỏng vấn gần đây. Theo ông Khu, mặc dù chiếm tỷ trọng cao trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, song ngành dệt may chưa thực sự phát huy
hết tiềm năng vốn có.
Trong những tháng đầu năm, khi xuất khẩu dệt may gặp khó khăn do một số thị
trương chủ lực thu hẹp do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, như Mỹ, Nhật
Bản, EU, các doanh nghiệp trong nước có xu hướng quay về thị trương nội địa.
Tuy nhiên, chiếm lĩnh thị trương nội địa không đơn giản bởi hàm lượng giá trị gia tăng
trong sản phẩm dệt may của Việt Nam còn thấp, tính sáng tạo chưa cao và mẫu mã,
màu sắc còn đơn điệu. Hơn nữa, theo ông Khu, khâu thiết kế và phân phối, bán hàng
chưa được doanh nghiệp chú trọng đầu tư mà chủ yếu vẫn tập trung vào khâu gia
công.
Hiện nay, Bộ Công thương đang chỉ đạo ngành dệt may thực hiện ba đề án quan
trọng. Đề án thứ nhất là sản xuất 1 tỉ mét vải từ nay đến 2015 phục vụ xuất khẩu,
nằm trong chương trình nội địa hóa và phát triển công nghiệp hỗ trợ dệt may. Thứ hai
là phát triển vùng bông chuyên canh theo kiểu trang trại và cuối cùng là Đề án phát
triển nguồn nhân lực ngành dệt may.
Nhưng ông Khu cho rằng ba đề án tham vọng trên là bài toán khó, ngay cả mục tiêu
phấn đấu đến năm 2015 tỉ lệ nội địa hóa dệt may đạt khoảng 65-70% cũng rất khó vì
công nghiệp phụ trợ, rồi xây dựng vùng chuyên canh đang gặp nhiều vướng mắc,
trong khi yếu tố gia công lại chi phối quá nhiều.
"Chúng ta đã vạch ra chiến lược thơi trang hóa ngành dệt may song nói thật, mới dừng
lại ở chủ trương thôi, chưa có định hướng và chiến thuật cụ thể, đồng bộ và dài hạn.
Một số công ty Việt Nam đã mạnh dạn đầu tư thay đổi cách làm, sáng tạo ra nhiều
sản phẩm may mặc có hàm lượng chất xám cao được ngươi tiêu dùng chấp nhận. Tuy
nhiên, số này còn khá ít, ví dụ như Việt Tiến, Nino Maxx, Foci… Đa số vẫn làm gia
công theo đơn hàng của đối tác nước ngoài, nếu họ khó khăn như vừa qua là bị ảnh
hưởng ngay”, ông Khu nhìn nhận.
Theo phân tích của ông, một trong những nguyên nhân lớn nhất gây trở ngại cho
quá trình thơi trang hóa dệt may là tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm còn thấp. Đa số
các nguyên phụ liệu sản xuất ra một chiếc áo sơmi hay một chiếc váy hiện vẫn phải
nhập khẩu.
Trên thực tế, chỉ có một số ít công ty là chủ động được nguồn nguyên phụ liệu đầu
vào, chẳng hạn như Dệt Thành Công. "Một năm doanh nghiệp này xuất khẩu khoảng
100 triệu đô la Mỹ thì họ có thể làm hết từ A-Z, không phải nhập khẩu nguyên phụ
liệu", ông Khu nói.
Trong lĩnh vực dệt may, dệt kim có tỷ lệ nội địa hóa cao nhất, khoảng trên 70%. Công
ty Dệt kim Đông Xuân sản xuất các sản phẩm dệt kim cho đối tác Nhật Bản thì họ tự
đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình sản xuất, kể cả nguồn nguyên liệu đầu vào
mà không cần nhập khẩu.
Ông Khu cho rằng tỷ lệ nội địa hóa trong dệt may đang tăng lên để thay thế dần
nguyên phụ liệu nhập khẩu và tăng giá trị gia tăng trong các sản phẩm may mặc của
Việt Nam.
Tuy nhiên, điều khiến vị Thứ trưởng phụ trách ngành dệt may trăn trở là các ngành
công nghiệp hỗ trợ vẫn còn quá yếu so với nhu cầu thực tế: “Có nhiều nguyên nhân
khiến cho việc phát triển các trung tâm nguyên phụ liệu dệt may - một cấu thành thiết
yếu của công nghiệp hỗ trợ - chưa phát triển như mong muốn. Đó là tính liên kết giữa
các bên liên quan còn rất yếu, sự ổn định kém, nhiều đơn vị chỉ muốn “ăn nhanh” chứ
chưa có chiến lược dài hạn”.
Trả lơi câu hỏi của Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online về việc Trung tâm Nguyên phụ
liệu dệt may, da giày Liên Anh tại huyện Dĩ An, Bình Dương phải đóng cửa chỉ sau
một thơi gian ngắn đi vào hoạt động, ông Khu nói trong làm ăn doanh nghiệp phải tính
toán rất kỹ, nhất là với mô hình mới mẻ như Liên Anh, vì nhiều khi không thể có lơi
ngay mà phải sau năm, mươi năm nữa mới có lơi.
Vấn đề chính là Liên Anh phải làm gì và phối hợp như thế nào với các đối tác và Hiệp
hội Dệt may để có thể khai thác tốt trung tâm có vốn đầu tư 100 tỉ đồng này.
Ông Khu gợi ý phía Liên Anh nên chủ động tìm kiếm các đối tác phù hợp để bắt tay
liên kết trên tinh thần đôi bên cùng có lợi. “Ví dụ nhé, ở Nha Trang có công ty chuyên
sản xuất khóa kéo, ở Bình Dương cũng vậy, hay Công ty YKK của Nhật Bản có nhà
máy sản xuất khóa kéo tại Khu chế xuất Tân Thuận. Vậy thì tại sao Trung tâm Liên
Anh không mơi các công ty này vào thuê đất trong trung tâm, tất nhiên phải có ưu đãi
thì ngươi ta mới quan tâm. Hay Dệt Phong Phú và Dệt Hà Nội sản xuất vải gin thì
hoàn toàn có thể đưa vào trung tâm này”, ông Khu nói.
Có thể thấy rằng sự "chết yểu" của Liên Anh không hẳn là do thơi điểm, vấn đề tài
chính hoặc vấn đề cung - cầu trên thị trương. Vấn đề mấu chốt có lẽ nằm ở là sự liên
kết, hợp tác giữa các đơn vị như thế nào để một cửa hàng may đo tư nhân cũng có thể
vào trung tâm mua phụ liệu.
Hơn nữa, không thể hy vọng thành công sẽ đến trong một sớm một chiều, mà quan
trọng là phải có sự đầu tư dài hạn và một tầm nhìn chiến lược.
Ông Khu thừa nhận việc phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may và da
giày của Việt Nam vẫn là bài toán chưa có lơi giải. “Các doanh nghiệp nước ngoài khi
vào Việt Nam thương nắm được giá trị thặng dư rất cao trong chuỗi giá trị, bởi vì họ
có thương hiệu mạnh, cách làm chuyên nghiệp, còn chúng ta chỉ “hớt váng”. Đây là
chuyện chúng tôi rất trăn trở”.
Chiều mai, 16-7, dự kiến Bộ Công thương sẽ phối hợp với Hiệp hội Dệt may Việt
Nam và Trung tâm Nguyên phụ liệu dệt may, da giày Liên Anh tổ chức một cuộc tọa
đàm tại trung tâm này ở huyện Dĩ An, Bình Dương, xoay quanh chủ đề chiến lược
phát triển trung tâm nguyên phụ liệu dệt may, da giày, với sự tham gia của nhiều
doanh nghiệp trong ngành.
Trong sáu tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt xấp xỉ 4,1 tỉ đô la
Mỹ, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trương dệt may nội địa đánh dấu sự
tăng trưởng khá của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) với mức lợi nhuận tăng
48% trong sáu tháng đầu năm so với cùng kỳ 2008.
Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2008 đạt 9,1 tỉ đô la Mỹ, năm 2009 đặt mục
tiêu 9,5 tỉ đô la.
SaigonTimes
Các bài trước:
Phát triển ngành công nghiệp dệt, may, giày dép theo hướng bền vững UBND tỉnh
Đồng Nai đã quyết định phê duyệt quy hoạch phat triên nganh công nghiệp dêt, may và
́ ̉ ̀ ̣
giay dep trên đia ban tinh Đông Nai đên năm 2015, có tính đên năm 2020 với quan điểm
̀ ́ ̣ ̀̉ ̀ ́ ́
phat theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, tạo bước nhảy vọt về chất sản phẩm,
́
tăng nhanh tỷ trong kim ngach xuất khẩu, găn chặt với viêc bao vệ môi trương và phù
̣ ̣ ́ ̣ ̉
hợp với khả năng đáp ứng về nguồn nhân lực, góp phần phat triên kinh tế – xã hôi
́ ̉ ̣
Đông Nai bên vững.
̀ ̀
Thơi gian qua, nganh công nghiêp dệt, may, giày dép trên địa bàn tỉnh phat triên khá manh,
̀ ̣ ́ ̉ ̣
tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2007 đạt 21,6%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng
bình quân 23,5%/năm; năm 2007 đạt 2.540 triệu USD, chiếm tỷ trọng trên 51% kim ngạch xuất
khẩu toàn tỉnh, góp phần phát triển kinh tế của tỉnh và giải quyết nhiều việc làm cho xã hội. tính
đến hết năm 2007 có 188.465 lao động làm việc trong ngành này, chiếm 45,6% trong cơ cấu lao
động toàn ngành công nghiệp. Tuy nhiên, sự phat triên nay con mang tinh tự phat, chưa có sự
́ ̉ ̀ ̀ ́ ́
chon loc, phân kỳ kêu gọi cac dự an đâu tư cung như phân bố hợp lý giữa cac đia phương, vung
̣ ̣ ́ ́ ̀ ̃ ́ ̣ ̀
lanh thô, lam mât cân đôi về cơ câu lao đông và môt số vân đề xã hôi phat sinh về yêu tố con
̃ ̉̀ ́ ́ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ́ ́
ngươi, môi trương, nhà ở…Vì thế, cần thiết phải hình thành định hướng quy hoạch cho ngành
để hội nhập bền vững.
Với mục tiêu phát triển ngành công nghiệp dệt, may, giày dép thành một ngành công nghiệp
chủ lực, mui nhon về xuất khẩu của địa phương, đóng vai trò quan trọng trong phục vụ nhu câu
̃ ̣ ̀
tiêu dùng trong nước, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp
của tỉnh phát triển bền vững, UBND tỉnh Đồng Nai đã phê duyệt quy hoạch phát triển ngành đến
năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
Theo đó, đến năm 2010, giá trị sản xuất hàng công nghiệp dệt, may, giày dép đạt 23.750 tỷ
đồng, chiếm 24% trong cơ cấu toàn ngành công nghiệp, tăng gấp 2,4 lần so với năm 2005. Đến
năm 2015, giá trị sản xuất đạt 40.020 tỷ đồng, chiếm 18,1% trong cơ cấu toàn ngành công
nghiệp, tăng gấp 1,7 lần so với năm 2010. Và đến năm 2020, giá trị sản xuất đạt 56.130 tỷ
đồng, chiếm 11,8% trong cơ cấu toàn ngành công nghiệp, tăng gấp 1,4 lần so với năm 2015.
Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm sản xuất ngành DMG theo hướng sản xuất sản phẩm sạch, sản
phẩm thơi trang cao cấp, sản phẩm có giá trị gia tăng và hàm lượng chất xám cao. Tiếp tục mở
rộng thị trương xuất khẩu và phát triển thị trương nội địa, hạn chế gia công sản phẩm. Đa dạng
hoá việc sản xuất các sản phẩm từ nguồn nguyên liệu trong nước, các sản phẩm ngành nghề
thủ công truyền thống. Nhanh chóng thay thế những thiết bị và công nghệ lạc hậu, nâng cấp
những thiết bị còn khả năng khai thác, bổ sung thiết bị mới, đổi mới công nghệ và thiết bị để
nâng cao chất lượng sản phẩm. Phát triển vùng nguyên liệu bông và tơ tằm để chủ động về
nguyên liệu dệt, giảm nhập khẩu nguyên liệu.
Để tránh ô nhiễm môi trương, sẽ xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp chuyên ngành dệt
may có cơ sở hạ tầng đủ điều kiện cung cấp điện, nước, xử lý nước thải đáp ứng các tiêu chuẩn
môi trương theo quy định của Nhà nước. Thực hiện di dơi và xây dựng mới các cơ sở dệt nhuộm
tại các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để có điều kiện xử lý nước thải và giải quyết tốt việc ô
nhiễm môi trương…
Ngành dệt may Việt Nam trước các thách thức mới
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2009-01-22
Xuất khẩu sụt giảm vì suy thoái kinh tế thế giới, dẫn tới việc công nghiệp dệt may
Việt Nam phải tái cơ cấu. Đợt sàng lọc sắp tới sẽ diễn ra như thế nào?
Photo AFP
Công nhân Việt Nam làm việc ở một xưởng sản xuất áo quần thể thao cho hãng Nike
ở TP. HCM.
Thu hẹp hoạt động
Ngay từ khi chính phủ Việt Nam ban hành các biện pháp chống lạm phát hồi quí
2/2008, các chuyên gia đã nhận định rằng bản thân các doanh nghiệp sẽ phải cải tổ và
nền kinh tế nói chung sẽ phải tái cơ cấu.
Khuyến cáo này càng trở nên khẩn thiết đối với nhiều ngành hàng xuất khẩu của Việt
Nam do cuộc khủng hoảng tài chánh toàn cầu.
Nếu như dệt may Việt Nam luôn ở trong tốp đầu các mặt hàng có kim ngạch cao nhất,
thì nhu cầu cải tổ của nó càng lớn.
Hoạt động của ngành dệt may Việt Nam nói chung khó tránh khỏi sự thu hẹp ngay
trong năm 2009 và những năm sắp tới. Chúng tôi đặt câu hỏi về vấn đề này với ông
Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ Tịch Hội Dệt May Thêu Đan TP.HCM.
Ông Kiệt đưa ra một nhận định hai chiều mà ông gọi là ‘có’ và ‘không’. Đối sự thu
hẹp về qui mô ngành dệt may, ông Kiệt nói:
“Thu hẹp lại ở dạng qui mộ rộng, nói cách khác số doanh nghiệp sẽ có phần thu hẹp
lại. Chúng tôi cho rằng thử thách lớn nhất của cuộc suy thoái này chính là nó và cũng
là cơ hội lớn nhất. Chúng tôi hiểu rằng để kinh doanh một ngành hàng nào nó cũng
đòi hỏi tính chuyên nghiệp, tính hiệu quả.
Chúng tôi cho rằng thử thách lớn nhất của cuộc suy thoái này chính là nó và cũng là cơ
hội lớn nhất. Qua thơi kỳ này các doanh nghiệp nào tính chuyên nghiệp không cao,
hiệu quả không cao thì chắc chắn sẽ bị loại. Như vậy sẽ còn lại những doanh nghiệp
là những tinh hoa.
Ô. Diệp Thành Kiệt
Qua thời kỳ này các doanh nghiệp nào tính chuyên nghiệp không cao, hiệu quả không
cao thì chắc chắn sẽ bị loại. Như vậy sẽ còn lại những doanh nghiệp là những tinh
hoa. Đó là câu trả lời chúng tôi là ‘có’, cái qui mô trên diện rộng sẽ thu hẹp lại.”
Tái cơ cấu
Tuy nhiên ông Diệp Thành Kiệt cũng cho rằng, trên một bình diện khác có thể nói là
hoạt động dệt may đang đổi hướng phát triển:
“Những doanh nghiệp còn tồn tại thì chắc chắn sẽ có những điều kiện tốt hơn và đây
là dịp để người ta rà soát. Người ta phải tập trung vô sản xuất những sản phẩm ở đấy
tính bền vững cao hơn. Tính bền vững sẽ gồm các yếu tố, thứ nhất phải có giá trị tạo
mới cao hơn để đủ sức cạnh tranh và đủ sức nuôi người lao động.
Yếu tố thứ hai là phải lựa chọn thị trường vững chắc và theo năng lực của doanh
nghiệp chứ không chạy theo phong trào. Thí dụ như trước đây thị trường Mỹ mở ra thì
rất nhiều doanh nghiệp lúc nào cũng chằm chằm vô thị trường Mỹ.
Ở tầm Hội thì chúng tôi đã khuyến cáo, những doanh nghiệp nào đang mạnh ở thị
trường nào và vững chãi ở thị trường nào thì nên giữ mà phát triển, đừng có làm theo
phong trào. Phải nói rằng đây là giai đoạn mà các doanh nghiệp phải xem xét lại.
Cho nên thứ nhất tôi nghĩ rằng việc thu hẹp là không tránh khỏi, thứ hai tôi nghĩ rằng
nếu không phải năm 2009 hay 2010, thì chắc chắn trong quá trình phát triển nó sẽ có
một giai đoạn nào đó sẽ có sự sàng lọc mạnh không phải vì cuộc suy thoái này mà sẽ
bằng những hình thức khác.
Trong cái rủi ro là đang trong thời kỳ suy thoái, chúng tôi nghĩ rằng đó cũng là cơ hội
cho những doanh nghiệp có định hướng tốt, nhưng vì trước đây họ phải chạy vạy phải
cạnh tranh theo một số cách nào đó buộc lòng họ phải đa dạng hoá làm theo phong
trào, thì đây là dịp để họ cắt bỏ những cái đó và trở nên chuyên nghiệp hơn”.
Thanh lọc
Sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam luôn ở trong tốp các mặt hàng đem về
nhiều ngoại tệ nhất. Những năm trước giá dầu thế giới luôn tăng cao, khiến dệt may
luôn đứng sau dầu khí.
Trong cái rủi ro là đang trong thơi kỳ suy thoái, chúng tôi nghĩ rằng đó cũng là cơ hội
cho những doanh nghiệp có định hướng tốt. Đây là dịp để họ trở nên chuyên nghiệp
hơn.
Ô. Diệp Thành Kiệt
Tuy vậy khuynh hướng giá dầu sụt giảm mạnh, làm cho các giới chức Nhà nước kỳ
vọng ngành dệt may sẽ dẫn đầu bảng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Hồi giữa năm 2008, các giới chức Bộ Công Thương đặt chỉ tiêu 2009 cho ngành dệt
may khá cao với kim ngạch 11,5 tỷ USD. Sau các biện pháp chống lạm phát rồi ảnh
hưởng khủng hoảng tài chánh toàn cầu, các chuyên gia của Bộ Công Thương và
ngành Dệt May Việt Nam đắn đo về việc hạ chỉ tiêu vừa nói xúông mức 9,5 tỷ USD.
Rõ ràng là đã có hàng trăm doanh nghiệp dệt may nhỏ và vừa bị phá sản, hoặc ngừng
hoạt động thu hẹp sản xuất ảnh hưởng hàng chục ngàn công nhân. Doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài ảnh hưởng nặng nhất, vì họ chuyên may gia công cho các bạn hàng ở
nước ngoài.
Sự sụt giảm các đơn hàng từ nước ngoài và dự báo sự phục hồi chậm ở các nền kinh
tế lớn, khiến cho ngành dệt may đặt vấn đề khai thác thị trương nội địa.
Một doanh nhân ở TP.HCM cho rằng việc đầu tư cho thị trương nội địa lúc này có
nhiều thuận lợi: “Hầu như đa số đều mặc đồ may sẵn, cung cấp thì có nhiều nguồn
lắm. Hàng cao cấp một chút thì An Phước, hoặc ít cao cấp một chút là Việt Tiến.
Nhưng đa số không xài hai hiệu đó vì hơi mắc. Giới trẻ thì họ xài Nino Maxx rồi CT
2000… hoàn toàn là của Việt Nam.
Thực tế số đông họ xài những đồ may sẵn không nhãn hiệu, bán tại các shop thời
trang giá rẻ hơn hàng hiệu nổi tiếng của Việt Nam. Nhưng nói đến các tổ hợp họ
đưa cho shop làm, không có tên tuổi thì giá cả rất rẻ, một món đồ có thể rẻ hơn cả
tiền công may quần tây bên ngoài. Thí dụ tiền công may quần tây bây giờ 120 ngàn
đồng, trong khi có thể mua một cái quần khaki may sẵn với giả chỉ vài chục
ngàn.”
Cũng như nhiều ngành hàng khác, sự sàng lọc sắp tới trong ngành dệt may sẽ có thể
khốc liệt. Những trợ giúp kích cầu của chính phủ sẽ chỉ thực sự hữu ích, nếu nhơ đó
doanh nghiệp xuất khẩu giữ được thị trương nước ngoài, còn doanh nghiệp muốn
chiếm lĩnh thị trương nội địa, sẽ có đủ nguồn lực để đầu tư vào khâu thiết kế, tự túc
về nguyên phụ liệu ngành may cũng như tổ chức được hệ thống phân phối tốt.
Hàng may mặc trong nước: Cơ sở nhỏ tìm lối đi riêng
17:13 23/6/2009
Hàng may mặc trong nước: Cơ sở nhỏ tìm
lối đi riên
Đầu tháng 6, không hẹn nhưng mấy đầu
mối chuyên nhập áo quần nữ từ Trung
Quốc gặp nhau tại chợ An Đông.
Đầu tháng 6, không hẹn nhưng mấy
đầu mối chuyên nhập áo quần nữ từ
Trung Quốc gặp nhau tại chợ An Đông.
Hàng hè, thương lơi ít, cô Liên chuyên
đánh áo quần về Hàng Đào (Hà Nội) cho
biết. “Hơn nữa, ngươi mua cũng chuộng
hàng Sài Gòn” – cô nói
Bỏ yếu
Yêu cầu của cô Liên là phải có xưởng lớn, chất lượng hàng tốt và giữ mẫu cho ngươi
đặt hàng. Bốn ngày hết tới An Đông, rồi qua chợ Tân Bình, cô Liên cũng chọn chỗ đặt
thử vài đơn hàng.
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, chủ cơ sở sản xuất hàng may mặc chuyên bỏ mối chợ Tân
Bình cho biết, các cơ sở may trong nước nếu biết cách tổ chức vẫn có thể tìm chỗ
đứng được trên thị trương hàng may mặc. Nhược điểm chính của cơ sở nhỏ cung cấp
hàng trong nước là mẫu mã ít, kém đa dạng.
Theo bà Ngân, chỉ cần các đầu mối sỉ khéo léo điều tiết, đặt mã hàng riêng cho từng cơ
sở thì cộng lại cũng có hàng trăm mẫu mới mỗi tuần. Bà Ngân đang chuyên chú vào
sắp xếp các công đoạn sản xuất hàng thun, chọn nhà cung cấp vải cao cấp hơn để làm
hàng thơi trang theo catalogue của Pháp, Hàn Quốc.
Theo chủ sạp bán sỉ hàng may mặc Dung Phương ở chợ An Đông, thì đa phần hàng
nhập Trung Quốc có nhược điểm chung là đều có hoạ tiết thiết kế khá rươm rà. Từ
quần áo đồ bộ cho đến áo kiểu, áo thun, đầm và váy sẽ có đính ren, đính hoa kết bằng
vải hoặc đính hạt chiếu lấp lánh, hoặc chạy chữ, nối màu sặc sỡ…
Do vậy, các đầu mối phía Bắc và miền Trung khi đặt hàng đều chọn các kiểu áo thun,
quần jeans, đầm trẻ em kiểu dáng đơn giản, nhưng kỹ thuật cắt may tạo dáng đẹp,
đương may kỹ, chất liệu vải chọn lọc.
Riêng về giá, bà Nguyễn Thy, chủ công ty may Hoàng Mai cho rằng, nếu tổ chức sản
xuất tốt, có thể cạnh tranh được.
Công ty của bà Thy áp dụng phương thức, chào hàng mẫu rồi tổ chức sản xuất nhanh
đáp ứng theo số lượng đơn hàng khách đặt để hạn chế tối đa hàng tồn và làm hàng
theo nấc giá thị trương chấp nhận mua. Bà Thy nói: “Tuy vất vả hơn nhưng hy vọng
bán được rồi thì có đà tăng trưởng tốt”.
Tìm mạnh
Bà Nguyễn Thị Anh Hoa, chủ công ty may Thanh Thảo nhìn nhận: hàng may mặc Việt
Nam có những điểm mạnh mà hàng Trung Quốc không thể hơn, là sự chăm chút của
ngươi thợ, kỹ thuật may hiện đại và độ bền chắc của sản phẩm lâu hơn.
Từng đi đến các chợ hàng sỉ tại Quảng Đông cũng như thủ phủ Quảng Châu, bà Hoa
nói: “Nếu chịu khó xem mẫu, rồi đặt hàng các cơ sở trong nước tôi nghĩ có thể giá sẽ
thấp hơn, mà sản phẩm còn có bảo hành”.
Tương tự như vậy, bà Ngô Thị Báu, giám đốc công ty Foci cho rằng: xu hướng mới,
đang ảnh hưởng mạnh đến giới tiêu dùng thơi trang Việt Nam là trào lưu mặc từ Hàn
Quốc.
Các nhà sản xuất hàng may mặc Việt Nam có thể chọn vị trí cạnh tranh cao hơn hàng
Trung Quốc khi chuyển sang đặt cung cấp nguyên phụ liệu cũng như tham khảo xu
hướng chất kiệu, mẫu mã thơi trang từ Hàn Quốc.
Nghiên cứu của BSA – trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp theo
mẫu 2/10.000 tiến hành vào tháng 10.2008 tại Việt Nam cũng cho thấy làn sóng phim
Hàn tác động đến 65,4% xu hướng tiêu dùng của ngươi trẻ, so với các kênh như thơi
trang châu Âu chỉ 19,1%, bộ sưu tập mới của các nhà thiết kế chỉ 7,4%...
Phát hiện hàng Trung Quốc tuy rẻ nhưng thiếu gu thơi trang, bà Nguyễn Thị Hải, chủ
siêu thị Hà Nội, vừa mới đầu tư vốn tổ chức sản xuất hàng may mặc phân phối cho
các tỉnh, các cửa hàng.
Bà Hải nói: “Có thể tận dụng mua nguyên phụ liệu giá rẻ của Trung Quốc, chọn các
mẫu hợp theo thị hiếu riêng của ngươi tiêu dùng Việt Nam, sản xuất trên dây chuyền
công nghệ hiện đại của các xí nghiệp may xuất khẩu, thì sẽ có sản phẩm đẹp, có độ
bền chắc, hợp thơi trang mà giá cạnh tranh được”.
4 thách thức lớn ngành dệt may xuất khẩu phải đối mặt
Lao Động số 66 Ngày 24/03/2008 Cập nhật: 9:01 AM, 24/03/2008
Ngành dệt may đang gặp khó khăn do giá đầu vào tăng cao, đồng USD mất
giá.
(LĐ) - Mặc dù đặt mục tiêu XK ở mức cao (9,5 tỉ USD) trong năm nay, song 3 tháng
đầu năm, ngành XK chủ lực này đang gặp không ít khó khăn do giá đầu vào tăng cao,
đồng USD mất giá ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận XK, các ngân hàng hiện
vẫn cho vay với lãi suất cao, trong khi đơn giá gia công ngày càng thu hẹp.
Trước những khó khăn này, ngành dệt may sẽ làm gì để đạt kế hoạch XK cả năm.
Ông Vũ Đức Giang, TGĐ Tập đoàn Dệt- May VN (Vinatex) đã trả lơi phỏng vấn Báo
Lao Động.
- Thưa ông, ngành dệt may đang đứng trước nhiều khó khăn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của toàn ngành?
- Đúng vậy, ngay từ những tháng đầu năm, XK dệt may đã đứng trước nhiều khó khăn
để đạt giá trị XK đã đề ra. Có 4 thách thức mà DN đang phải đối mặt. Đó là đối với
các DN không đủ tiềm lực về tài chính, nhiều khả năng DN sẽ dẫn đến phá sản vì
không cầm cự được, đặc biệt là các DN nhỏ.
Thứ hai là khó khăn về thị trương. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, các nhà NK
không đơi nào chấp nhận giá bán sản phẩm của VN quá cao hoặc cao hơn các nước
trong khu vực với lý do "chia sẻ rủi ro". Bởi nếu giá cao thì phải chấp nhận không bán
được hàng.
Thách thức thứ 3 là vấn đề ngươi lao động. Nếu thu nhập của họ không tương xứng
với các khoản trượt giá, đồng lương không đủ cho họ nuôi sống bản thân thì họ sẽ bỏ
việc hàng loạt. Các DN dệt may sẽ không đủ nhân công, dẫn đến không đáp ứng được
đơn hàng.
Thách thức cuối cùng không chỉ đối với riêng ngành dệt may, mà cả các ngành công
nghiệp XK nói chung, là nếu Nhà nước không can thiệp, cứ để đồng VN lên giá so với
đồng USD thì XK sẽ còn chịu thiệt hại nặng nề trong khi chiếm 60% GDP của VN là
nhơ XK.
- Ngành dệt may đã làm gì để chủ động giảm thiểu khó khăn?
- Về phía TĐ, chúng tôi đã chỉ đạo các DN phải thắt chặt chi phí đầu vào, tính toán giơ
sản xuất, nếu đơn hàng không cấp bách lắm thì bố trí sản xuất tránh những giơ cao
điểm có giá điện năng cao. Tiếp đến là chúng tôi tìm giải pháp sản xuất những sản
phẩm có hàm lượng cao, giá trị gia tăng cao và có tính ổn định, lâu dài để tránh phải
làm tăng ca, tăng giơ, thêm chi phí như sản xuất những đơn hàng nhỏ, lấy số lượng bù
chất lượng.
Chúng tôi đặc biệt coi trọng giải pháp tài chính lâu dài, chỉ đạo các đơn vị làm việc với
các ngân hàng phải xây dựng được mối quan hệ bạn hàng chiến lược. Ngân hàng phải
là bạn đồng hành với DN, trong bối cảnh khó khăn, ngân hàng và DN phải cam kết
hợp tác lâu dài vì quyền lợi của nhau để cùng tồn tại, chứ không phải đưa ra yêu sách
với DN.
Bên cạnh đó, chúng tôi kiến nghị Nhà nước có giải pháp vĩ mô kiềm chế việc tăng giá
tiền đồng, có cơ quan dự báo để đưa ra những cảnh báo cho DN trước những biến
động bất lợi từ bên ngoài.
- Năm 2008, ngành dệt may vẫn tiếp tục bị Hoa Kỳ (HK) áp đặt cơ chế giám sát
hàng dệt may. Đây lại thêm một rào cản làm chậm bước tiến?
- Cuối tháng 3 này, một số chuyên gia phía Mỹ sẽ sang VN để giám sát tình hình và
đến tháng 8 họ lại rà soát lần nữa xem DN chúng ta có bán phá giá sản phẩm vào nước
họ không. Chúng tôi vẫn tích cực hợp tác với phía HK, cung cấp thông tin về hoạt
động XK của các DN. Mặt khác, thương xuyên kiểm tra và cảnh báo các DN không vì
lợi ích trước mắt nhằm có việc làm mà giành những đơn hàng giá trị thấp, giá rẻ để
ảnh hưởng đến toàn ngành dệt may.
Mới đây, Hiệp hội Dệt may đã kiểm tra một số đơn vị và phát hiện 6 DN nhận những
đơn hàng có giá thấp hơn so với giá bình quân toàn ngành. Hiệp hội đã báo cáo lên Bộ
Công thương và có văn bản cảnh cáo các đơn vị này.
Chúng tôi cũng kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là Bộ Công thương,
Tổng cục Hải quan, Cục Quản lý thị trương cần quyết liệt hơn trong việc xử lý, ngăn
chặn các đơn vị có hành vi chuyển tải bất hợp pháp hàng dệt may, hoặc sản xuất các
sản phẩm chất lượng thấp, đơn giá rẻ chấm dứt ngay các việc làm này, đừng vì lợi
ích cục bộ làm ảnh hưởng đến uy tín ngành dệt may, dễ dẫn đến nguy cơ Hoa Kỳ áp
đặt thuế chống phá giá một cách vô ích
T+7
Tags: chẳng thấm vào đâu, đào tạo lại, kiểu gì cũng, ngành dệt may, ngành
công nghiệp, lao động, công nhân, tuyển dụng, doanh nghiệp, phương thức,
công ty, số, năm, hàng, hiện
719/0/vj?
z=admaxasia2&dim=280658&abr=$scriptiniframe
">
Lao động ngành dệt may hiện nay chủ yếu tự học, tự đào tạo theo phương
thức kèm cặp trong các nhà máy xí nghiệp là chính. Toàn bộ ngành công nghiệp
này chỉ có 4 trường đào tạo, mỗi năm cho ra lò khoảng 2.000 công nhân. Số công
nhân này chẳng thấm vào đâu so với nhu cầu tuyển dụng, hơn nữa nếu nhận về,
doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại.
Chính vì thế, các nhà máy, công ty may vẫn lựa chọn phương thức tự đào tạo tại đơn
vị. Tại Công ty may Hưng Yên, hằng năm công ty này tuyển dụng hàng trăm lao động
phổ thông, sau đó cho học qua trung tâm dạy nghề và bố trí thợ giỏi kèm việc trong
khoảng 3 tháng. Sau thơi gian này, lao động giỏi có thể tự đứng máy, thao tác chuyền
như một công nhân lành nghề, lâu năm.
Một số đơn vị liên doanh như Kyung Việt, VIT Garment... cũng chấp nhận tuyển dụng
nông dân rồi tự đào tạo thành công nhân của mình. Làm như thế, doanh nghiệp sẽ đào
tạo được theo thế mạnh của mình và tiết kiệm kinh phí đào tạo, trả lương trong thơi
gian học việc của công nhân.
Theo ông Nguyễn Tiến Thông, Giám đốc Công ty Vinatex, hiện công ty có trên
100.000 lao động, hàng năm phải bổ sung khoảng 10.000 lao động, cũng chủ yếu theo
phương thức tự đào tạo như vậy. Vì đào tạo không bài bản nên số lao động thay thế
hàng năm chất lượng không cao, năng suất lao động thấp hơn nhiều so với lao động đã
công tác lâu năm.
Tuy nhiên, để hoàn thành các đơn hàng, bắt buộc doanh nghiệp phải liên tục tuyển
dụng lao động mới, thực hiện làm 3 ca, 4 kíp để đảm bảo tiến độ giao hàng. Và vì thế,
vấn đề chất lượng lao động ngành dệt may lại rơi vào vòng luẩn quẩn: đào tạo không
bài bản, chất lượng lao động không cao dẫn đến năng suất thấp.
Theo ước tính, ngành dệt may Việt Nam hiện có khoảng 700 doanh nghiệp lớn làm
hàng xuất khẩu với tổng số lao động trong ngành hơn 2 triệu ngươi. Tuy nhiên, để đạt
được mục tiêu xuất khẩu đạt 5 tỉ USD, thì số lao động toàn ngành sẽ phải tăng thêm
khoảng 5% và đây sẽ là thách thức lớn đối với ngành dệt may.
Ngành dệt may tìm giải pháp giảm phụ thuộc vào lao
động
Cập nhật: 30/07/2009 19:53
E-mail | Bản in | Lưu xem sau
Kiểm tra tay áo veston xuất khẩu tại Tổng Công ty cổ phần May Nhà Bè. Ảnh: Cao Thăng
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang thiết lập lại
thị trường mới, hàng dệt may Việt Nam (VN) đang có
nhiều lợi thế để gia tăng thị phần xuất khẩu. Dự
báo trong 5 năm tới, dệt may vẫn là mặt hàng xuất
khẩu (XK) chủ lực của VN. Đứng trước bài toán
thiếu lao động tại các đô thị lớn, các doanh nghiệp
(DN) dệt may phải tính đến giải pháp căn cơ để
giảm áp lực phụ thuộc nhiều vào lao động tại đô
thị.
Nhiều doanh nghiệp không còn “yêu nghề”
Theo ước lượng, ngành dệt may VN có khoảng 2.000 DN, với 2 triệu lao động. Trong
đó, 60% DN tập trung ở các tỉnh phía Nam như TPHCM, Bình Dương, Đồng Nai, Long
An. Trong thơi điểm khó khăn ở cuối năm 2008, nhiều DN dệt may tại phía Nam đã
ngưng hoạt động chuyển sang cho thuê mặt bằng, nhà xưởng hoặc chuyển sang kinh
doanh ngành nghề khác. Hội Dệt may - Thêu đan TPHCM cho rằng, phần lớn trong số
này là những DN không tính đến chuyện gắn bó lâu dài với nghề may.
Thực tế hiện nay, ngành dệt may không thể có được con số chính xác về số lượng DN
may đã “chuyển nghề”. Tuy nhiên, theo đánh giá của các DN gắn bó lâu năm với nghề
may tại TPHCM thì đã có nhiều DN may tiếng tăm một thơi không còn nữa, thay vào
đó chủ yếu là các DN lớn thuộc các tập đoàn, tổng công ty. Điều này được lý giải, khi
VN bắt đầu mở cửa, XK dệt may ngày một khá hơn, số lượng DN nở ra. Nhưng sau
một thơi gian, khi sự cạnh tranh về thị trương, chất lượng ngày một khắt khe hơn,
nhiều DN không đủ năng lực đã phải rút lui. Và nay, khi lao động VN không còn là lao
động rẻ, dẫn đến sự cạnh tranh về giá, nguồn lao động mất ổn định, nhiều DN tư
nhân đã không trụ nổi với nghề. Đây là xu hướng tất yếu trong bối cảnh thị trương
hiện nay.
Di dời cơ sở sản xuất về nông thôn
So với 2 năm trước, chi phí trả cho ngươi lao động tại VN đã tăng lên, tuy nhiên so với
khu vực ASEAN, vẫn rẻ hơn của Thái Lan, Malaysia. Đó là chưa kể cuối năm 2008,
Trung Quốc đã thay đổi một số chính sách có lợi cho ngươi lao động, nên chi phí tăng
20%. Đây cũng là lý do mà các nhà nhập khẩu nước ngoài chuyển đơn hàng sản xuất
về các nước có nhân công rẻ hơn, trong đó có VN.
Nhơ vào những lợi thế trên, hàng dệt may XK vẫn có được dấu hiệu khả quan trong
xu hướng giảm của thị trương. Theo đánh giá, ngành dệt may tiếp tục hồi phục trong
những tháng cuối năm 2009, đồng thơi nhiều khả năng tăng trưởng dần trở lại trong
năm 2010. Tuy nhiên, sự “kỳ lạ” của thị trương lao động tại VN hiện nay đã đặt ra
nhiều câu hỏi cho các DN và ngành quản lý. Hiệp hội Dệt May VN đánh giá, vấn đề
thiếu lao động của ngành dệt may hiện nay chỉ được giải quyết tương đối cơ bản
bằng việc thực hiện song song hai giải pháp: Một, cải tiến quản lý công nghệ để nâng
cao năng suất lao động, chất lượng, gia tăng giá trị sản phẩm. Từ đó có điều kiện tăng
thu nhập để thu hút lao động. Hai là, từng bước di dơi các cơ sở sản xuất hàng phổ
thông ra khỏi các khu vực thành thị, đưa về những vùng có lực lượng lao động nông
nhàn để giảm áp lực thiếu lao động tại đô thị. Vấn đề này cũng nằm trong chính sách
di dơi sản xuất của TPHCM đối với các ngành có thâm dụng lao động cao như dệt
may, da giày nhằm giảm áp lực cho đô thị. Hiện nay, tỉnh Bình Dương cân nhắc với
các dự án có sử dụng nhiều lao động vì việc này dễ dẫn đến cạnh tranh giữa các DN
đẩy mức lương tăng cao hơn. Một số DN lớn tại TPHCM xác định gắn bó với nghề
may đã tiên phong mở rộng, chuyển sản xuất về các tỉnh. Tuy nhiên, phần lớn DN còn
lại vẫn chưa thiết tha đến việc di dơi. Phải chăng các DN này chưa tính đến việc sẽ
tiến xa với ngành may?
Cần có thời gian xây dựng tác phong công nghiệp
Tương lai cảng Sài Gòn (TPHCM) sẽ di dơi, với áp lực về giao thông và cơ sở hạ
tầng hiện nay tại TPHCM thì bắt buộc các DN dệt may có nhà xưởng sản xuất tại
trung tâm TP phải tính đến việc di dơi về các tỉnh, ông Lê Quang Hùng, Chủ tịch Hội
đồng quản trị Công ty CP SX-TM May Sài Gòn (Garmex) nhận định. Hiện Garmex đã
xây dựng nhà máy và chuyển sản xuất bớt xuống nhà máy Tân Mỹ tại xã Hắc Dịch,
huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và sản xuất trên chuyền LEAN với công
nghệ tinh gọn, hiện đại. Các DN tại TPHCM đã đầu tư nhà máy sản xuất tại các tỉnh
cho biết, sẽ khó có ngay được sự hài lòng về tay nghề lao động tại địa phương, phải
mất 3 - 5 năm đầu tư hoạt động sản xuất mới được tác phong công nghiệp như ở TP.
Đây là vấn đề mà tất cả DN phải tính đến, khi mà ngành dệt may vẫn là một trong
những ngành XK chủ lực của VN trong 5 - 10 năm tới.
Quan hệ lao động trong DN dệt may: Còn nhiều bất
ổn
Nhiều ngươi lao động không biết tới thỏa ước lao động tập thể
Cập nhật lúc 03:04 - Thứ sáu, 26/06/2009
VCCI vừa có cuộc khảo sát về lao động trong ngành dệt may, cuộc khảo sát cho
thấy vấn đề nổi lên trong ngành dệt may, chính là những “xung đột” trong quan
hệ lao động.
Ngành dệt may là một trong những ngành có quan hệ lao động phát triển sôi động nhất
trong những năm gần đây. Từ sự biến động lao động, các cuộc tranh chấp lao động,
đình công, lãn công tự phát xảy ra ngày càng nhiều, nhiều giải pháp đã được nhà nước
đưa ra để bình ổn quan hệ lao động... Nhưng trên thực tế để giải quyết thấu đáo được
vấn đề quan hệ lao động vẫn đang là bài toán khó đối với các DN.
Thoả ước lao động tập thể - nặng tính hình thức
Theo kết quả khảo sát thì có tới 88% DN cho rằng thoả ước lao động tập thể là cần
thiết và DN đã có thoả ước và rằng nó giống như một "Bộ luật do chính DN soạn",
một nền tảng pháp lý để giải quyết các mối quan hệ giữa Cty và ngươi lao động. Tuy
nhiên, điều đáng ngạc nhiên là có tới 34% DN cho rằng việc ký thoả ước lao động tập
thể chỉ để đáp ứng một yêu cầu pháp lý của cơ quan quản lý lao động. Trong số các
DN này, có 23,5% là DNNN, 29,4% là DNTN và 47,1% là DN FDI.
Giải thích về vấn đề này, ông Phùng Quang Huy - Giám đốc văn phòng giới sử dụng
lao động VCCI cho biết, các DN này đều cho rằng họ được cơ quan quản lý lao động
thúc giục phải sớm ký kết thoả ước chứ cũng không xuất phát từ nhu cầu nội tại của
DN. Do đó họ soạn ra một bản thoả ước theo mẫu và tổ chức ký kết với công đoàn.
Quá trình thương lượng gần như không diễn ra và thoả ước trở thành một văn bản
hình thức.
Cũng theo ông Phùng Quang Huy khi nhóm khảo sát hỏi ngươi lao động (NLĐ) có biết
về sự tồn tại và nội dung của các thoả ước đó hay không. Trong số 10 NLĐ được lựa
chọn bất kỳ, không có ai biết về thoả ước lao động của Cty mình. Thậm chí nhiều
công nhân còn không hiểu thoả ước là gì, có khác gì so với hợp đồng lao động hay
không. "Khi NLĐ không biết và không được tham gia việc thương lượng thoả ước,
thoả ước đó sẽ không phát huy tác dụng tạo sự ổn định về quan hệ lao động và sự gắn
bó của NLĐ với DN" - ông Huy nói.
Một điều đáng nói nữa là nhiều DN tỏ ra không mặn mà với việc tham gia thương
lượng, ký kết các thoả ước lao động cấp ngành. 86% DN cho rằng hiện chỉ nên ký kết
thoả ước ở cấp DN vì mỗi DN có đặc thù riêng, rất khó có một thoả ước đáp ứng
được điều kiện của mọi DN.
Đối thoại là biện pháp quan trọng
Đây là lơi khuyên của các chuyên gia VCCI khi đề cập vấn đề quan hệ lao động trong
DN. Mặc dù vậy, các con số và kết quả của cuộc khảo sát khiến ngươi đọc cảm thấy
suy nghĩ nhiều về tình hình quan hệ lao động hiện nay trong DN. Kết quả khảo sát cho
thấy, hiện nay ở các DN, việc duy trì kênh đối thoại một cách không chính thức giữa
ngươi quản lý ở cấp tổ, xưởng và Cty với NLĐ là cách thức phổ biến nhất mà các DN
áp dụng. Có 58% DN lựa chọn phương án này. Tại những DN có quy mô vừa hoặc
nhỏ, NLĐ thương tìm gặp trực tiếp hoặc điện thoại, gửi tin nhắn cho ngươi quản lý
hoặc giám đốc để hỏi về chế độ chính sách, tiền lương, giơ làm việc... Mặc dù có tới
46% DN có hộp thư góp ý nhưng biện pháp này không đạt hiệu quả cao.
Ngoài các hình thức trên, 26% DN có những hình thức đối thoại riêng. Ví dụ một số
DN nước ngoài có một bộ phận trong phòng Nhân sự hoặc phòng hành chính chuyên
tiếp xúc trả lơi các thắc mắc của NLĐ. Cty May Sài Gòn 3 lại tổ chức chào cơ đầu
tuần và sau đó TGĐ trò chuyện với NLĐ về tình hình Cty và trả lơi trực tiếp những
bức xúc của công nhân. Một số DN khác thì dùng hệ thống email để trao đổi thông tin
hoặc thông báo cho NLĐ qua loa phát thanh lắp tại các xưởng.
Theo các chuyên gia về quan hệ lao động, mặc dù hộp thư góp ý là một hình thức đối
thoại tốt nhưng nếu áp dụng không đúng cách có thể không đạt được hiệu quả như ý.
Ví dụ, nhiều DN để hộp thư góp ý ở ngay cổng các phân xưởng hoặc những vị trí
công khai khiến NLĐ muốn bỏ thư cũng... ngại vì dễ bị nhìn thấy. Nhiều DN quy định
chỉ giải quyết các thư có ghi rõ tên họ ngươi gửi, không chấp nhận thư nặc danh. Quy
định này có thể khiến NLĐ e dè khi muốn đối thoại về những vấn đề tế nhị hoặc dễ
gây tranh cãi.
Khảo sát này cũng cho thấy chính những DN xảy ra đình công trong thơi gian qua đa số
đã rất thơ ơ trong việc đối thoại với NLĐ hoặc đối thoại mang tính hình thức, nhiều
DN chỉ có hộp thư góp ý và giao việc giải quyết khiếu nại cho phòng nhân sự hoặc
nhân quyền. Có DN thì uỷ quyền hoàn toàn cho công đoàn mà không chủ động tự đối
thoại với NLĐ. Khi có đình công xảy ra các DN này mới quan tâm tới việc xây dựng
một cơ chế đối thoại, giải quyết khiếu nại mang tính phối hợp, đa chiều...
Để giải quyết vấn đề quan hệ lao động trong DN, thiết nghĩ, đối thoại giữa NLĐ và
NSDLĐ là việc làm cần thiết. Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy đối thoại
thương xuyên, hai chiều giữa NSDLĐ và NLĐ là yếu tố quyết định trong việc xây
dựng quan hệ lao động lành mạnh, hài hoà tại DN. Ngược lại, khi nhìn vào các hình
thức đối thoại của một DN cũng có thể đánh giá phần nào chất lượng quan hệ lao
động của DN đó. Bởi xây dựng một quan hệ lao động tốt là yếu tố quyết định sự cạnh
tranh của DN nếu xét đến tận cùng của sự cạnh tranh. Bản thân quan hệ lao động, bên
trong đã gắn chặt các vấn đề về tiền lương, chi phí DN... nên tạo dựng một quan hệ
lao động tốt là tạo ra nguồn lực cho sự phát triển của DN.
Thách thức lớn đối với ngành dệt may Việt Nam
01/01/2001 - Việt Nam đổi mới
Hà Nội (Ttxvn 1/1/2001)
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt
Nam thơi kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành dệt may Việt
Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển
khá mạnh.
Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thơi gian thu hồi vốn nhanh,
thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trương trong và ngoài nước
với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách
thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cương quốc xuất khẩu lớn như Trung
Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc.... Đặc biệt, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập
khẩu hàng dệt may từ các nước Asean vào Việt Nam sẽ giảm từ 40-50% như hiện nay
xuống tối đa còn 5% nên hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt với hàng
nhập từ các nước trong khu vực.
Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm đến
22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm
tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải
lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Những năm qua, tuy đã
nhập bổ sung, thay thế 1.500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt
trên tổng số máy hiện có là 10.500 máy, thì cũng chỉ đáp ứng khoảng 15% công suất
dệt.
Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng
bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần
Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu
ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu làm gia
công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu
như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài...
Năm 2000, ngành dệt may Việt Nam tuy đã có nhiều yếu tố thuận lợi để tạo đà có
tiến trình hội nhập sắp tới như Quota thị trương Eu được tăng 30%, bước đầu mở
được thị trương Mỹ và thị trương vùng Trung Cận Đông, châu Phi; kinh tế Nhật Bản
đang hồi phục khiến cho thị trương này tiêu thụ hàng dệt may Việt Nam tăng hơn
trước. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may cũng gặp không ít khó khăn do giá sản phẩm
giảm liên tục, giá cả ở thị trương Nhật từ năm 1998 giảm bình quân 12% mỗi năm do
áp lực cạnh tranh của hàng Trung Quốc. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu lại tăng; đặc
biệt thị trương phi quota, trong đó thị trương Đông Âu giảm mạnh từ giữa năm.... Do
vậy, theo đánh giá của ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam: chỉ
tiêu xuất khẩu của toàn ngành hết năm 2000 ước chỉ đạt 1.870 triệu Usd, tăng 6% so
với mức thực hiện năm 1999; trong đó, Tổng Công ty Dệt May Việt Nam (Vinatex)
ước đạt 550 triệu Usd, tăng 12% so với năm 1999.