Nạn kiêu binh thời Lê - Trịnh
Nạn kiêu binh hay loạn kiêu binh là tên dùng để chỉ sự việc loạn lạc thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam.
Nạn kiêu binh thời Lê -Trịnh
Nạn kiêu binh hay loạn kiêu binh là tên dùng để chỉ sự việc loạn lạc
thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, do những quân lính gốc ở
Thanh - Nghệ, cậy mình có công, đã sinh thói kiêu căng, coi thường luật
lệ, gây ra và làm trong và ngoài triều chính thời đó hết sức điêu đứng,
khổ sở. Theo sách Việt sử tân biên, thì nạn kiêu binh này là một trong
những nguyên nhân khiến cơ nghiệp Lê - Trịnh ở Việt Nam mau đổ nát.
Lịch sử thời Lê - Trịnh, có một sự kiện rất đáng chú ý, đó là sự hiện diện
của lính tam phủ. Sách Việt sử tân biên quyển 3, giải thích như sau:
Buổi ấy, nhà Lê dấy lên từ Thanh Hóa, trong lúc này nhà Mạc hãy
còn làm chủ miền Bắc, kể từ trấn Sơn Nam trở ra. Nhà Lê muốn
khôi phục, tất nhiên phải tuyển lính ở ba phủ là Hà Trung, Thiệu
Hóa và Tĩnh Gia thuộc hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.
Sau này, nhà Lê đuổi được nhà Mạc ra khỏi Thăng Long, thì quân ở
ba phủ trên (tục gọi là lính tam phủ) được coi là thân binh hay ưu
binh, nhất binh; và được vua chúa tin dùng làm quân túc vệ bởi họ
đã đóng góp nhiều công lao trong chiến đấu. Chính vì có công lớn,
lại được vua chúa nuông chiều, nên họ sinh ra thói kiêu căng, xem
thường luật vua phép nước. Cho nên dân chúng thời bấy giờ gọi họ
là kiêu binh.[1]
Đề cập vấn đề này, sách Việt Nam sử lược có đoạn:
Nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê Trung Hưng về sau, đất kinh kỳ
chỉ dùng lính Thanh, lính Nghệ gọi là ưu binh để làm quân túc vệ.
Những lính ấy thường hay cậy công làm nhiều điều trái phép.
Năm Giáp Dần (1674) đời Trịnh Tạc, lính tam phủ tức là lính
Thanh, lính Nghệ đã giết quan Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và
phá nhà Phạm Công Trứ.
Năm Tân Dậu (1741) quân ưu binh lại phá nhà và chực giết quan
Tham Tụng Nguyễn Quý Cảnh.
Những lúc quân ưu binh làm loạn như vậy, tuy nhà chúa có bắt
những đứa thủ xướng làm tội nhưng chúng đã quen thói, về sau hễ
hơi có điều gì bất bình, thì lại nổi lên làm loạn.[2]
Tuy nhiên kiêu binh thật sự trở thành quốc nạn, kể từ tháng 10 năm Nhâm
Dần (1782), tức lúc lính tam phủ tôn Trịnh Khải lên ngôi chúa và kết thúc
vào khoảng tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), là lúc Nguyễn Huệ dẫn quân ra
bình Bắc Hà. Trong khoảng thời gian dài này, có hai lần lính tam phủ
hoành hành rất dữ, vì cậy công.
Cậy công tôn phò chúa
Sách Việt Nam sử lược chép:
Năm Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất, Đặng Thị Huệ và Hoàng
Đình Bảo (Quận Huy) lập Trịnh Cán lên làm chúa. Con trưởng
Trịnh Sâm là Trịnh Khải mưu với quân tam phủ để tranh ngôi chúa.
Bấy giờ có tên biện lại thuộc đội Tiệp bảo tên là Nguyễn Bằng[3],
người Nghệ An, đứng lên làm đầu, vào phủ chúa đánh ba hồi trống
làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào giết Hoàng Đình Bảo,
bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa.
Trịnh Khải phong quan tước cho Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho
quân tam phủ. Từ đó quân ấy một ngày một kiêu, cứ đi cướp phá
các nhà, không ai kiềm chế được...[2]
Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, là người đương thời, kể:
(Sau khi tôn Trịnh Khải) quân lính cậy có công...đòi hỏi những mối
lợi nơi điếm tuần, bến đò, đầm hồ, gò bãi, cửa ải, chợ búa...Dân
chúng khổ sở vì sự quấy nhiễu hà khắc của chúng, mối hận thấm
cốt cốt tủy. Từ đấy, lính với dân coi nhau như kẻ thù. Triều đình
phải đặt ra đội Phong vân để tuần phòng trong kinh kỳ, dò xét quân
lính, hễ ai còn có thói cũ, rủ nhau tập hợp phá nhà lấy của thì lập
tức bắt giải về triều xét xử.[4]
Cậy công tôn phò thái tử
Trước đây (1782), sau khi giết chết Quận Huy, quân tam phủ đã mở ngục
rước ba con của Lê Duy Vĩ là Lê Duy Khiêm (sau này là vua Lê Chiêu
Thống), Lê Duy Trù và Lê Duy Chi về cung.
Nghe tin Duy Khiêm được thả, Trịnh thái phi Nguyễn Thị (mẹ Trịnh Sâm)
vốn ủng hộ Lê Duy Cận (chú ruột của Khiêm), sợ Duy Khiêm về sẽ tranh
ngôi thái tử, nên sai hoạn quan là Liêm Tăng (không rõ họ) đến bắt ép Duy
Khiêm sang chầu, để toan bí mật giết chết. Duy Khiêm từ chối không
được, phải khóc mà đi. Dọc đường, quân tuần sát ngăn lại. Rõ chuyện, họ
la hét ầm ĩ, yêu cầu tra cứu người lập mưu làm hại Duy Khiêm. Họ truy
lùng tìm Liêm Tăng không được, ngờ là Duy Cận chủ mưu. Lúc ấy, Duy
Cận đang chầu Trịnh thái phi, nghi trượng để ngoài cửa phủ đường, quân
sĩ kéo đến đập phá tan nát. Duy Cận sợ quá, phải thay đổi quần áo lẻn về
cung.
Chúa Trịnh Khải biết việc này là do bà nội mình gây ra, bèn dụ quân sĩ
thôi làm huyên náo, rồi xin nhà vua Lê Hiển Tông lập Duy Khiêm làm
hoàng thái tôn, và bắt Duy Cận làm tờ biểu nhường ngôi thái tử. Tháng
Giêng năm 1783, Lê Duy Khiêm, lúc ấy 18 tuổi, với cương vị là cháu
trưởng, được ông nội lập làm hoàng thái tôn, còn chú là Duy Cận bị truất
làm Sùng Nhượng Công.
Một hôm, quân lính họp nhau, đem việc đón rước hoàng tôn (Duy Kỳ) ở
nhà giam ra tâu lên hoàng thượng, để xin được ban ơn. Nhà vua (Lê Hiển
Tông) liền sai người làm tiệc thết đãi, rồi từ từ bàn đến cách thưởng công
cho họ. Lúc đó, có kẻ chạy đi báo tin với chúa (Trịnh Khải). Chúa cho đòi
ngay Nguyễn Khản [5], Dương Khuông vào phủ. Sau khi nghe ý kiến của
hai cận thần, Chúa bèn sai viên đầu hiệu đội Nhưng Nhất là Triêm vũ hầu
(Nguyễn Triêm) đem đội quân Phong vân đến vây bắt được bảy người.
Sau đó, theo sách Lê quý dật sử, thì:
Triều đình bàn xét nếu đem giết hết e sẽ gây ra biến loạn. Nếu
không giết thì không lấy gì răn đe được. (Dự tính) trước tiên đem
chém một hai tên đầu sỏ gian ác để dần dần ức chế tính kiêu ngạo
của chúng. Bấy giờ trong triều có Tham tụng Nguyễn Khản, Quản
trung cơ Nguyễn Khuông (cậu chúa Trịnh Khải) mới được cất
nhắc, vốn ghét quân sĩ không phục mình, đã chiếu theo luật: “lẻn
vào hoàng thành” xử tội chém hết để răn quân lính.
Được sáu ngày, quân sĩ lại gây bạo loạn. Họ gào thét xông thẳng
vào phủ chúa, tìm giết Khản và Khuông. Khản trốn về trấn Sơn
Tây, Khuông nấp mình trong phủ chúa. Mẹ chúa là Dương Thị bước
ra phủ đường khóc kêu xin tha cho Khuông. Chúa lại cho nhiều tiền
bạc để chuộc cho cậu, quân sĩ mới chịu kéo trở về đập phá nhà
riêng của Khản, Khuông. Hôm sau, quân lính lại đòi đem Nguyễn
Triêm giết đi để hả giận riêng. Chúa không có cách nào nữa, vời
Triêm đến lấy lời lẽ yên nước, yên nhà ra bảo; lại cho dân một xã
thờ cúng, ruộng thế nghiệp 30 mẫu, rồi sai Triêm ra chịu chết.[6]
Ở Sơn Tây, Nguyễn Khản cùng với em mình là Nguyễn Điền đang làm
quan ở đó, bí mật dâng tờ khải lên chúa, xin mộ nghĩa sĩ tứ trấn để giết
kiêu binh. Nghe kế ấy, chúa ban chiếu cho phép.
Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí, thì:
Trong đám kiêu binh có kẻ biết mưu của chúa, liền mắng chúa và
cử lính canh giữ phủ chúa rất ngặt. Chúa sai người ra báo lại với
các trấn hoãn ngày khởi sự, nhưng chưa đến kịp thì các đạo theo
đúng hẹn cũ đã rầm rộ kéo quân lên đường. Thiên hạ cực kỳ náo
động. Hào kiệt các nơi đồng thời nổi dậy, ai ai cũng nói phải tiêu
diệt hết kiêu binh.
Ngày hôm đó, hết thảy kiêu binh hai xứ Thanh Nghệ đóng ở các
trấn đều phải bỏ trốn, lúc đi qua làng mạc chúng không dám lên
tiếng. Hễ kẻ nào buột miệng lòi ra thổ âm Thanh Nghệ, tức thì bị
dân chúng bắt giết ngay. Bọn chúng phải luôn luôn giả cách làm
người câm, ăn xin ở dọc đường, rồi lần mò về kinh, báo cho đám
kiêu binh ở đây biết cái tin nay mai quân các trấn sẽ về họp ở dưới
thành.
Được tin này, bọn kiêu binh ở kinh tức thì họp nhau bàn cách chống
cự. Rồi họ chia nhau thành các đạo kéo đi. Nhưng đạo phía Tây mới
kéo ra đến Đại Phùng, đạo phía Bắc mới kéo đến cầu Vịnh thì đã bị
ngay các tay thổ hào địa phương đánh thua. Họ phải bỏ cả khí giới,
cố mang vết thương mà chạy về kinh.
Bấy giờ kinh thành chấn động, dân hàng phố kẻ chợ đều dắt díu
bồng bế nhau ra ngoài thành chạy trốn. Đám kiêu binh vừa sợ vừa
tức, gọi chúa là giặc. Rồi họ kéo vào trong phủ, lấy hết binh khí,
chia cho cơ đội các dinh nắm giữ. Phủ chúa lúc ấy không còn một
tấc sắt nào để tự vệ...[7]
Sau có quan tham tụng là Bùi Huy Bích dỗ dành mãi mới dần dần hơi yên.
Tháng 5 năm Cảnh Hưng 47 (1786), quân Tây Sơn tiến nhanh ra Bắc.
Đình thần nhà Lê - Trịnh bàn việc sai tướng đem quân vào chống ngăn.
Nhưng ưu binh lúc này đã quen thói kiêu căng, rất sợ chinh chiến, nên lấy
cớ đòi tiền lương, để chần chừ không chịu tiến quân, khiến trong kinh
thành càng xôn xao dữ, ai nấy đều tính kế tháo chạy.[8]Ngày mồng 6 tháng
6 năm Bính Ngọ (1 tháng 7 năm 1786) quân của Nguyễn Hữu Chỉnh đến
Vị Hoàng (Nam Định). Nguyễn Huệ đến hợp quân với Chỉnh rồi cùng tiến
ra Thăng Long. Quân Tây Sơn đi đến đâu, quân Trịnh tan tác đến đó, nạn
kiêu binh kể như chấm dứt cùng sự sụp đổ của họ Trịnh.
Trong văn học
Trong sách Hoàng Lê nhất thống chí ở hồi hai và ba, có nhiều
đoạn kể khá tỉ mỉ nạn kiêu binh. Nhờ tác giả[9]là người đã sống
trong thời đại hỗn loạn ấy, nên chúng có giá trị lịch sử & hiện thực
cao. Trong bài giới thiệu tác phẩm này, Kiều Thu Hoạch có đoạn
nói đến nạn kiêu binh như sau:
Trịnh Sâm thì hoang dâm, xa xỉ. Vua Lê Cảnh Hưng thì bù nhìn, bạc
nhược. Trịnh Tông chỉ là con rối của đám kiêu binh. Còn quan lại
đa phần là một phường dung tục, bất tài, chỉ rình rập cơ hội để
tranh gianh giành quyền lực, danh lợi...Dưới những vua quan như
vậy, thì binh lính đương nhiên cũng không thể có kỷ cương, phép
tắc gì. Những "ưu binh" đã biến thành "kiêu binh" ngang ngược,
quay lại uy hiếp triều đình, quấy nhiễu dân chúng, tùy ý phá nhà,
giết người, khiến mọi người đã phải gọi chúng là "quân bất trị".
Và ba chữ ấy đã trở thành nỗi khủng khiếp của một thời.[10]
Giai đoạn thời Lê mạt, trong đó có nạn kiêu binh, cũng là đề tài yêu
thích của nhà văn Nguyễn Triệu Luật. Ông đã viết ba tác phẩm
cùng chủ đề này, đó là: Bà chúa Chè (Tân Dân - Hà Nội, 1938),
Loạn Kiêu binh (Tân Dân - Hà Nội, 1939) và Chúa Trịnh Khải
(Tân Dân - Hà Nội, 1940).
Hoàng giáp Bùi Dương lịch, buồn vì nạn kiêu binh, có làm bài thơ
ký sự rằng:
Sóc súy tiêu tao tuyết vũ phân,
Nan tương thử ý vấn đông quân.
Biên thành hà sách đoan quân ngũ,
Long miếu vô quyền thúc loạn quân.
Lữ kế bách tuyền tư bất mị,
Ngoa ngôn thôi hậu thích như phần.
Nam quy tự tín càn khôn khoát,
Tùng lĩnh, Nam Sơn đa bạch vân.
Dịch nghĩa:
Gió bấc thổi mưa rơi như tuyết trông cảnh vật tiêu điều,
Khó đem ý ấy hỏi chúa xuân.
Nơi biên thành có kế gì đoàn kết quân dân,
Triều đình không còn quyền hành để kiềm chế loạn quân.
Mưu kế của kẻ lữ khách bức bách không sao ngủ được,
Nghe lời ngoa truyền phía sau mà lòng như lửa đốt.
Trở về Nam tự tin trời đất rộng,
Núi Tùng Lĩnh, núi Nam Sơn đều phủ nhiều mây trắng.[11]
Bàn về nạn kiêu binh, sách Việt sử tân biên, quyển 3, có đoạn như sau:
Riêng nạn kiêu binh lộng hành; ngai vàng, nghiệp chúa của vua Lê
chúa Trịnh cũng đủ đổ, huống hồ vua chúa và quan lại cũng hư hèn.
Buổi đầu, kiêu binh có chút công lao phò tá, nhưng sau này vì vua
chúa không biết điều khiển họ, để họ lợi dụng lạm dụng quyền thế
để làm bậy bạ khiến họ Lê, họ Trịnh đều phải đổ vỡ. Tới khi binh
Tây Sơn ra Thăng Long, thì đội quân này như một cơn lốc làm ngã
ngay cái cây đã bị sâu mọt đục nát...
Gia chính cũng như quốc chính, một khi có lũ con cưng đó, tất nhiên
phải đưa thiên hạ đến chỗ đại loạn. Lịch sử không chỉ trách kiêu
binh, mà còn phải qui trách nhiệm cho những người cầm đầu dân
tộc đã vụng suy dại nghĩ.[12]
Chú thích
1. ^ Lược theo Việt sử tân biên, quyển 3, tr. 354.
2. ^ a b Theo Việt Nam sử lược, chương họ Trịnh mất nghiệp chúa.
3. ^ Sách Hoàng Lê nhất thống chí ghi Bằng Vũ.
4. ^ Lê quý dật sử tr. 52.
5. ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép là Nguyễn Lệ,
Việt Nam sử lược chép là Nguyễn Ly. Ở đây chép theo Hoàng lê
nhất thống chí. Chưa biết tên Lệ hoặc Ly có phải là trên khác của
Nguyễn Khản không, nhưng biết chắc ông Khản mới đúng là anh
Nguyễn Điền (và Nguyễn Du).
6. ^ Lê quý dật sử, tr. 64.
7. ^ Trích Hoàng Lê nhất thống chí, tập I, tr. 86.
8. ^ Chi tiết trích trong Lê quý dật sử, tr. 60.
9. ^ Theo Tự điển Văn học (bộ mới) thì Ngô Thì Chí (1753-1788) là
tác giả của mấy hồi đầu.(Nxb Thế giới, 2004, tr. 1076).
10.^ Hoàng Lê nhất thống chí, tập I, tr. 6-7.
11.^ Chép trong Lê Quí dật sử, tr. 55.
12.^ Lược theo Phạm văn Sơn, Việt sử tân biên, tr. 357.
Sách tham khảo chính
Bùi Dương Lịch, Lê Quí dật sử. Bản dịch của Phạm Văn Thắm.
Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1987.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 45).
Nguyễn Khắc Thuần dẫn lại trong Việt sử giai thoại tập 7. Nxb
Giáo dục, 1988.
Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập I, Nxb Văn học, Hà
Nội, 1984.
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển 3, Sài Gòn, 1959.