Chủ nghĩa Marx-Lenin là học thuyết chính trị do Karl Marx và Friedrich Engels sáng
lập và được Vladimir Ilyich Lenin phát triển và hoàn thiện. Chủ nghĩa Marx-Lenin là
thế giới quan, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân, biểu hiện lợi ích của giai
cấp này trong nhiệm vụ xây dựng lại xã hội một cách cách mạng. [cần dẫn nguồn]
Nền tảng của Chủ nghĩa Marx-Lenin
Chủ nghĩa Marx-Lenin gồm có:
1. Triết học Marx-Lenin
2. Kinh tế chính trị Marx-Lenin
3. Chủ nghĩa xã hội khoa học
Cơ sở lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa Marx-
Lenin
Trong khoa học tự nhiên có:
• Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
• Thuyết tế bào
• Thuyết tiến hóa
Những phát minh quan trọng này giúp Marx và Engels hình thành quan điểm duy vật
biện chứng [cần dẫn nguồn].
Trong khoa học xã hội có:
• Chủ nghĩa duy vật của Ludwig Feuerbach
• Phép biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel
• Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán: các đại diện là Henri de Saint-Simon,
Robert Owen, Charles Fourier
• Kinh tế chính trị cổ điển Anh: các đại diện là David Ricardo, Adam Smith
Từ những cơ sở về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, Marx và Engels sáng lập ra
chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, từ đó luận giải một cách khoa
học sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Lịch sử
[sửa] Chủ nghĩa Marx-Lenin ở Việt Nam
Chủ nghĩa Marx-Lenin là cơ sở lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, được coi là vũ
khí lý luận của giai cấp công nhân và được Hồ Chí Minh đưa vào Việt Nam[cần dẫn nguồn].
Trước khi chủ nghĩa Marx-Lenin xuất hiện ở Việt Nam, những phong trào giải phóng
dân tộc: phong trào Cần Vương, khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, của Hoàng Hoa
Thám, các cuộc vận động của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học...
đều thất bại; nhưng kể từ khi Hồ Chí Minh đem chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam,
phong trào đấu tranh giành độc lập của Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ.
Đầu tiên, sau gần 100 năm bị đô hộ bởi thực dân Pháp và đế quốc Nhật Bản, năm
1945 dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản, Việt Nam đã giành được
chính quyền từ tay đế quốc Nhật Bản và tuyên bố thành lập nước Việt Nam độc lập
vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tiếp theo là chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954
trước thực dân Pháp sau khi Pháp trở lại Đông Dương năm 1946.
Sau đó, Hoa Kỳ đã hậu thuẫn chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền nam Việt Nam,
họ cho rằng hành động đó là để ngăn chặn làn sóng cộng sản lan xuống các quốc gia
Đông Nam Á. (Xem thuyết Domino) Cuộc chiến kéo dài hơn 30 năm, kết cục là Mỹ đã
rút khỏi Việt Nam sau khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký vào tháng 1 năm 1973 và
chính phủ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 của đảng
cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Marx-Lenin được xem là kim chỉ nam trong mọi hành động của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam để đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Marx-Lenin được nghiên cứu và được coi là môn học chính trong hệ thống
giáo dục đại học ở Việt Nam.
Ngày nay, với những thay đổi về phương thức sản xuất, sự phát triển vượt bậc của
khoa học công nghệ và đặc biệt là sự toàn cầu hóa, bằng mức lương cao và các chế
độ đãi ngộ hậu hĩnh, hình thức bóc lột của giai cấp tư bản và những chính thể tư bản
đã phát triển vượt bậc, làm cho người lao động bị bóc lột cảm thấy dường như có sự
ưu đãi nào đó nhưng thực chất là vẫn đang bị bóc lột. Do vậy với sự phát triển thịnh
vượng của Trung Quốc, Việt Nam và hiện tượng chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia Nam
Mỹ thời gian gần đây càng cho thấy chủ nghĩa Marx-Lenin là một học thuyết tiến bộ
của nhân loại được áp dụng trong thiên niên kỷ mới để giúp người lao động nhận thức
ra được bản chất bất công của chủ nghĩa tư bản, đấu tranh cho một xã hội tiến bộ
hơn, phát triển hơn, đó là chủ nghĩa xã hội [cần dẫn nguồn].
[sửa] Chủ nghĩa Marx-Lenin ở Liên Xô
[sửa] Chủ nghĩa Marx-Lenin nhìn từ nhiều phía
Chủ nghĩa Marx-Lenin vẫn luôn bị các nước tư bản phê phán và cho rằng xã hội xã hội
chủ nghĩa là một xã hội không tưởng. Nhưng những học giả tư bản có nghiên cứu kỹ
về chủ nghĩa Marx-Lenin rất e sợ nó và xem nó như một bóng ma ám ảnh chủ nghĩa tư
bản, vì nó vạch ra những khiếm khuyết không thể khắc phục của chủ nghĩa tư
bản[cần dẫn nguồn].
Các chế độ cộng sản là hiện thân của chủ nghĩa Marx-Lenin.
Gần đây, năm 2007, Hoa Kỳ khánh thành "Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa
Cộng sản".
Hội Đồng Âu châu vào đầu năm năm 2006 đã biểu quyết Nghị quyết 1481 kết án chế
độ cộng sản là "chế độ diệt chủng".
Tại Nga và Đông Âu, chế độ cộng sản đã sụp đổ vào thập niên 1990. Nhà nước Liên
Xô, thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga, một biểu tượng thành công của chủ
nghĩa Marx-Lenin trên quê hương của Lenin đã chỉ tồn tại được 74 năm.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Lý luận nền tảng công cuộc đổi
mới ở Việt Nam
Trải qua 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng mà Đảng ta rút
ra là: “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không
phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức
đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là
nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”(1).
Thực tiễn phong phú và những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới hai mươi năm
qua đã chứng minh giá trị to lớn của bài học đó, đồng thời cho thấy việc khẳng định
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của
Đảng ta. Tất nhiên, để làm rõ bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý
luận ấy của Đảng ta, cần phải phân tích và làm rõ tính khoa học và cách mạng trong
các luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhất là phải làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong tiến trình thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước.
Hiển nhiên, đó là một công việc to lớn, đòi hỏi công sức nghiên cứu khoa học
của rất nhiều người.
Một điều rõ ràng là, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khi
thực tiễn đất nước nảy sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận,
Đảng ta đã luôn luôn đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa
Mác-Lênin để tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn và đưa ra được đường lối, chủ
trương, chính sách cùng với bước đi và cách làm cụ thể phù hợp với thực tiễn cách
mạng nước ta. Chẳng hạn, trong quá trình đổi mới đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng ta đã coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội
là khâu đột phá, coi đổi mới kinh tế là trọng tâm và phải đi trước một bước. Đảng ta
cũng khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải gắn kết với nhau, nhưng
đổi mới chính trị phải trên cơ sở thành tựu của đổi mới kinh tế và phục vụ cho tiếp
tục đổi mới kinh tế, ngược lại, đổi mới kinh tế phải đúng định hướng chính trị, phải
góp phần tăng cường ổn định chính trị. Thực tiễn những năm đổi mới đã mang lại
nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên.
Có thể khẳng định, chúng ta không thể đưa công cuộc đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đến thành công nếu xa rời lập trường quan điểm,
phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, việc tìm ra
những giải pháp để đưa công cuộc đổi mới đến thành công không thể không gắn liền
vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh thông qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn theo phương pháp khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Như vậy, đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
một quá trình thống nhất. Đó là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, sự thống nhất
giữa tính khoa học và tính cách mạng của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười thể hiện sự ưu việt của chủ nghĩa Mác-Lênin
so với các trào lưu cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Chính từ đây chủ nghĩa xã hội không chỉ còn là lý tưởng, là học thuyết mà là hiện thực
cụ thể.
1. Thành công của cách mạng Tháng Mười khẳng định rằng chỉ có cuộc cách mạng
dưới sự lãnh đạo của một đảng dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin
giành chính quyền về tay giai cấp vô sản mới thực sự đem lại quyền lợi cho người lao
động.
Cuộc cách mạng Nga lần đầu tiên do giai cấp công nhân lãnh đạo được khởi đầu từ
ngày chủ nhật 9/1/1905. Tuy nhiên cuộc diễu hành của những người lao động đã bị
đàn áp dã man. Chính phủ Sa hoàng đã dùng mọi thủ đoạn nhằm dập tắt phong trào
cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tiếp tục phát
triển và bùng lên mạnh mẽ vào tháng 2/ 1917. Chỉ trong vòng hơn một tuần toàn bộ
chính quyền Sa hoàng đã sụp đổ. Tuy nhiên do bối cảnh cụ thể đương thời về tương
quan lực lượng, Ban chấp hành Xô viết Pêtơrôgrát đã thông qua Nghị quyết chuyển
giao chính quyền cho giai cấp tư sản. Và sau đó chính phủ lâm thời được thành lập đã
phản bội lại lợi ích của những người cách mạng. Trước tình thế đó, nhân dân Nga
dưới sự lãnh đạo của đảng cách mạng do Lênin đứng đầu đã tiếp tục cuộc cách mạng
lật đổ chính phủ tư sản lâm thời, giành chính quyền về tay các Xô-viết đại biểu cho
nhân dân
Ngày 25/10, các chiến sĩ cách mạng từ chiến hạm Rạng Đông đã nã pháo vào Cung
điện Mùa Đông và sau đó bắt giữ toàn bộ chính phủ lâm thời. Đêm 25/10 tại Điện
Xmôn-nưi Đại hội II các Xô viết đã họp và tuyên bố cách mạng thành công, toàn bộ
chính quyền về tay các Xô-viết.
Với thắng lợi này lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga một chính quyền của công-nông
và những người lao động được thiết lập. Trong những ngày đầu chính quyền đã thông
qua những sắc lệnh khẳng định và thể hiện rõ bản chất của một chính quyền vì dân.
Đó là Sắc lệnh về hòa bình, Sắc lệnh về ruộng đất; đồng thời công bố nhiều chính
sách ưu việt như ngày làm việc 8 giờ, bảo hiểm xã hội, giáo dục không mất tiền, tự
do tín ngưỡng, nam nữ bình đẳng.....Những lý tưởng về một xã hội công bằng, dân
chủ, một xã hội xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên trên thế giới đã và đang hiện thực hóa.
2. Cách mạng Tháng Mười thành công đã hiện thực hóa lý tưởng về một xã hội mới –
XHCN, mà trước đó chỉ là những ước mơ.
Trước khi loài người được chứng kiến về sự tồn tại hiện thực của một chế độ xã hội
mà ở đó giai cấp công và những người lao động làm chủ, chủ động tạo dựng cho mình
một cuộc sống ấm no, bình đẳng, thì trong lịch sử phát triển xã hội loài người cũng đã
xuất hiện các tư tưởng biểu hiện nguyện vọng muốn thiết lập một xã hội không có
tình trạng người bóc lột người và các hình thức bất bình đẳng khác về xã hội. Lênin đã
viết: " Đã lâu rồi, đã hàng bao thế kỷ nay, thậm chí hàng ngàn năm nay, nhân loại
mong ước thủ tiêu "lập tức" mọi sự bóc lột" .
Nhưng những mong muốn, ước vọng của tầng lớp lao động trong các xã hội cũ vẫn
chỉ là những điều xa vời, không thực tế, họ không tìm ra được con đường, cách thức
để thực sự giải phóng mình khỏi áp bức, bất công. Cũng có không ít các cuộc khởi
nghĩa, đấu tranh, có cả cuộc cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ xã hội cũ, thay đổi cuộc
sống, song hầu như đã thất bại, hoặc khi thành công lại vẫn không vượt ra khỏi vết xe
cũ, không từ bỏ được cái căn nguyên của chế độ người bóc lột người, của bất bình
đẳng, đó là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Chính vì vậy chế độ phong
kiến phủ định chế độ chiếm hữu nô lệ, rồi chế độ TBCN phủ định chế độ phong
kiến, đều là nấc thang trong tiến trình phát triển của văn minh nhân loại, song đó cũng
lại chính là nấc thang bóc lột đa dạng hơn, tinh vi hơn. Và khát vọng về một xã hội
công bằng, bình đằng, không còn người bóc lột người của những con người lao động
càng cháy bỏng hơn.
Cách mạng Tháng Mười thành công, chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động được thiết lập, những tàn tích của chế độ cũ Sa hoàng bị xóa bỏ, giai cấp vô
sản và nhân dân lao động nước Nga thoát khỏi ách áp bức thống trị của chính quyền
phong kiến chuyên chế và tư sản phản động. Người dân bắt đầu một cuộc sống mới,
cuộc sống của người làm chủ xã hội.
3. Cách mạng Tháng Mười thành công đã chứng minh trên thực tế luận điểm về: sụp
đổ tất yếu của CNTB và loài người sẽ quá độ sang một xã hội mới mà ở đó không còn
người bóc lột người
Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của khoa học-kỹ thuật tiên tiến đương thời và
trực tiếp nghiên cứu quá trình phát triển của CNTB, Mác, Ănghen và sau này là Lênin
đã xây dựng và phát triển học thuyết cách mạng, khoa học và nhân đạo để giải phóng
giai cấp công nhân và những người lao động khỏi áp bức bất công. Học thuyết Mác-
Lênin đã chỉ rõ sự sụp đổ tất yếu của CNTB và loài người sẽ quá độ sang một xã hội
mới mà ở đó không còn người bóc lột người.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội diễn ra
theo qui luật của nó, việc thay thế hình thái kinh tế xã hội này bởi một hình thái kinh
tế xã hội khác cao hơn không phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua cuộc
cách mạng xã hội, đó là cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt.
Trước cách mạng Tháng Mười, Công xã Paris là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên diễn
ra vào cuối thế kỷ XIX. Công xã Paris cho thấy sự chống phá điên cuồng của giai cấp
tư sản. Cuộc cách mạng xã hội là cuộc đầu tranh giai cấp một mất, một còn, gay go,
quyết liệt. Cuộc cách mạng vô sản đầu tiên này đã báo hiệu sự sụp đổ tất yếu của
CNTB.
Với cách mạng Tháng Mười, CNTB đã bị chặt đứt một mắt xích quan trọng, bắt đầu
cho thời kỳ sụp đổ tất yếu, hiện thực của CNTB, và đồng thời mở ra một thời kỳ mới-
thời kỳ quá độ lên CNXH trong tiến trình phát triển của nền văn minh nhân loại.
4. Cách mạng Tháng Mười không chỉ hiện thực hóa mục tiêu cách mạng là giải phóng
con người khỏi áp bức, bất công, xóa bỏ chế độ tư hữu, mà còn khẳng định con
đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên thế giới; đồng
thời khẳng định vai trò, sứ mệnh của lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải
phóng và xây dựng xã hội mới, đó là giai cấp công nhân.
Như ta biết Học thuyết Mác-Lênin là học thuyết lần đầu tiên đã chỉ rõ mục tiêu, con
đường và lực lượng cách mạng để giải phóng và xây dựng xã hội mới. Với cách mạng
Tháng Mười Nga giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga dưới sự lãnh đạo của
Đảng Mácxit thông qua cách mạng vô sản đã đánh đổ chính quyền tư sản, xây dựng
chính quyền công-nông, xóa bỏ chế độ tư hữu, mở ra thời kỳ mới, thời kỳ phấn đấu
không ngừng để biến những lý tưởng XHCN trở thành hiện thực.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười đã khẳng định mục tiêu, con đường và lực
lượng của cuộc cách mạng vô sản không chỉ trên phương diện lý luận, mà còn trên
phương diện thực tế. Chính vì điều này mà chủ nghĩa Mác-Lênin càng có sức tỏa sáng
và ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào giải phóng dân tộc ở các quốc gia trên thế
giới. Cách mạng Tháng Mười đã làm cho CNXH từ một khoa học trở thành hiện thực.
Và với sức lan tỏa của nó đã đưa CNXH hiện thực ở một quốc gia thành một hệ thống
sau chiến tranh thế giới thư II.
5. Khi dự đoán về khả năng của cách mạng, Mác-Ăngghen cho rằng, cách mạng vô
sản sẽ nổ ra ở khâu yếu nhất của CNTB. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB có
bước phát triển mới, chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc.
Trên cơ sở phân tích đặc điểm phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã
chỉ ra khả năng cho cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thậm
chí ở một nước. Trong hoàn cảnh đó, Lênin (1870–1924) đã vận dụng sáng tạo và phát
triển học thuyết của Mác-Ăngghen để giải quyết những vấn đề cơ bản của cách
mạng vô sản; đồng thời đấu tranh bảo vệ lý luận Mác, phê phán không khoan nhượng
với tư tưởng xét lại, cơ hội…
Khi đề cập đến tình thế cách mạng ở Nga không ít người cho rằng vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX nước Nga TBCN chưa đạt đến trình độ phát triển văn minh đầy
đủ để thực hiện cách mạng XHCN. Song dựa trên phép biện chứng cách mạng của
chủ nghĩa Mác, Lênin đã đánh giá phân tích tình hình nước Nga đương thời là do Nga bị
cuốn vào vòng xoáy của cuộc chiến tranh đế quốc hao người tốn của đã đẩy mâu
thuẫn xã hội giữa giai cấp thống trị với quần chúng lao động bị áp bức lên đỉnh điểm;
đồng thời cũng vào thời điểm này những đảng viên cộng sản bônsêvich là lực lượng
chính trị có uy tín, là đại diện chân chính cho mọi tầng lớp nhân dân, đủ năng lực lãnh
đạo cách mạng. Do vậy cách mạng Tháng Mười Nga không phải là sự kiện ngẫu
nhiên mà nó diễn ra hợp qui luật và sự thắng lợi của cuộc cách mạng này càng chứng
tỏ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin.
6. Sau cách mạng Tháng Mười, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhân dân
xôviết vượt qua nhiều khó khăn thử thách, với sự hy sinh to lớn cả về người và của
tiếp tục bảo vệ và phát triển những lý tưởng về chủ nghĩa xã hội, phát triển CNXH
trong hiện thực
- Lý tưởng Cách mạng Tháng Mười cổ vũ, động viên nhân dân Liên xô trong cuộc
chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941-1945). Chính với những chính sách hiện thực hóa
các nguyên tắc của xã hội mới vì người dân lao động đã tạo ra niềm tin sâu sắc, vô bờ
bến với triệu, triệu người dân Xô viết vào sự lãnh đạo của chính đảng mác-xít, huy
động toàn bộ sức người, sức của vào sự bảo vệ chế độ và xây dựng xã hội mới
- Sự lan tỏa của lý tưởng cách mạng Tháng Mười đã thức tỉnh và thúc đẩy các dân tộc
bị áp bức đứng lên tự giải phóng mình. Và kết quả là hàng loạt nước đã xác định đi
theo con đường của cách mạng Tháng Mười. Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ thắng
lợi trong hiện thực ở một quốc gia mà ở nhiều quốc gia, từ châu Âu đến châu Á rồi
châu Mỹ. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống thế giới.
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai Liên Xô và các nước XHCN đã đạt được những
thành tựu to lớn trong xây dựng và phát triển đất nước. Nhiều nước đã thực hiện thành
công quá trình công nghiệp hóa, nâng cao quốc lực và cải thiện đời sống nhân dân.
Trên vũ đài quốc tế, lực lượng của CNXH ngày càng tỏ ra hơn hẳn chủ nghĩa đế quốc,
lực lượng hòa bình ngày càng tỏ ra mạnh hơn hẳn lực lượng chiến tranh.
- Chủ nghĩa xã hội hiện thực tuy còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện, tuy rằng sau này đã rơi vào tình trạng khủng hoảng do các nguyên nhân
khách quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài, song những gì mà CNXH đem lại cho
người dân, cũng đã buộc các thế lực chống đối phải xem xét, điều chỉnh chính sách,
đồng thời cũng vì vậy các thế lực đế quốc càng điên cuồng, chống phá quyết liệt hòng
tiêu diệt CNXH.
7. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
vào cuối những năm 80-đầu những năm 1990 của thế kỷ XX không phải sự phủ định
chủ nghĩa Mác- Lênin, không phải là sự phủ định chủ nghĩa xã hội cả trên phương
diện lý luận và thực tiễn. Đó chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình phát triển cụ thể không
được điều chỉnh kịp thời trước điều kiện mới.
-Về nguyên tắc để đạt được mục tiêu là xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa, có những cách thức, mô hình khác nhau tùy những điều kiện cụ thể của mỗi
quốc gia. Điều này ngày nay được minh chứng rất rõ qua thực tế của chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc, của công cuộc đổi mới phát triển của Việt Nam.... Do vậy sự đổ
vỡ mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Liên xô và Đông Âu nói lên một điều là
cần phải có một mô hình xây dựng CNXH phù hợp hơn với thực tế của các quốc gia
dân tộc này. Chúng ta biết khi nghiên cứu về sự phát triển của CNTB Mác đã có dự
đoán về xã hội tương lai trên những nét chung nhất. Những dự đoán đó đã được Xtalin
áp dụng xây dựng mô hình CNXH cho nước Nga và được thực thi trong nhiều thập kỷ.
Đặc trưng của mô hình kế hoạch hóa tập trung cao độ này phù hợp với yêu cầu của
nền kinh tế thời chiến trong việc huy động sức người, sức của, trong việc quản lý lao
động thời chiến. Sau khi hòa bình, mô hình này lại tiếp tục được kéo dài và chính cơ
chế tập trung quan liêu, hành chính hóa đã kìm hãm, cản trở việc phát huy các nguồn
lực cho phát triển và giảm hiệu quả tăng trưởng. Bên cạnh đó sự đổ vỡ này còn gắn
liền với những sai lầm về đường lối chính trị, về tổ chức, tư tưởng...cùng sự phá hoại
của các thế lực thù địch.
- Sau sự kiện trên, không ít ý kiến của các lý luận gia cơ hội và phản động cho rằng
cách mạng tháng Mười là một "sai lầm của lịch sử", rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi
thời. Tuy nhiên thực tế lịch sử cho thấy, trong gần 20 năm qua chủ nghĩa xã hội hiện
thực trên thế giới tuy có những thăng trầm, nhưng nó không biến mất mà vẫn đang tồn
tại và có bước phát triển rõ rệt theo xu hướng tất yếu của thời đại đã được mở ra từ
cách mạng Tháng Mười. Sự nghiệp cải cách thành công ở Trung Quốc, công cuộc đổi
mới ở Việt Nam và nhưng điều chỉnh ở Cuba, Lào, tiếp đó là sự khẳng định phát triển
CNXH ở một số nước đang phát triển như Vênêzuyêna..là sự thật khẳng định tiếp tục
tư tưởng của cách mạng Tháng Mười, của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong khi đó ở một
số quốc gia do xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ chủ nghĩa xã hội thì trên thực tế xã
hội rơi vào tình trạng hỗn loạn, thậm chí nội chiến, chia cắt (như Nam Tư, Grudia....).
- Điều đáng chú ý là, mặc dù có sự khủng hoảng, đổ vỡ, nhưng chính quyền Xô viết
được thành lập sau cách mạng Tháng Mười vẫn để lại dấu ấn sâu đậm, với tính cảm
tốt đẹp trong tâm khảm của người dân lao động nước Nga cũng như trên thế giới. Kết
quả thăm dò dư luận gần đây của Viện Công luận toàn Nga mới công bố trên
Mosnews cho hay đa số người dân xứ bạch dương tin rằng cách mạng tháng Mười
đưa những người Bolsheviks lên nắm quyền là điều tốt, 70% số người cao tuổi được
hỏi và 54% số người trẻ hơn ủng hộ sự kiện ngày 7/11/1917.
8. Tiếp nối cách mạng Tháng Mười, cách mạng Tháng Tám và công cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, thực hiện đổi mới, phát triển của Việt Nam tiếp tục khẳng định
tính đúng đắn của lý tưởng XHCN, của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Cách mạng Tháng Mười đã mở ra con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt
Nam khỏi ách áp bức đế quốc thực dân. Chúng ta biết vào những năm 20 của thế kỷ
XX, Việt Nam đang đứng trước sự bế tắc về con đường giải phóng dân tộc. Chính
thời điểm này, Nguyễn Ái Quốc với thiên tài trí tuệ, trải nghiệm hoạt động cách mạng
và ảnh hưởng trực tiếp của cách mạng Tháng Mười, đã khẳng định: " Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" .
Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam Bác Hồ và Đảng ta
đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cách mạng Tháng Tám lịch sử thành công, xây dựng
nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công - nông đầu tiên ở khu vực
Đông Nam châu Á.
- Sau cách mạng Tháng Tám, lịch sử phát triển của đất nước ta luôn đòi hỏi Đảng và
nhân dân phải có sự kiên định và sáng tạo trong con đường phát triển. Đảng đã lãnh
đạo toàn dân tộc kết hợp sáng tạo giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong tiến
trình cách mạng. Trong một thời gian dài cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược, và sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tại Đại hội Đảng
lần thứ IV, Đảng ta khẳng định: " trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và
CNXH không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh
đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt
đầu của cách mạng XHCN, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, sự bắt đầu của
thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản" . Điều này khẳng định
sự sáng tạo và nhất quán trong lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt
Nam – con đường đi theo ánh sáng cách mạng Tháng Mười.
- Việt Nam đi lên từ xuất phát điểm thấp, lại thực hiện phát triển rút ngắn không qua
chế độ TBCN, con đường phát triển chưa có tiền lệ lịch sử, do vậy khó tránh khỏi khó
khăn, vấp váp thậm chí sai lầm. Tuy nhiên với bản lĩnh cách mạng và khoa học, dám
nhìn thẳng vào sự thật, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đất nước ta đã và đang thực hiện thành công công cuộc đổi mới xây dựng đất
nước. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội hơn 20 năm qua đã chứng tỏ tính đúng đắn
của đường lối đổi mới. Đổi mới như Đảng ta đã khẳng định: "không phải từ bỏ mục
tiêu CNXH mà là làm cho CNXH được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có
hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng
của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng" . Thành tựu phát triển của Việt
Nam trong thời gian qua tiếp tục là bằng chứng khẳng định sự thắng lợi của chủ nghĩa
Mác-Lênin trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.
Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa
Mác
Tác giả: V.I.Lênin
Nguồn: Nhà xuất bản Sự Thật
HTML Markup: Lê Hoàng Anh
Trong toàn thế giới văn minh, học thuyết của Mác đã gây ra sự thù địch mạnh nhất và
lòng căm thù lớn nhất của toàn bộ khoa học tư sản (cả của giới quan phương lẫn của
phái tự do), là khoa học xem chủ nghĩa Mác như một loại "tông phái có hại". Không
thể trông mong có một thái độ nào khác thế được, vì trong một xã hội xây trên đấu
tranh giai cấp thì không thể có một khoa học xã hội "vô tư" được. Bằng cách này hay
cách khác, toàn bộ khoa học của giới quan phương và của phái tự do đều bênh vực chế
độ nô lệ làm thuê, còn chủ nghĩa Mác thì tuyên chiến quyết liệt với chế độ nô lệ ấy.
Mong đợi có một khoa học vô tư trong một xã hội xây dựng trên chế độ nô lệ làm thuê
là một sự khờ dại ngây thơ không khác gì mong đợi các chủ xưởng tỏ ra vô tư trong
vấn đề xem có nên bớt lợi nhuận của tư bản để tăng tiền công cho công nhân không.
Nhưng chưa phải thế là hết. Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chỉ ra một
cách hoàn toàn rõ rằng chủ nghĩa Mác không có gì là giống "chủ nghĩa tông phái", hiểu
theo nghĩa là một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát
triển vĩ đại của văn minh thế giới. Trái lại, tất cả thiên tài của Mác chính là ở chỗ đã
giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết
của ông ra đời thành sự thừa kế thẳng và trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất
sắc nhất cho triết học, chính trị kinh tế học và chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó chính xác, nó hoàn bị và chặt chẽ; nó
cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một
sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ áp bức của giai cấp
tư sản. Nó là kẻ thừa kế chính đánh nhất của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài
người đã sáng tạo ra hồi thế kỷ XIX: triết học Đức, chính trị kinh tế học Anh và chủ
nghĩa xã hội Pháp.
Chúng tôi sẽ nói vắn tắt về ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành đó của chủ nghĩa
Mác.
I
Triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Trong suốt toàn bộ lịch sử hiện đại
của châu ¢u và nhất là vào cuối thế kỷ XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc
quyết chiến chống tất cả những rác rưởi của thời trung cổ, chống chế độ nông nô
trong các thiết chế và trong những tư tưởng thì chủ nghĩa duy vật là triết học duy nhất
triệt để, trung thành với tất cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với mê
tín, với thói đạo đức giả v.v.. Cho nên, những kẻ thù của phái dân chủ hết sức tìm
cách "bác bỏ", phá hoại, vu cáo chủ nghĩa duy vật và bên vực các loại chủ nghĩa duy
tâm triết học là chủ nghĩa mà bằng cách này hay cách khác, rút cuộc lại đều luôn luôn
bênh vực hay ủng hộ tôn giáo.
Mác và ¡ng-ghen kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa duy vật triết học và đã nhiều lần vạch
rõ rằng mọi khuynh hướng ly khai cơ sở ấy là hết sức sai lầm. Quan điểm của hai ông
được trình bày rõ rệt nhất và tỉ mỉ nhất trong những tác phẩm của ¡ng-ghen: "Lút-vích
Phơ-bách" và "Chống Đuy-rinh", những sách này cũng như "Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản", đều là những sách gối đầu giường của mọi công nhân giác ngộ.
Nhưng Mác không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỷ XVIII, ông đẩy triết học
tiến lên nữa. ¤ng làm cho triết học trở nên phong phú bằng những thành quả của triết
học cổ điển Đức và nhất là của hệ thống triết học Hê-ghen, là hệ thống, đến lượt nó,
lại dẫn tới chủ nghĩa duy vật Phơ-bách. Trong số những thành quả đó thì thành quả
chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, tức là học thuyết về tính tương đối của nhận
thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không
ngừng. Những phát hiện mới đây của khoa học tự nhiên - như ra-di-om, điện tử, sự
biến hoá của nguyên tố - đều xác nhận một cách tuyệt diệu chủ nghĩa duy vật biện
chứng của Mác, bất chấp những học thuyết của các nhà triết học tư sản cùng với việc
họ "lại" quay về với chủ nghĩa duy tâm đã cũ kỹ và thối nát.
Nghiên cứu sâu hơn và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết
đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ
nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học. Sự hỗn độn và tuỳ tiện từ trước đến nay vẫn thống trị
trong các quan niệm về lịch sử và chính trị đã được thay thế bằng một lý luận khoa
học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ, nó chỉ cho ta thấy rằng do sự phát triển của lực
lượng sản xuất mà từ một chế độ sinh hoạt xã hội này đã nảy sinh ra và phát triển lên
như thế nào một chế độ sinh hoạt xã hội khác, cao hơn, - chẳng hạn như chủ nghĩa tư
bản nảy sinh ra như thế nào từ chế độ nông nô.
Nhận thức của con người phản ánh giới tự nhiên đang tồn tại độc lập đối với con
người, nghĩa là phản ánh vật chất đang phát triển, thì sự nhận thức xã hội của con
người (nghĩa là các quan điểm và học thuyết khác nhau về triết học, tôn giáo, chính trị,
v.v.) cũng thế, nó phản ánh chế độ kinh tế của xã hội. Các thiết chế chính trị đều là
kiến trúc thượng tầng, xây dựng trên một cơ sở kinh tế. Chúng ta thấy, chẳng hạn,
những chính thể khác nhau của các nước hiện đại ở châu ¢u đều được dùng để củng
cố quyền thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản như thế nào.
Triết học Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó đã cung cấp cho loài
người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại.
II
Sau khi nhận thấy rằng chế độ kinh tế là cơ sở trên đó kiến trúc thượng tầng chính trị
được xây dựng lên thì Mác chú ý nhiều nhất đến việc nghiên cứu chế độ kinh tế ấy.
Tác phẩm chính của Mác là bộ "Tư bản" được dành riêng để nghiên cứu chế độ kinh
tế của xã hội hiện đại, nghĩa là xã hội tư bản chủ nghĩa.
Chính trị kinh tế học cổ điển hồi trước Mác thì hình thành ở Anh là nước tư bản phát
triển nhất. A-đam Xmít và Đa-vít Ri-các-đô, qua việc nghiên cứu chế độ kinh tế, đã
mở đầu lý luận về giá trị lao động. Mác đã tiếp tục sự nghiệp của hai người đó. ¤ng
đã mang lại cho lý luận đó một cơ sở chặt chẽ và phát triển lý luận đó một cách nhất
quán. ¤ng chỉ ra rằng giá trị của mọi hàng hóa được quyết định bởi số lượng thời gian
lao động xã hội tất yếu để sản xuất ra hàng hoá ấy.
ở chỗ nào mà các nhà kinh tế học tư sản nhìn thấy quan hệ giữa vật với vật (hàng hoá
này đổi lấy hàng hoá khác), thì ở đó, Mác đã tìm thấy quan hệ giữa người với người.
Sự trao đổi hàng hoá biểu thị sự liên hệ giữa những người sản xuất riêng lẻ với nhau,
do thị trường làm trung gian. Tiền tệ xuất hiện có nghĩa là mối liên hệ ấy ngày càng
thêm chặt chẽ, gắn bó toàn bộ sinh hoạt kinh tế của những người sản xuất riêng lẻ
thành một chỉnh thể không thể phân chia. Tư bản xuất hiện có nghĩa là mối liên hệ ấy
tiếp tục phát triển cao hơn nữa: sức lao động của con người trở thành hàng hoá. Công
nhân làm thuê bán sức lao động của mình cho người chủ ruộng đất, chủ nhà máy, chủ
công cụ lao động. Người công nhân dùng một phần ngày lao động để bù vào chi phí
nuôi bản thân và nuôi gia đình minh (tiền công); còn phần kia thì làm công không, tạo
ra giá trị thặng dư cho người tư bản, đó là nguồn lợi nhuận, nguồn giàu có của giai
cấp tư bản.
Học thuyết về giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác.
Tư bản, do lao động của công nhân tạo ra, đè nặng lên người công nhân, làm phá sản
các tiểu chủ và tạo ra một đạo quân thất nghiệp. Trong công nghiệp, thắng lợi của
sản xuất lớn thì thấy rõ được ngay; nhưng cả trong nông nghiệp, chúng ta cũng thấy
một hiện tượng tương tự như thế: ưu thế của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa quy mô
lớn tăng thêm, việc dùng máy móc ngày càng phát triển, kinh tế nông dân bị siết chặt
trong sợi dây thòng lọng của tư bản tiền tệ, bị suy tàn và phá sản vì kỹ thuật lạc hậu
của mình. Trong nông nghiệp, nền sản xuất nhỏ có những hình thức suy tàn khác,
nhưng chính sự suy tàn đó là một sự thật không thể bàn cãi được.
Đánh bại sản xuất nhỏ, tư bản đưa đến chỗ nâng cao năng suất lao động và tạo ra một
địa vị độc quyền cho những công ty của các nhà đại tư bản. Bản thân sản xuất ngày
càng được xã hội hoá, - hàng chục vạn và hàng triệu công nhân gắn chặt với nhau
trong một cơ cấu kinh tế có kế hoạch, - nhưng sản phẩm của lao động chung thì lại
do một nhúm nhà tư bản chiếm hữu. Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, những
cuộc khủng hoảng, sự chạy đua điên cuồng đi tìm thị trường, tình trạng đời sống của
quần chúng nhân dân không được đảm bảo đều tăng lên.
Khi làm cho công nhân càng lệ thuộc vào tư bản, chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sức
mạnh vĩ đại của lao động liên hợp.
Mác đã nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản từ những mầm mống đầu tiên
của kinh tế hàng hoá, tức là từ sự trao đổi đơn giản, cho đến những hình thức cao nhất
của nó, tức là sản xuất lớn.
Và kinh nghiệm của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa cũ cũng như mới, ngày càng
chứng tỏ rõ ràng cho một số công nhân ngày càng đông thấy rằng học thuyết ấy của
Mác là đúng.
Chủ nghĩa tư bản đã thắng trên toàn thế giới, nhưng thắng lợi ấy chẳng qua chỉ là màn
mở đầu cho thắng lợi của lao động đối với tư bản mà thôi.
III
Khi chế độ nông nô bị lật đổ và khi xã hội tư bản "tự do" đã ra đời thì lập tức người ta
thấy rõ rằng tự do ấy có nghĩa là một chế độ áp bức và bóc lột mới đối với người lao
động. Các học thuyết xã hội chủ nghĩa bắt đầu mọc ra, đó là sự phản ánh và sự phản
đối ách áp bức ấy. Nhưng chủ nghĩa xã hội lúc đầu chỉ là chủ nghĩa xã hội không
tưởng. Nó chỉ trích, lên án và nguyền rủa xã hội tư bản; nó mơ ước xoá bỏ xã hội này
và tưởng tượng ra một chế độ tốt đẹp hơn; nó tìm cách thuyết phục những người giầu
để họ thâý rằng bóc lột là không có đạo đức.
Nhưng chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực sự. Nó
không giải thích được bản chất của chế độ làm thuê trong chế độ tư bản, cũng không
phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư bản và cũng không tìm
được lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo ra xã hội mới.
Tuy nhiên, những cuộc cách mạng bão táp, ở khắp châu ¢u và nhất là ở Pháp, nổ ra
kèm với sự sụp đổ của chế độ phong kiến, của chế độ nông nô, thì ngày càng chứng
tỏ rằng đấu tranh giai cấp là cơ sở và động lực của toàn bộ quá trình phát triển.
Không một thắng lợi nào về tự do chính trị giành được từ trong tay giai cấp chủ nô,
mà lại không gặp một sức phản kháng quyết liệt. Không một nước tư bản chủ nghĩa
nào được thành lập trên một cơ sở ít nhiều tự do, dân chủ, mà lại không có một cuộc
đấu tranh sống mái giữa các giai cấp khác nhau của xã hội tư bản.
Thiên tài của Mác là ở chỗ ông là người đầu tiên đã từ đó rút ra và triệt để vận dụng
cái kết luận do lịch sử toàn thế giới chỉ ra. Kết luận đó là học thuyết đấu tranh giai
cấp.
Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay của giai cấp
khác, qua những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào đó có tính chất
đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ
ngốc nghếch bị người khác lừa dối và tự lừa dối mình về chính trị. Những kẻ chủ
trương cải cách và cải thiện sẽ còn bị bọn bênh vực cái cũ lừa bịp mãi, nếu họ chưa
biết rằng tất cả những chế độ cũ, dầu dã man và thối nát đến đâu đi nữa, cũng đều
được những lực lượng của giai cấp thống trị này hay giai cấp thống trị khác ủng hộ.
Và muốn đập tan sự phản kháng của những giai cấp thống trị ấy, thì chỉ có một cách
là: tìm ngay trong xã hội xung quanh chúng ta, những lực lượng có thể - và, do địa vị xã
hội của chúng ta mà phải - trở thành những lực lượng có khả năng quét sạch cái cũ và
tạo ra cái mới, rồi giáo dục và tổ chức những lực lượng ấy để đấu tranh.
Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường
thoát khỏi chế độ nô lệ tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt
từ trước tới nay. Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích được địa vị thực
sự của giai cấp vô sản trong toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trên toàn thế giới, kể từ châu Mỹ đến Nhật, từ Thụy-điển đến Nam Phi, những tổ
chức độc lập của giai cấp vô sản đang tăng thêm. Giai cấp vô sản tự giáo dục và tự
bồi dưỡng trong khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp của nó, nó thoát khỏi những
thiên kiến của xã hội tư sản, ngày càng đoàn kết chặt chẽ lại và biết đánh giá đúng
mức những thành tích của nó, nó tôi luyện lực lượng của nó và lớn lên không gì ngăn
nổi.