Nâng cao tính thanh khoản trên thị trường
Ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2000, thị trường chứng
khoán Việt nam đã có những bước tiến đáng kể cả về quy mô và chất lượng,
đặc biệt trong những năm từ 2006 đến nay, thị trường đã trở thành một trong
những kênh huy đôṇ g và phân phối vốn hiêụ quả cho nêǹ kinh tế nói chung cũng
như các doanh nghiêp̣ noí riêng, đồng thời cũng là một sự lựa chọn cho các nhà
đầu tư khi ra quyết định đầu tư bởi khả năng mang lại những khoản lợi nhuận
hấp dẫn hơn so với các...
Đề tài thảo luận
Môn Thị trường chứng khoán
Nâng cao
tính thanh khoản
trên thị trường UPCoM
Nhóm thực hiện: Nhóm 7
Lớp: Thị trường chứng khoán 6
Lớp chuyên ngành: Ngân hàng 49B
Danh sách thành viên nhóm 7
(Lớp Ngân hàng 49B)
1. Đỗ Việt Anh
2. Trịnh Tuấn Anh
3. Nguyễn Hoàng Ân
4. Vũ Ngọc Cường
5. Lê Thanh Hằng
6. Nguyễn Minh Hằng
7. Trương Mạnh Hùng
8. Nguyễn Thị Huyền
9. Phan Thị Lân
10. Trần Thị Thu Nga
11. Nguyễn Thu Ngân
12. Đỗ Thị Thảo
13. Lê Thị Quỳnh Trang
25
Mục lục
Mở đầu......................................................................................................................3
I. Thị trường UPCoM................................................................................................5
2.1.Giải pháp nâng cao tính thanh khoản của thị trường UPCOM........24
2.1.1.Về phía UBCK:....................................................................25
3.2. Các công ty chứng khoán:.....................................................27
3.3. Về phía các doanh nghiệp....................................................27
Mở đầu
Ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2000, thị trường chứng
khoán Việt nam đã có những bước tiến đáng kể cả về quy mô và chất lượng,
đặc biệt trong những năm từ 2006 đến nay, thị trường đã trở thanh môt trong
̀ ̣
những kênh huy đông và phân phối vốn hiêu quả cho nên kinh tế noi chung cũng
̣ ̣ ̀ ́
như các doanh nghiêp noi riêng, đồng thời cũng là một sự lựa chọn cho các nhà
̣ ́
đầu tư khi ra quyết định đầu tư bởi khả năng mang lại những khoản lợi nhuận
hấp dẫn hơn so với các kênh đầu tư khác.
Nhìn chung thị trường chứng khoán được phân chia thành các thị trường
khác nhac tùy thuộc vào tiêu thức phân loại:
1. Cấu trúc hàng hóa
- Thị trường trái phiếu
- Thị trường cổ phiếu
- Thị trường công cụ dẫn xuất (chứng khoán phái sinh)
2. Cấu trúc giao dịch
- Thị trường giao ngay
25
- Thị trường kì hạn
3. Cấu trúc luân chuyển vốn
- Thị trường sơ cấp
- Thị trường thứ cấp
4. Cấu trúc tổ chức
- Sở giao dịch
- Thị trường OTC
- Thị trường thứ ba dành cho các chứng khoán đích danh và giao dịch
khối
- Thị trường Private
Theo cách tổ chức thành Sở giao dịch chứng khoán (stock exchange), tại
đây, người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một
địa điểm nhất định (chợ có tổ chức) để tiến hành giao dịch, mua bán, trao đổi
chứng khoán. Chính vì vậy, người ta còn gọi Sở giao dịch chứng khoán là thị
trường tập trung, nơi mua bán, trao đổi các chứng khoán của các công ty lớn,
hoạt động có hiệu quả và đáp ứng các tiêu chuẩn niêm yết do Sàn giao dịch
chứng khoán đặt ra. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý bởi Ủy ban chứng
khoán Nhà nước, các giao dịch chịu sự điều tiết của luật chứng khoán và thị
trường chứng khoán. Sàn giao dịch chứng khoán thường được xem như là bộ
phận quan trọng nhất, ảnh hưởng tới tất cả yếu tố còn lại của thị trường
chứng khoán.
Tuy nhiên không phải tất cả các giao dịch đều được thực hiện trên thị
trường tập trung. Nếu nói Sàn giao dịch chứng khoán là một địa điểm họp chợ
có tổ chức của các nhà buôn lớn với những hàng hóa “cao cấp” và đạt chuẩn
thì thị trường OTC, với địa điểm giao dịch có thể là bất kì đâu (ngân hàng, công
ty chứng khoán, các địa điểm thuận tiện cho bên mua và bán, internet) là nơi
kinh doanh những hàng hóa đa dạng, “bình dân” và chưa đủ điều kiện tham gia
trên Sàn giao dịch (song đáp ứng các yêu cầu cơ quan quản lý OTC). Điều này
có nghĩa chứng khoán trên thị trường OTC có độ rủi ro cao hơn, đồng thời lợi
nhuận mang lại cho nhà đầu tư cũng cao hơn. Đó là một trong những lí do
khiến cho khối lượng giao dịch thực tế trên thị trường phi tập trung lớn hơn
25
rất nhiều so với thị trường giao dịch tập trung. Để tăng tính thanh khoản trên
thị trường OTC, các công ty chứng khoán thường đóng vai trò là các nhà tạo
lập thị trường (market maker) cho các chứng khoán được giao dịch. Điều đó có
nghĩa là họ luôn đưa ra cả hai mức giá: giá mua (bit price) (mức giá tại đó họ
sẵn sàng mua) và giá bán (offer price) (mức giá tại đó họ sẵn sàng bán) nhằm
đáp ứng lệnh từ các nhà đầu tư. Nếu không đủ khả năng bán/mua theo yêu cầu
nhà đầu tư, Market Maker sẽ phải tìm đến 1 Market Maker khác để tìm 1 lệnh
đối ứng với khối lượng chứng khoán mà khách hàng đặt ra. Trên thị trường
OTC, giao dịch của nhà đầu tư được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch
thương lượng và thỏa thuận là chủ yếu, thời hạn thanh toán đa dạng với T+0,
T+1, T+2, T+x. Vì vậy, lợi nhuận trên thị trường này là rất hấp dẫn. Mặt khác,
cũng như Sở giao dịch chứng khoán, thị trường OTC cũng chịu sự quản lý và
kiểm soát của nhà nước, hoạt động chịu sự chi phối của Luật chứng khoán và
các văn bản pháp luật có liên quan. Bởi vậy, thị trường OTC không chỉ là một
kênh huy đông vôn hiêu quả cho doanh nghiêp (đặc biệt là các doanh nghiệp
̣ ́ ̣ ̣
nhỏ và vừa, công ty công nghệ cao hoặc có tiềm năng phát triển) mà còn là môi
trường đâu tư linh hoạt, thuận lợi cho công chung, hỗ trợ và thúc đẩy thị
̀ ́
trường chứng khoan tâp trung phát triển, hạn chế và thu hẹp thị trường tự do
́ ̣
không có tổ chức.
Tuy vây, trên thực tế ở Viêt Nam chưa có những qui đinh phap luât rang
̣ ̣ ̣ ́ ̣ ̀
buôc đôi với cac công ty đai chung niêm yêt trên OTC cũng như quản lý về
̣ ́ ́ ̣ ́ ́
hoạt động giao dịch khiên cho thị trường nay có độ rui ro rât cao so với thị
́ ̀ ̉ ́
trường niêm yêt, gây tôn hai đên lợi ich chinh đang cua cac nhà đâu tư. Vì vây,
́ ̉ ̣ ́ ́ ́ ́ ̉ ́ ̀ ̣
xu hướng tập trung hóa, đặt thị trường OTC dưới sự quản lý của nhà nước để
giảm thiểu rủi ro, tăng tính công bằng, mình bạch, đảm bảo quyền lợi của các
chủ thể trên thị trường là tất yếu.
Theo xu hướng đo, ngay 24/6/2009 thị trường UPCoM được đưa vao vân
́ ̀ ̀ ̣
hanh chính thức tai sở giao dich chứng khoan Hà Nôi.
̀ ̣ ̣ ́ ̣
I. Thị trường UPCoM
1. Khai niêm về thị trường UPCoM
́ ̣
1.1 . UPCoM là gi?
̀
25
Thị trường UPCoM (Unlisted Public Company Market) là thị trường giao
dich chứng khoan (cổ phiêu và trai phiêu chuyên đôi) cua cac công ty đai chung
̣ ́ ́ ́ ́ ̉ ̉ ̉ ́ ̣ ́
chưa niêm yêt, hoặc hủy niêm yết tại SGDCK TP.HCM hoặc SGDCK Hà
́
Nội.
(Công ty đại chúng: là những công ty cổ phần đã phát hành chứng khoán
ra công chúng. Sau khi phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành
trở thành công ty đại chúng (có đăng ký). Công ty đại chúng có nghĩa vụ phải
công khai thông tin về hoạt động của mình theo quy định của pháp luật, Ủy ban
Chứng khoán Nhà nuớc và Sở Giao dịch chứng khoán nhằm đảm bảo cho nhà
đầu tư có đuợc thông tin đầy đủ về hoạt động thuờng xuyên cũng như những
sự kiện bất thuờng của công ty.)
Chứng khoán niêm yết trên UPCoM bao gồm chứng khoán của các công
ty chưa niêm yết hoặc bị huỷ niêm yết tại HNX hoặc HSX, trái phiếu chuyển
đổi của công ty đại chúng chưa niêm yết hoăc huỷ niêm yết.
Theo lộ trình đăng ký, lưu ký cho các công ty đại chúng chưa niêm yết
của Ủy ban chứng khoán nhà nước:
Giai đoạn 1 (1-15/6/2009): đã có khoảng 18-20 công ty đại chúng đăng ký
tham gia giao dịch và hoàn thiện hồ sơ.
Giai đoạn 2 (15-6 đến 30-9-2009) đã có khoảng 186 công ty đại chúng ủy
quyền cho công ty chứng khoán quản lý sổ cổ đông tham gia giao dịch.
Giai đoạn 3 (30-9 đến 31-12-2009): các công ty đại chúng còn lại trong
khoảng 1000 công ty đã đăng ký với UBCKNN sẽ tham gia giao dịch.
Như vậy việc đưa các chứng khoán chưa niêm yết vào niêm yết và giao
dịch theo một hệ thống thống nhất sẽ được thực hiện dứt điểm trong năm
2009.
Việc vận hành thị trường UPCoM nhằm mục đích thu hẹp thị trường tụ
do, mở rộng thị trường có tổ chức, do đó trên cơ sở phát triển của thị trường,
cơ quan quản lý sẽ có những chính sách kịp thời làm tăng độ mở của thị
trường, nâng cao vai trò các công ty chứng khoán như những nhà tạo lập thị
trường, hướng tới xây dựng một thị trường OTC hiện đại.
25
̀ ̣ ̣
1.2. Điêu kiên tham gia giao dich:
- Công ty đai chung có vôn điêu lệ đã gop từ 10 tỷ đông trở lên và tôi
̣ ́ ́ ̀ ́ ̀ ́
thiêu có 100 cổ đông sở hữu không kể nhà đâu tư chứng khoan chuyên
̉ ̀ ́
nghiêp( điêu 25 Luât Chứng khoan).
̣ ̀ ̣ ́
- Đã thực hiên lưu ký tai trung tâm lưu ký chứng khoan.
̣ ̣ ́
- Được 01 công ty chứng khoan là thanh viên cua Sở giao chứng
́ ̀ ̉
khoan Hà Nôi cam kêt hỗ trợ.
́ ̣ ́
1.3. Trinh tư đăng ký giao dich:
̀ ̣
A. Đôi với tổ chức phat hanh (công ty đai chung)
́ ́ ̀ ̣ ́
- Công ty chứng khoan cam kêt hỗ trợ
́ ́
- Công ty chứng khoan thực hiên
́ ̣
+ Đăng ky, lưu ký chứng khoan cua công ty đai chung với Trung tâm lưu
́ ́ ̉ ̣ ́
ký chứng khoán.
+ Đăng ký giao dich chứng khoan cua công ty đai chung với Sở giao dich
̣ ́ ̉ ̣ ́ ̣
chứng khoan Hà Nôi.
́ ̣
+ Hoan tât hồ sơ
̀ ́
- Công bố thông tin về viêc giao dich chinh thức
̣ ̣ ́
25
25
B. Đôi với nhà đâu tư cá nhân:
́ ̀
- Mở tai khoan tai công ty chứng khoan
̀ ̉ ̣ ́
- Công ty chứng khoan tiên hanh lưu ký chứng khoan
́ ́ ̀ ́
- Giao dich thông qua công ty chứng khoan
̣ ́
1.4. Phương thức giao dich:
̣
- Thời gian giao dich: từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần trừ các ngày nghỉ
̣
theo Luật lao động. Thời gian giao dịch là từ 10h đến 15h (nghỉ giữa phiên từ
11h30 đến 13h30).
25
- Biên độ giao động giá là ±10% và có thể thay đổi.
- Phương thức giao dịch là thoả thuận, bao gồm hai hình thức:
+ Thoả thuận thông thường: là hình thức mà bên mua và bên bán tự thoả
thuận với nhau, được đại diện giao dịch nhập thông tin vào hệ thống đăng kí
giao dịch để xác nhận giao dịch này. Nếu nhà đầu tư tự tìm được đối tác
chuyển nhượng, hay chuyển nhượng trực tiếp với công ty chứng khoán thì sau
khi thỏa thuận xong giá và khối lượng, công ty chứng khoán sẽ nhập kết quả
giao dịch vào hệ thống của HNX.
+ Thoả thuận điện tử: là hình thức đại diện giao dịch nhập lệnh với các
điều kiện đã được xác định và lựa chọn lệnh đối ứng phù hợp để thực hiện
giao dịch. Trong trường hợp công ty chứng khoán không đáp ứng được ngay
nhu cầu chào mua hay chào bán của khách hàng thì công ty chứng khoán sẽ
nhập lệnh yêu cầu của khách hàng vào hệ thống của HNX.
Đồng thời công ty chứng khoán cũng theo dõi các lệnh chào mua, chào bán có
trên hệ thống (do công ty chứng khoán khác nhập vào) để lựa chọn lệnh phù
hợp và thực hiện lệnh giao dịch cho khách hàng.
(Đây chính là đặc điểm ban đầu thể hiện vai trò nhà tạo lập thị trường
của các công ty chứng khoán)
- Khối lượng giao dịch tối thiểu là 10 cổ phiếu hoặc 10 trái phiếu.
- Đơn vị yết giá là 100 đông đối với cổ phiếu, không qui định đối với
̀
trái phiếu.
- Mệnh giá 10 000đ/cổ phiếu và 100 000đ/trái phiếu.
- Nhà đầu tư không được mua bán cùng một loai cổ phiếu, không
được vùa mua vừa bán trong một phiên giao dịch. Để có thể mua bán chứng
khoán trên UPCoM, nhà đấu tư cần mở một tài khoản giao dịch chứng khoán
tại 1 công ty chứng khoán. Nếu nhà đầu tư đã có tài khoản giao dịch chứng
khoán trên thị trường niêm yết thì không cần mở thêm tài khoản mới mà sử
dụng luôn tài khoản đó để giao dịch.
- Nếu phát sinh lỗi, giao dịch sẽ bị huỷ bỏ mà không được phép sửa
lỗi sau giao dịch.
25
- Thông tin về các giao dịch chứng khoán và công ty đại chúng được
tổng hợp và công bố công khai trên các phương tiện công bố thông tin Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội và các công ty chứng khoán.
- Chỉ số giá chứng khoán trên UPCoM là UPCoM index( được tinh
́
giông như chỉ số HNX index)
́
- Giá tham chiếu là bình quân gia quyền của các giá giao dịch thoả
thuận điện tử của ngày giao dịch gần nhất.
- Phương thức thanh toan : Bù trừ đa phương T+3, với giao dich lô
́ ̣
lớn trên 100 ngan cổ phiêu áp dụng T+1.
̀ ́
2. So sánh thị trường UPCoM và thị trường OTC, Sở giao dịch
chứng khoán:
2.1. UPCoM và OTC. Sư cần thiết của UPCoM:
Thị trường OTC mà thực tế nhà đầu tư thường gọi là thị trường chợ đen,
thị trường xám. Trên thị trường này, giao dịch tự phát, không được thanh toán
tập trung, chứng khoán không được lưu ký, việc mua bán chứng khoán thông
qua các nhà môi giới tự do, không được cấp phép… nên có nhiều yếu tố rủi ro
mà tổ chức phát hành, công ty chứng khoán tổ chức hoạt động giao dịch không
chịu trách nhiệm với nhà đầu tư. Với phương thức hoạt động của thị trường
cổ phiếu OTC tại Việt Nam hiện nay, không chỉ có tỉ lệ kết quả giao dịch
thành công không được đảm bảo, mà nhà đầu tư còn có thể bị lừa bằng nhiều
hình thức khác nhau. Bên cạnh những chiêu thức làm giá của người mua bán
OTC như tung tin lên các diễn đàn của hàng trăm website, nâng giá, ép giá…
nhằm thao túng thị trường,
Trên thị trường OTC còn tồn tại 6 dạng rủi ro chính ảnh hưởng lớn đến hoạt
động đầu tư cũng như lợi nhuận của nhà đầu tư:
Một là, tranh chấp hay thiệt hại về quyền mua cổ phiếu mới tăng vốn.
Một trong những kỳ vọng lớn nhất về lợi ích của người mua cổ phiếu là
quyền mua cổ phiếu phát hành tăng vốn. Đây là một khoản thu nhập, một
khoản lợi lớn của người sở hữu cổ phiếu. Tuy nhiên, thông thường trước khi
25
phát hành cổ phiếu tăng vốn, công ty tiến hành chốt danh sách cổ đông. Tại
thời điểm đó, những ai sở hữu cổ phiếu nằm trong danh sách cổ đông của
HĐQT sẽ được mua thêm cổ phiếu mới theo tỷ lệ được ấn định dựa trên số
cổ phiếu đang sở hữu.
Với những nhà đầu tư mới, người mua cổ phiếu mới trong giai đoạn giao
thời, hoặc khi danh sách cổ đông đã được chốt, nếu không biết, tiền đã thanh
toán cho người chuyển nhượng, mặc dù cổ phiếu mình đã nắm giữ, nhưng
chưa làm xong thủ tục chuyển nhượng, nên mất quyền mua. Quyền mua cổ
phiếu mới vẫn thuộc về người chuyển nhượng, trong khi người chuyển
nhượng đã bán cổ phiếu của mình đi rồi theo giá thị trường tại thời điểm đó.
Như vậy, các nhà đầu tư cổ phiếu trên thị trường OTC cần chú ý luôn
luôn thỏa thuận bằng giấy, bằng hợp đồng chuyển nhượng với người chuyển
nhượng cổ phiếu, ghi rõ ràng quyền lợi mua cổ phiếu mới tăng vốn thuộc về
ai. Loại rủi ro nói trên xảy ra phổ biến nhất trên thị trường OTC trong thời
gian qua.
Hai là, tranh chấp hay thiệt hại về cổ tức.
Cổ tức của công ty được chia cho cổ đông dựa trên số lượng cổ phần cổ
đông đang nắm giữ. Rủi ro là ở chỗ, khi mua cổ phiếu, người được chuyển
nhượng không nắm bắt được thông tin, không thỏa thuận rõ ràng trong hợp
đồng chuyển nhượng. Do đó người mua mặc dù nắm giữ cổ phiếu đúng tên
mình rồi, nhưng không nhận được cổ tức.
Nhà đầu tư L.V.B tại Hà Nội, trong giao dịch mua bán cổ phiếu của
Techcombank với một người khác là V.T.H, cán bộ một ngân hàng thời điểm
đầu năm 2006, đã xẩy ra tranh chấp quyền lợi về quyền chia cổ tức trị giá
hàng trăm triệu đồng, đang phải nhờ đến cơ quan quản lý can thiệp và dự kiến
phải đưa ra cơ quan bảo vệ pháp luật để phân xử.
Ba là, rủi ro trong mua bán cổ phiếu chưa được chuyển nhượng.
Có cổ phiếu theo quy định nội bộ công ty sau 1 năm mới được chuyển
nhượng, nhưng nhiều nhà đầu tư không nắm được thông tin, mua loại cổ
phiếu đó từ người đứng tên sở hữu cổ phiếu.
Và trong thời hạn 1 năm chưa làm được thủ tục chuyển nhượng, thì các
quyền lợi về quyền mua thêm cổ phiếu tăng vốn, chia cổ tức…, vẫn thuộc về
25
người đứng tên sở hữu cổ phiếu, còn người đã bỏ tiền ra mua, đang nắm giữ
cổ phiếu thì bị chiếm đoạt mất quyền lợi.
Thực tế tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần E, có trụ sở chính tại
Tp.HCM, thời gian qua đã xẩy ra khá nhiều tranh chấp quyền lợi này. Nhiều
người đang nhờ đến sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, cơ quan quản lý
nhà nước về hoạt động ngân hàng.
Bốn là, rủi ro trong mua bán cổ phiếu ở thời điểm phát hành.
Loại cổ phiếu này trong giới mua bán trên thị trường OTC còn gọi là cổ
phiếu cũ và cổ phiếu mới, tức là thời điểm phát hành, kèm theo đó là quyền lợi
mà nhà đầu tư có được: cổ tức, cổ phiếu thưởng, quyền mua cổ phiếu.
Bởi vì, thông thường các công ty căn cứ vào năm phát hành cổ phiếu để
phân phối quyền lợi cho cổ đông. Người sở hữu cổ phiếu chỉ được hưởng lợi
ích tương ứng với số tháng mà cổ phiếu đó đã phát hành. Bởi vậy bỏ tiền ra
mua cổ phiếu cùng với giá mua như nhau, nhưng quyền lợi giữa cổ phiếu cũ
và cổ phiếu mới là khác nhau. Nhà đầu tư cần hết sức chú ý chi tiết này.
Năm là, rủi ro trong mua bán cổ phiếu khi biến động giá.
Thông thường để chắc ăn và “nắm đằng chuôi”, người bán luôn yêu cầu
người mua cổ phiếu phải đặt cọc tiền một tỷ lệ nào đó. Khi đó nếu giá cổ
phiếu giảm, buộc người mua phải mua số cổ phiếu với giá đã cam kết, nếu
không bị mất tiền đặt cọc.
Ngược lại, khi giá lên, người bán có xu hướng đánh tháo và dễ dàng đánh
tháo, còn số tiền đã đặt cọc không phải lúc nào và trường hợp nào cũng lấy lại
ngay được.
Sáu là, rủi ro trong giao dịch nhận chuyển nhượng quyền mua.
Trong các đợt phát hành thêm cổ phiếu mới để tăng vốn, cổ đông hiện
hữu, cổ đông chiến lược, hay cán bộ nhân viên công ty được quyền mua cổ
phiếu.
Khi đó, nhiều người do không huy động được tiền hoặc vì nhiều lý do
khác, bán quyền mua cổ phiếu của mình. Giá bán quyền mua thường thấp hơn
giá thị trường OTC thời điểm đó. Nhà đầu tư mới thấy giá thấp, hấp dẫn
thường chấp nhận mua.
25
Nhưng từ khi nộp tiền để mua cổ phiếu cho đến khi nhận được cổ phiếu
là cả một khoảng thời gian khá dài, nên đến khi nhận được cổ phiếu thì cổ
phiếu vẫn đứng tên chủ sở hữu là người chuyển nhượng.
Khi đó, nếu giá cổ phiếu đứng nguyên, giảm, hay gặp phải người nghiêm
túc, đứng đắn, thì công việc làm thủ tục chuyển nhượng không vấn đề gì.
Trong trường hợp gặp phải người không trọng chữ tín, dễ dàng bị đánh tháo và
hứa hẹn trả lại số tiền trước kia đã nhận kèm với lãi suất tiền gửi ngân hàng
Chính vì những rủi ro này nên thị trường OTC được ví như chợ trời, chợ
đen.
Xét về khía cạnh pháp lý, chỉ có Sở giao dịch chứng khoán mới có
quyền tổ chức giao dịch chứng khoán, do đó việc mua bán chứng khoán tự do
trên thị trường OTC được chấp nhận rộng rãi. Mặt khác, trên thị trường chợ
đen này không có sự minh bạch về thông tin doanh nghiệp cũng như thông tin
về giá cả. Ngược lại, thị trường UPCOM là thị trường có tổ chức, có sự quản
lý của nhà nước, minh bạch thông tin, minh bạch giá cả, thanh toán tập trung
và chứng khoán được lưu ký tập trung tại TT lưu ký chứng khoán trước khi
giao dịch. Có thể thấy những điểm khác biệt tương đối giữa UPCoM và OTC
như sau:
- Theo quy định, chứng khoán của các công ty đại chúng phải được đăng
ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (Luật Chứng khoán, điều 52)
và phải lưu ký tập trung tại TTLKCK trước khi thực hiện giao dịch (Luật CK
điều 53). Việc giao dịch mua bán chứng khoán của công ty đại chúng chưa
niêm yết được thực hiện tại công ty chứng khoán, kết quả giao dịch được
chuyển đến TTLKCK thông qua hệ thống giao dịch của SGDCK Hà Nội (QĐ
87/2007/QĐ-BTC).
Như vậy, doanh nghiệp phải đăng ký lưu ký tại trung tâm Lưu ký và khi
đã đăng ký thì cổ phiếu của doanh nghiệp đó không thể giao dịch tại sàn otc tự
do được vì mọi chuyển nhượng quyền sở hữu đều phải thực hiện qua trung
tâm lưu ký.
- Doanh nghiệp tham gia UPCoM phải có một hệ thống báo cáo tài chính
minh bạch để kiểm toán được. Các công ty này còn phải công bố thông tin về
giao dịch cổ phiếu quỹ, giao dịch của thành viên hội đồng quản trị, ban giám
25
đốc, ban kiểm soát và những người có liên quan…Một khi đã đăng ký trên
UPCoM, có thông tin bất thường là doanh nghiệp phải công bố và giải trình
theo yêu cầu của HNX, trong khi đó thị trường OTC không đòi hỏi việc công
bố báo cáo tài chính hàng quý cũng như những thông tin bất thường của doanh
nghiệp, do đó các doanh nghiệp OTC vẫn ngần ngại với UPCoM, đặc biệt
trong tình hình khủng hoảng kinh tế như hiện nay.
- UPCoM chỉ chấp nhận duy nhất hình thức thanh toán bù trừ đa phương,
thời gian thanh toán là T+3 (giống như trên thị trường niêm yết hiện nay), trong
khi đó giao dịch trên các chợ OTC tự do hiện nay đang thực hiện với thời gian
T+0, một yếu tố hấp dẫn nhà đầu tư hơn rất nhiều.
2.2. UPCoM và Sở giao dịch chứng khoán:
Thị trường UPCOM khác với thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết
(Sở giao dịch chứng khoán) tại một số điểm chính như sau:
- Chứng khoán giao dịch trên thị trường là cổ phiếu và trái phiếu
chuyển đổi của các công ty đại chúng chưa niêm yết. Trong khi đó, chứng
khoán niêm yết tại các Sở giao dịch chứng khoán phải đáp ứng các điều kiện
niêm yết của Sở giao dịch chứng khoán.
- Theo quy định 108/2008 ngày 20-11-2008 điều kiện để một công ty
đại chúng tham gia giao dịch Upcom không quy định hoạt động sản xuất kinh
doanh của năm liền kề năm đăng ký giao dịch phải có lãi, do vậy hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty năm 2008 bị lỗ vẫn có thể đăng ký tham gia
giao dịch Upcom. Tuy nhiên công ty phải thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính
của năm 2008 bởi một tổ chức kiểm toán độc lập được bộ tài chính chấp
thuận và công bố thông tin đầy đủ cho công chúng đầu tư.
- Về phương thức giao dịch trên thị trường UPCOM: Áp dụng duy
nhất phương thức giao dịch thỏa thuận (không áp dụng phương thức giao dịch
khớp lệnh). Nhà đầu tư có thể giao dịch thỏa thuận đối với chứng khoán trên
thị trường UPCOM vào bất kỳ thời gian nào tại các công ty chứng khoán. Các
25
công ty chứng khoán nhập kết quả giao dịch vào hệ thống giao dịch của
SGDCK Hà Nội từ 10h đến 15h hàng ngày để thực hiện thanh toán.
- UPCoM có chỉ số tổng hợp, được công bố tương tự như VN-Index,
HNX-Index. Trên UPCoM, biên độ giao động giá là +/- 10% trong khi tại sàn
Hà Nội là +/- 7%, sàn TP.HCM là +/-5%.
- Phí giao dịch trên thị trường Upcom cũng thấp hơn của 2 thị trường
niêm yết. HNX cho biết sẽ không thu phí thành viên UPCoM và phí đăng ký
giao dịch đối với doanh nghiệp.
- Điểm khác biệt lớn nhất giữa UPCoM và Sở giao dịch chứng khoán
là khi thiết kế thị trường UPCoM, cơ quan quản lý muốn nhấn mạnh đến việc
áp dụng cơ chế nhà tạo lập thị trường (maket maker), muốn tạo ra một thị
trường mà Công ty chứng khoán là người đóng vai trò chính, kết hợp môi giới
và tự doanh.
25
II. Thưc trạng và giải pháp
phát triển thị trường UPCoM:
1. Tổng hợp diễn biến thị
trường UPCOM:
Ngày 24/7, Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội (HNX) vừa tổng kết lại
giao dịch trên sàn UPCoM sau một
tháng đi vào hoạt động (phiên đầu tiên
vào ngày 24/6/2009).
Sau 10 cổ phiếu tham gia đợt
đầu tiên, đến ngày 24-7 UPCOM đã
có 11 cổ phiếu với tổng giá trị đăng
ký giao dịch là 1.580 tỷ đồng. Dự
kiến trong thời gian ngắn tới sẽ tiếp
tục có thêm một số doanh nghiệp
đăng ký tham gia.
Theo HNX, sau một tháng triển
khai “hệ thống giao dịch UPCOM
được đánh giá là hoạt động ổn định, suôn sẻ, an toàn”.
Tổng giá trị thị trường của các cổ phiếu đăng ký giao dịch trên thị trường
UPCOM tính đến phiên giao dịch ngày 24/7/2009 đạt 2.760 tỷ đồng. Trong đó,
các cổ phiếu có mức vốn hóa lớn nhất là ABI của công ty cổ phần bảo hiểm
Ngân hàng Nông nghiệp (938,6 tỷ đồng, chiếm 34% tổng mức vốn hóa toàn thị
trường), kế đến là VDS của công ty cổ phần chứng khoán Rồng Việt (429 tỷ
đồng, chiếm 15,54%).
Tổng khối lượng giao dịch thị trường UPCOM đạt hơn 8 triệu cổ phiếu
tương ứng với giá trị giao dịch đạt 112, 24 tỷ đồng; trong đó khối lượng giao
dịch theo hình thức thỏa thuận điện tử là 7.452.070 cổ phiếu ( chiếm 93,06%)
25
và theo hình thức thỏa thuận thông thường là 555.556 cổ phiếu ( chiếm
6.94%). Khối lượng giao dịch bình quân phiên đạt 333.651 cổ phiếu và giá trị
giao dịch bình quân phiên là 4,68 tỷ đồng. Phiên giao dịch có khối lượng lớn
nhất là ngày đầu tiên ( 24/6) với 1.103.853 CME với tổng khối lượng đạt
3.146.720 cổ phiếu ( chiếm 39,3% tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường ).
Tiếp đến là APS của công ty cổ phần chứng khoán châu Á – Thái Bình Dương
với khối lượng đạt 2.128.724 cổ phiếu ( 26,6%).
Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện giao dịch đối với các cổ phiếu ABI,
ASP và SME. Trong đó, họ quan tâm mạnh tới cổ phiếu SME với khối lượng
giao dịch đạt 18.500 cổ phiếu. Giao dịch của khối ngoại đối với các cổ phiếu
này đều là mua ròng ( trừ SME), với tổng khối lượng mua ròng là 8.200 cổ
phiếu, tương đương với giá trị mua ròng là gần 192 triệu đồng.
Trong khi thị trường niêm yết ở cả hai sàn và thị trường OTC rất sôi
động thì những mã cổ phiếu đang niêm yết trên UPCOM tỏ ra không được các
nhà đầu tư mặn mà. Thị trường Upcom đi vào hoạt động vốn được đánh giá là
một sự kiện quan trọng đối với thị trường chứng khoán Việt Nam khi vận
hành đầy đủ hai loại thị trường thứ cấp chính thức cho các công ty đại chúng
với tính minh bạch cao và chuyên nghiệp. Nhưng thị trường liên tục chịu nhiều
phiên giảm điểm liên tiếp do thiếu vắng hàng hóa tốt, không thu hút được các
nhà đầu tư quan tâm.
Thị trường UPCOM đã trải qua những phiên giao dịch đầu tiên tương đối
thành công , tuy nhiên, tính thanh khoản vẫn là điểm yếu nhất của sàn này.
Có mốc khởi điểm được mặc định ban đầu là 100 điểm, nhưng chỉ sau 3 phiên
giao dịch chỉ số UPCOM Index đã mất gần 13%, chỉ còn 87,89 điểm, giảm
12,11 điểm so với điểm xuất phát. Lượng giao dịch tại thị trường UPCOM
cũng khá khiêm tốn , bình quân mỗi phiên chỉ có khoảng 300.000 cổ phiếu
được giao dịch, với khoảng hơn 4 tỷ đồng tính về giá trị giao dịch.
Đi vào hoạt dộng được 1 tháng, việc khối lượng và giá trị giao dịch tại
sàn UPCOM đạt thấp một phần có thể do số lượng doanh nghiệp giao dịch
trên sàn còn ít, mới có 11 doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu so sánh với 2 sàn chính
thức là sàn Hà Nội và sàn TP.HCM thì có thể thấy rõ, khối lượng giao dịch
25
bình quân trên mỗi cổ phiếu của sàn UPCOM cũng thấp hơn nhiều so với 2 sàn
này.
Cụ thể là, hiện số lượng cổ phiếu niêm yết trên sàn TP.HCM chỉ nhiều
gấp khoảng gần 17 lần so với sàn UPCOM, nhưng khối lượng giao dịch bình
quân tại đây đạt khoảng 40 triệu cổ phiếu mỗi phiên, gấp tới 130 lần khối
lượng bình quân của sàn UPCOM. Nếu xét về giá trị thì giá trị giao dịch mỗi
phiên tại sàn TP.HCM đạt khoảng 1.500 tỷ đồng, tức khoảng 300 lần so với
giá trị giá trị giao dịch bình quân trên sàn UPCOM.
Mặc dù quy mô vốn bình quân của các doanh nghiệp đăng ký giao dịch
trên sàn UPCOM nhỏ hơn so với các sàn chính thức cũng có thể lý giải cho
thực tế nêu trên, nhưng chênh lệch này thực chất cũng không phải là quá lớn.
Trong số các doanh nghiệp đăng ký giao dịch tại UPCOM, có tới ½ số doanh
nghiệp có vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng . Cụ thể, vốn của Công ty Chứng
khoán châu Á – Thái Bình Dương lên tới 260 tỷ đồng. Tập đoàn HIPC hơn 150
tỷ đồng, công ty chứng khoán SME là 150 tỷ đồng, công ty Trường Phú 100 tỷ
đồng, chứng khoán Rồng Việt 330 tỷ đồng.
Với những công ty có vốn điều lệ lên tới hàng trăm tỷ đồng ,cũng khó có
thể nói rằng, đó là những doanh nghiệp quá nhỏ. Trong những phiên vừa qua,
nhà đầu tư cá nhân vẫn chưa tham gia đáng kể các giao dịch trên sàn UPCOM
mà đối tượng giao dịch tích cực nhất vẫn là các công ty chứng khoán.
Tháng 10/2009, thị trường UPCoM đón nhận thêm 4 cổ phiếu ĐKGD
mới là API, GTH, TNM và VPC, với tổng khối lượng ĐKGD mới là 37,73
triệu cổ phiếu, nâng quy mô thị trường UPCoM lên 21 cổ phiếu, với tổng khối
lượng ĐKGD là 238,3 triệu cổ phiếu, giá trị cổ phiếu ĐKGD theo mệnh giá
tương ứng là 2.383 tỷ đồng. KLGD thị trường UPCoM đạt 8,9 triệu cổ phiếu,
GTGD tương ứng là 129 tỷ đồng, tăng 14,65% về KLGD và 20,51% về GTGD
so với tháng 9/2009. UPCoM - Index đóng cửa ở mức 72,72 điểm, tăng 6,05
điểm (9,07%) so với tháng trước.
Các cổ phiếu được thị trường quan tâm nhiều nhất trên thị trường
UPCoM là cổ phiếu của các công ty chứng khoán. Trong đó, cổ phiếu có
KLGD lớn nhất là APS với tổng KLGD đạt 4,16 triệu cổ phiếu (chiếm
46,83% tổng KLGD toàn thị trường). Tiếp theo là TAS với tổng KLGD đạt
25
1,13 triệu cổ phiếu (12,7% tổng KLGD toàn thị trường), VDS đứng thứ 3 với
KLGD 0,91 triệu cổ phiếu (10,24% tổng KLGD toàn thị trường). Đây cũng là 3
cổ phiếu có GTGD lớn nhất trên thị trường, với GTGD tương ứng là 51,9
(40,24%), 16,55 (12,83%) và 15,46 (11,99%) tỷ đồng.
Về giá giao dịch, toàn thị trường có 11 cổ phiếu tăng giá, 5 cổ phiếu
giảm giá. Cổ phiếu có giá giao dịch bình quân tăng mạnh nhất trong tháng 10 là
BTC với tỷ lệ tăng giá 57,64% tương đương mức tăng 18.100 đồng/CP. Tăng
giá mạnh tiếp theo là CFC với mức tăng 53,85% (14.000 đồng/CP) và MAS
tăng 53,44% (10.100 đồng/CP). Trong nhóm cổ phiếu giảm giá, cổ phiếu giảm
mạnh nhất là ABI với tỷ lệ giảm 11,11% (-1.600 đồng/CP), tiếp theo là DNT
giảm 9,57% (-1.100 đồng/CP), SVS giảm 4,92% (-600 đồng/CP).
Trong tháng 11, cổ phiếu của CTCP Đầu tư và Xây dựng Công trình 3
(thành viên của Tổng Công ty Đường Sắt Việt Nam) (UPCoM: CT3) chính
thức được đưa vào giao dịch trên thị trường UPCoM và trở thành cổ phiếu thứ
25 đăng ký giao dịch trên thị trường với khối lượng đăng ký giao dich ̣
2,181,209 cổ phiếu, nâng tổng khối lượng ĐKGD trên thị trường UPCoM lên
gần 269.6 triệu cổ phiếu, tổng giá trị đăng ký giao dich theo mệnh giá tương
̣
ứng là 2,696 tỷ đồng.
Vào ngày 18/11, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, Trung tâm lưu ký
chứng khoán Việt Nam và Công ty cổ phần chứng khoán thương mại và công
nghiệp Việt Nam (VICS) đã ký kết hợp đồng tư vấn đăng ký UPCoM tại
HNX và lộ trình triển khai đăng ký giao dịch cho 6 doanh nghiệp. Việc làm này
nhằm thúc đẩy hoạt động trên thị trường giao dịch cổ phiếu của các công ty
đại chúng chưa niêm yết. Theo đó, các doanh nghiệp gồm: Công ty cổ phần Ắc
quy Tia sáng, Công ty cổ phần Pin Ắc quy Vĩnh Phú, Công ty cổ phần Lương
thực Đông Bắc, Công ty cổ phần Diêm Thống Nhất, Công ty cổ phần Hóa
chất Hưng Phát Hà Bắc, Công ty cổ phần Giấy Việt Trì sẽ được hỗ trợ việc
đăng ký lưu ký tại VSD, xây dựng lộ trình đăng ký giao dịch tại HNX.
2. Nguyên nhân dẫn đến tính thanh khoản kém của thị trường
UPCOM:
Việc đưa ra mô hình quản lý như UPCOM là hoàn toàn phù hợp với yêu
cầu bức thiết nhất hiện nay khi những giao dịch trên OTC chứa đựng quá
nhiều rủi ro, nhưng làm sao để quản lý hiệu quả là nhiệm vụ không hề đơn
25