MUỐN LẤY MẬT THÌ ĐỪNG PHÁ TỔ ONG
Tiếng huyên náo và tiếng chân chạy rầm rập trên đường phố New York. Cảnh
sát đang rượt đuổi một tên tội phạm nguy hiểm. Cuối cùng, sau rất nhiều nỗ
lực và quyết tâm, cảnh sát đã tóm được Crowley “Hai Súng”, một tên giết
người hàng loạt, ngay tại nơi mà hắn không ngờ đến: nhà người yêu của hắn trên đại
l West End.
“MUỐN LẤY MẬT THÌ ĐỪNG PHÁ TỔ
ONG”
Ngày 07 tháng 05 năm 1931.
T iếng huyên náo và tiếng chân chạy rầm rập trên đường phố New York. Cảnh
sát đang rượt đuổi một tên tội phạm nguy hiểm. Cuối cùng, sau rất nhiều nỗ
lực và quyết tâm, cảnh sát đã tóm được Crowley “Hai Súng”, một tên giết
người hàng loạt, ngay tại nơi mà hắn không ngờ đến: nhà người yêu của hắn trên đại
lộ West End.
Một trăm năm mươi cảnh sát và mật vụ bao vây tòa nhà cao nhất, nơi hắn ẩn náu. Họ
chọc thủng mái nhà, phun khói và bố trí cả súng máy tại các cửa sổ của những cao ốc
xung quanh. Âm thanh chát chúa của những tràn súng máy và súng ngắn vang lên liên
tụ trong hơn một giờ đồng hồ. Bên trong căn phòng ở tầng cao nhất ấy, Crowley ẩn
người sau những chiếc ghế bành độn bông dày, quyết liệt chống trả lực lượng cảnh
sát bằng những tràng súng liên thanh. Nhưng cuối cùng, tên tội phạm có tài thiện xạ
này cũng phải đầu hàng.
Cảnh sát trưởng New York, ông E.p. Mulrooney nhấn mạnh rằng tên Crowley “Hai
Súng” là một trong những tên tội phạm nguy hiểm và tàn ác nhất trong lịch sử tội
phạm ở thành phố đông dân nhất nướ Mỹ này. Một điểm rất đáng lưu ý về con người
Crowley là: “ Chỉ một lý do cỏn con, thạm chí không cần có lý do nào, hoặc đơn giản
để giải sầu, hắn cũng có thể chĩa súng vào người khác và bóp cò”. Tuy nhiên, đó là suy
nghĩ của cảnh sát. Riêng tên tội phạm máu lanh này lại không nghĩ như thế. Khi bên
ngoài cảnh sát tìm mọi cách để bắt hắn thì trong phòng, Crowley đang viết một bức
thư. Bức thư còn dính vệt máu đỏ. Và, đây là những gì Crowley đã viết: “ Dưới lớp áo
này là một trái tim mệt mỏi nhưng dịu dàng- một trái tim không hề làm tổn thương ai”.
Đọc những dòng này, ai chẳng thấy lòng mình xúc động nhưng sự thật thì lại trái
ngược với những gì hắn viết. Chỉ vài giờ trước đó, Crowley đã nã súng vào một cảnh
sát giao thông khi anh ấy chặn xe hắn để kiểm tra bằng lái. Khi viên cảnh sát ngã gục
xuống, Crowley đã nhảy ra khỏi xe, chộp khẩu súng ngắn của nạn nhân và lạnh lùng
bồi thêm một phát nữa vào thân hình đang run rẩy hấp hối. Crowley bị kết án tử hình.
Trên ghế điện ở nhà tù Sing Sing, hắn còn nguy biện rằng : “ Phải chăng đây là sự
trừng phạt mà tôi phải chịu vì đã giết người? Không! Đây là sự trừng phạt mà tôi phải
chịu chỉ vì tôi cần tự bảo vệ mình”.
Thật kỳ lạ là một kẻ thủ ác rõ ràng như vậy lại không chịu nhìn nhận tội lỗi của mình.
Tôi có trao đổi thư từ qua lại với Lewis Lawes, viên cai ngục nhà tù Sing Sing( là nơi
giam giữ những tên tội phạm nguy hiểm nhất ở New York). Lewis Lawes tâm sự: “
Rất hiếm phạm nhân ở Sing Sing tự xem mình là người xấu. Họ nghĩ họ cũng là
những con người bình thường như anh và tôi. Họ có thể kể cho anh nghe tại sao họ
phá một kết sắt hay nhanh tay bấm cò súng. Hầu hết bọn họ đều tìm cách đưa ra
những lý lẽ dối trá để bào chữa cho những hành vi phạm pháp và vô lương tâm của
mình. Họ kiên quyết cho rằng không có lý do gì để từ bỏ họ cả”.
Nếu như AL Capone. “Hai Súng” và những tay anh chị thuộc các băng đảng xã hội đen
không bao giờ thừa nhận tội ác tày trời của mình thì liệu những con người bình
thường có dễ dàng tự nhìn nhận những sai lầm hết sức đời thường của mình không?
John Wanamaker, người sáng lập chuỗi cửa hàng bán lẻ mang tên ông, từng thừa nhận
rằng: “ Cách đây ba mươi năm, tôi hiểu rằng mắng nhiếc người khác là ngu ngốc. Tôi
đã gặp nhiều rắc rối tưởng như không thể chịu đựng trước khi hiểu được một sự thật
hiển nhiên là Thượng đế trao cho mỗi người một đăc điểm riêng, không ai giống ai.
Va, chính vì vậy, tôi không thể đòi hỏi mọi người hành xử giống nhau và mọi người
đều biết tự phê phán mình khi họ làm một điều gì đó không tốt”.
Quả là Wanamaker tài ba đã sớm rút ra được bài học đó trong khi tôi phải mất cả một
phần ba thế kỷ mày mò tìm kiếm mới bắt đầu hiểu ra rằng có đến 99% trong chúng ta
không bao giờ tự phê phán mình bì bất cứ điều gì, cho dù chúng ta có lầm đến đâu đi
nữa.
Chỉ trích là vô bổ, nó chỉ gây ra thái độ chống đối và bào chữa. Chỉ trích còn có thể trở
nên nguy hiểm vì nó chạm vào lòng kiêu hảnh cố chấp của con người, gây tổn thương
tới ý thức về tầm quan trọng của họ và kết cuộc chỉ tạo nên sự tức giận, căm thù. Chỉ
trích còn gây phản ứng chối bỏ trách nhiệm, đồng thời phát sinh tâm lý chán nản và
nhụt chí trong khi lỗi lầm vẫn không được giải quyết.
B. F. Skinner, nhà tâm lý học nổi tiếng thế giới đã chứng minh qua thực nghiệm rằng
một con thú nuôi được khen vi hành vi tốt sẽ học nhanh và nhớ tốt hơn một con thú bị
trừng phạt vi hành vi xấu. Những công trình nghiên cứu gần đây cho thấy phát hiện
này cũng đúng với con người.
Nhà tâm lý học lỗi lạc Hans Selye cho biết: “ Nỗi sợ bị lên án ở con người cũng lớn
như việc khao khát được tán thưởng”. George B. Johnston ở Enid, Oklahoma, là người
phụ trách về an toàn lao động cho công nhân trong một công ty thiết kế. Trách nhiệm
quan trọng của ông là làm sao cho chác công nhân đội nón bảo hộ mỗi khi họ làm việc
ỏ công trường. Ông kể lại rằng, mỗi khi bắt gặp công nhân không đội nón bảo hộ,
ông thương dùng quyền lực ép buộc họ phải tuân theo quy định. Họ miễn cưỡng chấp
nhận. Thế nhưng ngay khi ông quay lưng, họ lại cất nón đi. Sau khóa huấn luyện tại
trung tâm chúng tôi, ông quyết định thử một cách tiếp cận khác. Khi thấy một vài công
nhân không đội nón bảo hộ, ông hỏi họ phải chăng chiếc nón không thích hợp hay có
điều gì đó không ổn. Sau đó ông nhắc rằng khi làm việc họ nên đội nón bảo hộ để
khỏi bị tổn thương hay là gặp nguy hiểm khi có sự cố ngoài ý muốn sảy ra. Kết quả là
số công nhân chấp nhận đội non s đã tăng lên mà không có sự phản đối hay thái độ khó
chịu nào nảy sinh.
Có thể dễ dàng tìm thấy vô số thất bại do tính cách hay phê phán chỉ trích của con
người trong suốt chiều dài lịch sử của mọi dân tộc. Bản chất con người là thế. Những
kẻ gây ác, chê trách người khác không bao giờ tự chê trách và nhìn lại mình. Và, những
lời chỉ trích giống như chim bồ câu đưa thư, bao giờ cũng quay trở về nơi xuất phát.
Có một điều rất nguy hiểm là những người mà ta chỉ trích, lên án, chắc chắn đều sữ
tìm lý lẽ tự biện hộ cho mình và kết án ngược lại chúng ta.
Vào buổi sáng ngày 15 tháng 4 năm 1865, Tổng thốn Abraham Lincoln bị John Wilkes
Booth ám sát trong căn phòng của một nhà trọ bình dân đối diện với con đường đi từ
nhà hát Ford. Nhìn Lincolon bằng ánh mắt kính trọng lẫn tiếc thương sâu sắc, Bộ
trưởng Quốc phòng Stanton thốt lên: “ Đây là nhà lãnh đạo tuyệt vời nhất thế giới tự
cổ chí kim”
Bí quyết nào đã tạo nên những thành công của Lincoln trong vai trò lãnh đạo như thế?
Theo tôi, chính cách ông đối xử với mọi người đã giúp ông nhận được những tình cảm
đặc biệt và lòng tin yêu hết mình của họ. Tuy nhiên, tính cách đó không phải do trời
phú mà chính là do ông rèn luyện mà có.
Ít ai biết rằng trước đây, anh chàng Lincoln khi còn ở thung lũng Pigeon Creek bang
Indiana không chỉ thích chỉ trích cay nghiệt mà còn thường viết những bức thư và bài
thơ chế nhạo người khác rồi rải ra đường cho mọi người cùng đọc. Cũng ít ai biết
rằng, luật sư xuất sắc Lincoln ở Springfield, bang Illinois, rất hay phê phán công khai
đối thủ của mình bằng các bài viết đăng trên những tạp chí địa phương. Sự kiện ngạo
và ngông cuồng đó có thể sẽ còn kéo dài hơn nữa, nếu như không có một ngày…
Đó là một ngày mùa thu năm 1842, chàng trai trẻ hiếu thắng đã chế giễu một chính
khách kiêu ngạo tên là James Shields bằng một bài viết không kí tên đăng trên tạp chí
Springfield. Cả thành phố cười nhạo James. Thế là, James sục sôi căm phẫn. Bằng
mọi giá, ông ta phải tìm cho ra kẻ viết bài báo nọ. Ông phi ngựa đuổi theo Lincoln và
ném găng thchs Lincoln đấu kiếm vì danh dự. Lincoln không thích đấu kiếm, thậm chí
ông đã từng đấu tranh chống lại hủ tục này, nhưng trong hoàn cảnh đó, ông không thể
tránh né nếu muốn bảo toàn danh dự. Lincoln được phép chọn vũ khí. Vì có cánh tay
rất dài nên ông chọn thanh trường kiếm của kỵ binh và học đấu kiếm cấp tốc từ một
người bạn tốt nghiệp trường West Point. Đến hẹn, ông và James ra một bãi cát bên
sông Mississippi. May mắn thay, vào phút cuối, những người giúp việc của họ đã giúp
cả hai cái đầu đang hừng hực sát khí hiểu ra mọi việc và chấm dứt được cuộc đọ
kiếm một mất một còn.
Chỉ đến khi đối diện với ranh giới giữa sự sống và cái chết cả chính mình và người
khác Lincoln mới thấy trải nghiệm đó khủng khiếp như thế nào. Cuộc đấu kiếm chết
người bất thành đó đã dạy ông một bài học vô giá về cách cư xử với người khác. Từ
đó trở đi, Lincoln không bao giờ viết thư lăng mạ bất kỳ ai, không bao giờ chế nhạo ai
và gần như không bao giờ chỉ trích ai về bất cứ điều gì nữa.
Trong suốt cuộc nội chiến ở Mỹ, Lincoln đã từng đề cử các viên tướng McVlellan,
Popem, Burnisde, Hooker, Meade cầm đầu đạo quân Potomac. Mỗi vị tướng đều từng
phạm những sai lầm khủng khiếp khiến cho Lincoln nhiều lần rơi vào tình thế tuyệt
vọng. Một nữa đất nước kịch liệt lên án những viên tướng bất tài này. Chỉ riêng
Lincoln luôn tỏ thiện chí và không hề chỉ trích bất kỳ ai trong số họ. Một trong những
câu ông thường hay nói là: “ Chúng ta không nên kết án người khác để chính mình
không bị kết án”.
Khi bà Lincoln và nội các của ông lên án gay gắt người dân miền Nam, Lincoln đã
khuyên rằng: “ Đừng chỉ trích họ. Vì có thể, chúng ta cũng sẽ hành xừ như thế trong
những hoàn cảnh tương tự”.
Có đôi lần, suýt nữa chính Lincoln cũng lên tiếng chỉ trích người khác. Nhưng ông đã
không chỉ trích mặc dù ông hoàn toàn có lý do chính đáng để làm điều đó.
Trận Gettysburg diễn ra trong ba ngày đầu tháng 7 năm 1863. Đêm 4 tháng 7, tướng
Lee, thuộc quân đội miền Nam, bắt đầu rút quân về phía Nam trong khi cơn bão mang
đến những trận mưa như trút nước. Phía trước ông và đoàn quân bại trận là dòng sông
Potomac đang thét gào, nước cuồn cuộn sủi bọt trắng xóa. Phía sau là một đạo quân
liên minh chiến thắng đang rượt đuổi. Lee bị kẹt ở giữa và hầu như không còn đường
thoát. Từ bộ chỉ huy, Lincoln lập tức nhận ra đây là cơ hội vàng để bắt gọn đạo quân
của tướng Lee và chấm dứt chiến tranh. Thế là, Lincoln ra lệnh cho tướng Meade
ngừng triệu tập hội đồng chiến tranh mà lập tức lên đường tấn công Lee. Lincoln đã
chuyễn lệnh bằng điện tín và sau đó còn cử một đặc phái viên đến gặp Meade yêu cầu
phải hành động ngay lập tức.
Nhưng tướng Meade đã làm gì? Ông ta làm ngược lại lệnh của tổng thống: triệu tập
cuộc họp hội đồng chiến tranh. Không chỉ có vậy, ông ta còn do dự kéo dài thời gian,
rồi đánh điện tín từ chối mệnh lệnh của Lincoln. Sáng hôm sau nước rút, tướng Lee
vượt sông Potomac với lực lượng toàn vẹn.
Lincoln tức giận điên người, ông gào lên với Robert- con trai mình: “ Trời ơi! Cha
không thể hiểu nổi! Chúng ta chỉ cần chìa tay ra là tóm gọn tất cả. Vậy mà tất cả
những gì cha nói và làm đều không thể khiến cho quân đội tấn công ngay vào kẻ địch.
Trong hoàn cảnh thuận lợi đó, bất kỳ viên tướng nào cũng có thể đánh bại Lee. Nếu
cha có ở đó, có lẽ cha đã đánh tướng Meade ngay một trận”.
Trong nỗi cay đắng và thất vọng tột cùng, Lincoln viết thư cho Meade. Thời kỳ này,
Lincoln cực kỳ bảo thủ và rất khó thay đổi suy nghĩ của mình. Chính vì thế bức thư
Lincoln biết cho Meade vào năm 1863 chứa đầy những lời lẽ trách móc nặng nề nhất:
“ Tướng quân thân mến!
Tôi không tin là ông nhậ ra hiểm họa trong biệc để Lee chạy thoát vừa rồi. Ông ta gần
như đã nằm trọn trong tay chúng ta.Và nếu bắt được Lee, cuộc nội chiến này có thể đã
kết thúc. Thế mà, ông đã để vuột mất cơ hội ngàn vàng và cuộc chiến này không biết
sẽ còn kéo dài đến bao giờ. Nếu thứ Hai tuần trước ông không thể chiến thắng Lee
trong những điều kiện thuận lợi như thế thì bây giờ và về sau, ông có thể làm gì để
tấn công được Lee ở phía Nam con sông, trong khi ông chỉ còn 2/3 lực lượng mà ông
đã từng có? Chẳng có lý do gì tôi có thể hy vọng ông xoay chuyển được tình hình. Ông
đã hoàn toàn đánh mất cơ hội ngàn năm có một. Tôi không thể diễn tả được nỗi thất
vọng và tức giận của tôi lúc này đối với ông!”.
Các bạn nghĩ Meade đã làm gì khi đọc bức thư này?
Meade đã không làm gì cả vì ông ta không bao giờ được đọc bức thư đó! Đơn giản bởi
vì Lincoln đã không gửi nó đi. Người ta tìm thấy nó trong những tập hồ sơ của Lincoln
sau khi ông qua đời.
Theo phỏng đoán của tôi – chỉ là phỏng đoán thôi – sau khi viết bức thư này, Lincoln
đã nhìn ra ngoài cửa sổ và nhẹ nhàng tự nhủ: “ Khoan đã! Có thể mình không nên vội
vã như vậy. Chẳng khó gì khi ta ngồi ở đây trong cảnh bình yên của Nhà Trắng để ra
lệnh cho Meade tấn công. Nhưng giả sử ta đang ở Gettysburg tuần vừa rồi, tận mắt
nhìn thấy cảnh máu đổ kinh hoàng như Meade đã nhìn thấy, tai nghe tiếng la hét kêu
gào của những đồng đội đang hấp hối như Meade đã nghe, thì có lẽ ta cũng sẽ không
còn muốn tấn công nữa. Và hơn nữa, nếu như ta có tính nhút nhát, do dự của Meade,
có lẽ ta cùng sẽ làm đúng như điều ông ta đã làm. Dẫu sao, sự việc đã rồi, nước đã
chảy qua cầu. Nếu bức thư này được gửi đi, ta sẽ hả giận phần nào nhưng Meade có
thể tìm cách tự bào chữa hoặc quay lại kết án ta. Điều đó sẽ gây ra những phản ứng
tiêu cực, cản trở năng lực của Meade sau này với tư cách là tổng tư lệnh và biết đâu,
tai hại hơn nữa là vì thế mà ông ta có thể bị buộc phải rời khỏi quân đội. Đây là một
sự sai lầm rõ ràng và chắc chắn Meade sẽ tự nhận ra sau này”.
Có lẽ chính vì những suy nghĩ như vậy mà Lincoln gạt bức thư qua một bên. Ông đã
học từ kinh nghiệm cay đắng rằng những lời phê phán và chỉ trích gay gắt hầu như
bao giờ cũng mang đến kết quả tiêu cực.
Theodore Roosevelt kể lại rằng, khi phải đối diện với những vấn đề rắc rối, ông
thường ngả người ra ghế và ngước nhìn bức chân dung khổ lớn của Lincoln treo trong
phòng làm việc của mình ở Nhà Trắng rồi tự hỏi: “ Lincoln sẽ làm gì nếu trong hoàn
cảnh này? Ông sẽ giải quyết vấn đề như thế nào?”.
Đại văn hào Mark Twain từng có lần viết thư cho một người làm ông tức điên rằng: “
Điều mà anh cần làm lúc này là một giấy phép để tự mai táng. Anh chỉ cần thông báo,
tôi sẽ lo được ngay”. Một lần khác, ông viết thư cho một nhà xuất bản về việc người
sửa bản in muốn chỉnh sửa lỗi chính tả và cách chấm câu của ông: “ Sau này đừng có
mà sửa gì trên tác phẩm của tôi và bảo tay sửa bản thảo ấy hãy giữ lại những ý tưởng
điên rồ trong cái đầu tệ hại của hắn cho đến chết đi”. Việc viết những bức thư nặng
tính chỉ trích, mỉa mai thậm tệ như thế làm cho Mark Twain cảm thấy dễ chịu hơn.
Những lời lẽ cay nghiệt đó giúp ông giải tỏa được cơn giận. Nhưng may mắn là
chúng không gây thiệt hại gì bởi một điều đơn giản là phu nhân của Mark Twain đã
kín đáo giữ tất cả chúng lại. Những lá thư đó không bao giờ đến tay người nhận.
Có người nào bạn đang muốn họ thay đổi và sửa mình để tiến bộ hơn không? Tôi
hoàn toàn ủng hộ việc này. Nhưng tại sao lại khong bắt đầu từ bản thân mình? Thay
đổi chính mình là một việc có ích và thực tế hơn nhiều so với việc thay đổi người
khác và khả năng thành công cũng cao hơn rất nhiều. Khổng Tử từng nói: “ Đừng chỉ
trích mái nhà hàng xóm nhiều tuyết trong khi cửa nhà mình lại không sạch”.
Nếu như bạn muốn bị ai đó oán hờn dai dẳng hàng chục năm trời và thậm chí có khi
đến lúc chết bạn vẫn còn bị thù hận thì hãy tặng cho người ấy những lời phê phán, chỉ
trích cay độc, cho dù bạn biết chắc chắn những lời chỉ trích đó là đúng.
Thực ra, con người rất hiếm khi suy xét đúng sai rõ ràng bằng lý trí. Con người thường
hat hành xử theo cảm xúc, thành kiến và nhất là cộng thêm lòng kiêu hãnh vốn có của
mình nữa.
Lối chỉ trích gay gắt đã khiến cho Thomas Hardy, một trong những tiểu thuyết gia
lừng lẫy của văn học Anh phải vĩnh viễn từ bỏ việc viết tiểu thuyết. Cách phê bình
cực đoan cũng từng đẩy Thomas Chatterton, nhà thơ Anh, đến chỗ tự sát.
Benjamin Franklin, một người thô lỗ khi còn trẻ, đã trở thành một nhà ngoại giao tài
năng đến mức được chọn làm đại sứ Mỹ ở Pháp. Khi được hỏi về bí quyết thành
công, ông đáp: “ Tôi không nói xấu ai mà chỉ nói những điều tốt đẹp tôi được biết về
họ”.
Bất cứ người thiếu suy nghĩ nào cũng có thể chỉ trích, oán trách và than phiền người
khác. Và hầu hết những người thiếu suy nghĩ đều làm thế. Nhưng phải là người biết
tự chủ và có một tâm hồn bao dung, rộng lượng mới có thể hiểu và biết tha thứ cho
người khác.
Vĩ nhân thường biểu lộ sự vĩ đại của mình trong cách đối xử với những con người
nhỏ bé. Câu chuyện dưới đây là một mình chứng cụ thể.
Bob Hoover là phi công lái máy bay trình diễn nổi tiếng ở Mỹ. Trong một lần bay thử,
khi ông vừa cất cánh và lấy được độ cao thì cả hai động cơ của chiếc máy bay đột
ngột ngừng hoạt động. Nhờ kinh nghiệm và tài năng khéo léo, ông đã đưa được máy
bay đáp xuống đất. Mắc dù không có thiệt hại về nhân mạng nhưng chiếc máy bay
gần như hư hỏng hoàn toàn. Hành động đầu tiên của Hoover sau khi đáp khẩn cấp là
kiểm tra bình nhiên liệu của máy bay. Đúng như điều ông đã phỏng đoán, bình xăng
của chiếc máy bay cánh quạt thời Thế chiến thứ hai đó không hề chứa xăng- mà thay
vào đó là đầy dầu phản lực. Sở dĩ máy bay khởi động lúc đầu được là nhờ phần xăng
còn sót lại trước đó. Khi trở về sân bay ngay lập tức ông đi tìm người thợ máy đã phục
vụ máy bay của ông.
Benjamin Franklin, một người thô lỗ khi còn trẻ, đã trở thành một nhà ngoại giao tài năng
đến mức được chọn làm đại sứ Mỹ ở Pháp. Khi được hỏi về bí quyết thành công, ông
đáp: “ Tôi không nói xấu ai mà chỉ nói những điều tốt đẹp tôi được biết về họ”.
Bất cứ người thiếu suy nghĩ nào cũng có thể chỉ trích, oán trách và than phiền người
khác. Và hầu hết những người thiếu suy nghĩ đều làm thế. Nhưng phải là người biết tự
chủ và có một tâm hồn bao dung, rộng lượng mới có thể hiểu và biết tha thứ cho người
khác.
Vĩ nhân thường biểu lộ sự vĩ đại của mình trong cách đối xử với những con người nhỏ
bé. Câu chuyện dưới đây là một minh chứng cụ thể.
Bob Hoover là phi công lái máy bay trình diễn nỗi tiếng ở Mỹ. Trong một lần bay thử, khi
ông vừa cất cánh và lấy được độ cao thì cả hai động cơ của chiếc máy bay đột ngột
ngừng hoạt động. Nhờ kinh nghiệm và tài năng khéo léo, ông đã đưa được máy bay đáp
xuống đấu. Mặc dù không có thiệt hại về nhân mạng nhưng chiếc máy bay gần như hư
hỏng hoàn toàn. Hành động đầu tiên của Hoover sau khi đáp khẩn cấp là kiểm tra bình
nhiên liệu của máy bay. Đúng như điều ông đã khẩn cấp là kiểm tra bình nhiên liệu của
máy bay. Đúng như điều ông đã phỏng đoán, bình xăng của chiếc máy bay cánh quạt
thời THế chiến thứ hai đó không hề chứa xăng- mà thay vào đó là đầy dầu phản lực. Sở
dĩ máy bay khởi động lúc đầu được là nhờ phần xăng còn lại trước đó. Khi trở về sân
bay, ngay lập tức ông đi tìm người thợ máy đã phục vụ máy bay của ông. Anh chàng thợ
máy trẻ tuổi đang lo sợ và hối hận đến mức gần như cuồng trí. Khi Hoover đến gần,
gương mặt thất thần và hoàng sợ của anh ta ràn rụa nước mắt. Anh ta biết mình vừa gây
nên một lỗi lầm không thể tha thứ: làm hỏng một chiếc máy bay rất đắt tiền và suýt chút
nữa đã giết chết ba mạng người.
Người ta có thể tưởng tượng một cơn nổi giận lôi đình và những lời mắng nhiếc thậm tệ
từ người phi công tài ba đầy lòng kiêu hãnh sắp sửa trút xuống người thợ máy đó. Nhưng
không, Hoover đã dùng đôi tay to lớn của minh ôm choàng vai người thợ máy ấy và nói: “
Tôi tin chắc rằng anh sẽ không bao giờ lặp lại sai sót này nữa. Để minh chứng cho lòng
tin của tôi đối với anh, tôi muốn rằng sáng mai anh tiếp tục chuẩn bị cho chiếc F- 51 của
tôi”. Tôi tin rằng bạn có thể hình dung sự xúc động và cảm kích vô bờ bến của người
thợ máy đối với Hoover sau nghĩa cử bao dung đó.
Cha mẹ thường có xu hướng trách mắng con cái. Tuy nhiên, trước khi bạn la mắng con
mình lần sau, xin hãy đọc bài “ Cha đã quên”. Bài viết này xuất hiện lần đầu trong tờ báo
People’s Home Journal.
“ Cha đã quên” là một sáng tác ngắn viết ra trong giây phú ra trong giây pohuts cảm xúc
chân thành, tác động mạnh mẽ vào nhiều độc giả đến mức được yêu cầu in lại hàng
năm. Ngay sau khi xuất hiện lần đầu, bài viết nổi tiếng này đã được đăng trên khắp các
tờ báo nước Mỹ, được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, được truyền bá rộng rãi trong
các trường học, nhà thờ, trên các dieenxddanf và đã phát trong vô số chương trình
truyền thanh, truyền hình. Một điều khá thú vị là các tạp chí định kỳ của nhiều trường
trung học và cao đẳng cũng sử dụng bài viết này. Đôi khi một điều nhỏ bé cũng có thể
tạo nên những ảnh hưởng lớn lao kỳ diệu. Bài viết này thực sự đã tạo nên một phép lạ
với những bậc cha mẹ trong gia đình.
CHA ĐÃ QUÊN
W. Livingston Larlaned
Con trai yêu quý, con hãy nghe những lời ân hận của cha đây. Cha đã lẻn vào phòng con
khi con đang chìm vào giấc ngủ trẻ thơ. Nhìn kia, một tay con đặt dưới gò má, những lọn
tóc hung đẫm mồ hôi bám chặt vào vầng trán ẩm ướt. Chỉ cách đây vài phút thôi, khi cha
ngồi trong phòng đọc sách và xem lại bài viết của mình, nỗi hối hận chợt dâng ngập hồn
cha. Và cha đã chạy ngay đến phòng con để nói lời xin lỗi.
Con ơi, cha đã tức giận, quát mắng khi con cầm khăn lau mặt qua quýt trong lúc thay
quần áo đi học, lúc con để đôi giày dơ bẩn hay thấy con vứt vật dụng lung tung trong
nhà.
Cha luôn chăm chăm nhìn thấy toàn là lỗi lầm của con. Buổi sáng cha thấy con không
ngăn nắp khi ngủ dậy, lại còn ăn uống vội vàng và lấy một lúc quá nhiều thức ăn vào
đĩa. Vì chỉ nhìn thấy lỗ lầm nên khi con chào cha xin phép ra ngoài chơi, cha chỉ cau mày
và trả lời cộc lốc không chút thiện cảm: “ Hừm! Liệu mà về sớm đấy!”.
Buổi chiều, cha cũng tức giận với những sơ suất của con. Khi thấy đôi vớ của con rách,
cha đã làm con phải mất mặt trước bạn bè khi lôi con về nhà. Con thật sự đã làm cha rất
giận dữ vì đã không tiết kiệm, không chịu giữ gìn những món đồ mà cha đã phải vất vả
làm việc và dành dụm mua cho con.
Khi cha đang đọc báo, con rụt rè bước tới ngước nhìn cha với ánh mắt ngây thơ trong
sáng, cha lại quát lên: “ Mày muốn gì?”. Và trái tim cha đã xúc động biết dường nào khi
con chỉ im lặng chạy đến, vòng đôi tay bé bỏng ôm cổ cha thật chặt với tất cả yêu
thương trìu mến rồi lại chạy biến thật nhanh ra ngoài.
Con thương yêu!
Con có biết không, tờ báo đã rời khỏ tay cha trong yên lặng và một nỗi sợ hãi lẫn đau xót
nghẹn ngào xâm chiếm cõi lòng cha. Cha đã làm gì thế này? Cha đã biến mình thành một
người cha suốt ngày chỉ xăm xoi tội lỗi của con mình. Một người cha chỉ toàn tìm kiếm
những cái xấu của con để chê trách- và đây lại là phần thưởng mà cha dành cho con như
là một đứa trẻ ư? Cha chỉ muốn con phải thế này thế nọ, cha chỉ muốn con phải cư xử
như người lớn. Cha đã đo con bằng cây thước của một người trưởng thành, bằng cả
những năm tháng tuổi đời và sự trỉa nghiệm già dặn của cha.
Con yêu của cha!
Trong khi cha nhìn con bằng đôi mắt già cỗi và muộn phiền, đầy thành kiến, soi mói ấy,
cha chẳng thèm biết đến những cái tốt, điều hay và sự chân thành, hồn nhiên trong tư
chất của con. Trái tim nhỏ bé của con nồng ấm cho những ngọn đồi bao la. Con đã hồn
nhiên lao vào hôn chúc cha ngủ ngon mà không hề vướng bận việc cha đã la mắng con
cả ngày và hằn học với con vì những lý do không chính đáng.
Con thương yêu!
Cha không thể đợi thêm được nữa. Cha phải nhanh chóng bước đến bên con, quỳ xuống
cạnh chiếc giường nhỏ bé và nhìn gương mặt ngây của con trong giấc ngủ với một
niềm ân hận vô cùng.
Có thể, con còn quá bé bỏng để hiểu những cảm xúc đang tràn ngập lòng cha. Cha hứa
với con, ngay từ giây phút này, cha sẽ trở lại là người cha đích thực và luôn biết chân
trọng tình yêu của con ngay cả trong những giây phút nóng giận bừng bừng. Cha sẽ là
người bạn trung thành của con, sẽ đau khổ khi con gặp bất hạnh, sẽ cười vui khi con
gặp may mắn sung sướng. Cha sẽ cắn chặt môi để không thốt ra những lời gắt gỏng
mỗi khi con quỷ giận dữ trỗi dậy trong lòng cha. Cha sẽ tự bảo mình rằng con vẫn còn
bé bỏng.
Ôi, hình như cha đã nhìn đứa con thơ dại của cha như nhìn một con người trưởng thành
thực sự. Giờ đây, nhìn con cuộn mình trong chăn và mệt mỏi ngủ yên trên chiếc giường
bé xíu, cha chợt nhận ra rằng con chỉ là một đứa trẻ thơ ngây. Sáng sáng, con vẫn nũng
nịu trong vòng tay trìu mến của mẹ. Mái tóc tơ mềm mại của con còn vướng víu trên bờ
vai mẹ, cần được che chở trong cảm giác được yêu thương. Vậy mà, cha đã đòi hỏi ở
con quá nhiều….
***
Tôi đã đọc bài viết này nhiều lần mà lúc nào cũng nguyên vẹn cảm xúc như lần đầu tiên.
Rồi tôi tự hỏi đã bao nhiêu lần trong đời, tôi cũng giận dữ vô cớ với những người xung
quanh. Hãy thông cảm, thấy hiểu mọi người thay vì oán trách họ. Hãy đặt mình vào vị trí
của họ để hiểu tại sao họ lại có những hành xử như vậy. “ Biết mọi thứ cũng có nghĩa là
tha thứ mọi thứ.”
Như Tiến sĩ Johnson nói: “ Ngay cả Chúa Trời còn không xét đoán một người cho đến
phút cuối cùng của cuộc đời họ”. Vậy tại sao bạn và tôi lại làm điều đó?
• Những người bạn gặp trên đương đời sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn. Dù
tốt hay xấu, học cũng tặng bạn những kinh nghiệm sống hết sức tuyệt vời.
Chính vì thế, đừng nên lên án, chỉ trích hay than phiền ai cả. Thậm chí, nếu ai đó
làm tổn hay cứ tha thứ cho họ. Bởi vì có thể, chính nhờ họ mà bạn học được
cách khoan dung. Chỉ trích
một người là việc không khó. Vượt lên trên sự phán xế ấy để cư xử rộng lượng,
vị tha
mới là điều đáng tự hào.
Nguyên tắc 1
Không chỉ trích, oán trách than phiền!
Bài 2
Bí mật lớn nhất trong phép ứng xử
Chỉ có một cách hiểu quả nhất để khiến một người thực hiện điều ta
mong muốn. Và, hãy luôn nhớ rằng không có cách nào khác, nếu chúng ta:
*Một tay giật tóc, tay kia gí súng vào đầu một người nào đó và thét lên: “
Có bao nhiêu tài sản, hãy đưa hết cho ta!”;
*Vênh mặt cau có và thách thức nhân viên của mình: “ Nếu không làm
việc chăm chỉ, tôi sẽ đuỗi việc anh/chị ngay lập tức. Nhìn ra ngoài kia mà
xem, biết bao nhiêu người muốn được làm nhân viên của tôi đấy!”;
*Cầm một cây roi mây to và quát con trai: “ Đồ ngu! Nếu mày còn ham
chơi làm dơ bẩn áo quần, tao sẽ cho mày 100 roi”.
Chúng ta cùng thử hình dung chuyện gì sẽ xảy ra trong ba trường hợp
trên?
Mẫu số chung của cả ba trường hợp là những người bị chúng ta đe dọa sẽ
làm theo những gì được yêu cầu. Nhưng, quan trọng hơn cả là họ sẽ làm
với sự chịu đựng, khó chịu, cau có và phẫn uất. Trường hợp xấu hơn nữa
là họ sẽ làm ngược lại. Người bị gí súng có thể quật lại người có súng,
nhân viên sẽ siêng năng trước mặt và dối trá sau lưng hoặc đi tìm một chỗ
làm khác có ông chủ cư xử tốt hơn, còn đứa bé thì sẽ vẫn trốn đi chơi và
sau đó lẻn về nhà tắm rửa tươm tất trước khi bạn kịp phát hiện ra nó đã
không nghe lời.
Thay vì cưỡng bức người khác phải làm theo ý mình, cách đơn giản hơn
có thể khiến người khác làm bất cứ điều gì chính là: Hãy để họ làm điều
học muốn.
Nhà phân tâm học lừng danh Sigmund Freud nói rằng: “ Mọi hành động
của con người đều xuất phát từ hai động cơ: niềm kiêu hãnh của giới tính
và sự khao khát được là người quan trọng”. John Dewey, một trong những
nhà triết học sâu sắc nhất của nước Mỹ lại có cách nhìn hơi khác một
chút: “ Động cơ thúc đẩy sâu sắc nhất trong bản chất con người là
sự khao khát được thể hiện mình”.
Vậy bạn khao khát điều gì cho mình? Những đòi hỏi mãnh liệt nào đang
bùn cháy trong bạn?
Hầu hết mọi người chúng ta đều mong muốn những điều sau đây:
1. Có được sức khỏe tốt và một cuộc sống bình an.
2. Có những món ăn mình thích.
3. Có giấc ngủ ngon.
4. Có đầy đủ tiền bạc và tiện nghi vật chất.
5. Có cuộc sống tốt đẹp ở kiếp sau.
6. Được thỏa mãn trong cuộc sống tình dục.
7. Con cái khỏe mạnh, học giỏi.
8. Có cảm giác mình là người quan trọng.
Hầu hết mọi ước muốn này thường được thỏa mãn, chỉ trừ một điều, mà
điều ấy cũng sâu sắc, cấp bách như thức ăn hay giấc ngủ nhưng lại ít khi
được thỏa mãn. Đó là điều mà Freud gọi là “sự khao khát được là người
quan trọng” hau là “ sự khao khát được thể hiện mình” mà Dewey có nhắc
tới. Tổng thống Lincoln viết: “ Mọi người đều thích được khen ngợi” còn
William James thì tin rằng: “ Nguyên tắc sâu sắc nhất trong bản tính con
người đó là sự thèm khát được tán thưởng”. Không phải chỉ là “mong
muốn”
Hay “khao khát” mà là “ sự thèm khát” được tán thưởng. “ Sự thèm khát”
diễn tả một nỗi khao khát dai dẳng mà không được thỏa mãn. Và những ai
có khả năng thỏa mãn được sự thèm khát này một cách chân thành thì
người đó sẽ “ kiểm soát” được những hành vi của người khác.
Sự khao khát được cảm thấy mình quan trọng là một trong những khác
biệt chủ yếu nhất giữa con người và những sinh vật khác.
Khi tôi còn là một cậu bé ở vùng quê Misouri, cha tôi có nuôi những con
heo giống Duroc- Jersey ngộ nghĩnh thuộc nòi mặt trắng. Chúng tôi
thường mang những chú heo này và những gia súc khác đến triển lãm gia
súc khắp vùng Middle West. Chúng tôi luôn đứng đầu các cuộc thi với giải
thưởng là những dải băng màu lam. Cha tôi thường gắn những dải băng
này trên một tấm vải mỏng màu trắng. Khi bạn bè hay khách khứa đến
thăm nhà, cha tôi thường mở miếng vải ra khoe. Ông cầm một đầu và tôi
cầm đầu kia, rồi ông kể chi tiết với mọi người về từng giải thưởng với
niềm tự hào ánh lên trong mắt.
Những chú heo chẳng hề quan tâm đến các giải thưởng mà chúng đã giành
được. Nhưng cha tôi thì có. Những phần thưởng này kiến ông cảm thấy
mình quan trọng.
Nếu như tổ tiên chúng ta không có sự khao khát cháy bỏng là cảm thấy
mình quan trọng thì sẽ không bao giờ có những nền văn minh độc đáo và
loài người chúng ta ngày nay chẳng hơn gì những loài động vật khác.
Chính sự khao khát được thấy mình quan trọng đã khiến một nhân viên
bán tạp hóa ít học, nghèo khổ chịu khó nghiên cứu những quyển sách luật
cũ kỹ mà cậu tình cờ tìm thấy dưới đáy một cái thùng đựng đồ lặt vặt
được cậu mua lại với giá 50 xu. Có lẽ các bạn đã nghe nói đến tên anh
chàng bán tạp hóa này rồi. Tên anh ta là Lincoln.
Và cũng chính sự khao khát cảm thấy mình quan trọng đã thúc đẩy Charles
Dickens viết nên những tiểu thuyết bất hủ. Sự khao khát này cũng là động
lực để Christopher Wren viết những bản giao hưởng của mình lên đá. Và
chính sự khao khát ấy cũng đã giúp Rockefeller kiếm được hàng triệu đô-
la mà hầu như ông chẳng cần dùng đến một đồng trong số đó!
Khi chúng ta mặc quần áo thời trang, dùng hàng hiệu, đi những chiếc xe
thời thượng, dùng điện thoại di động sành điệu, kể về những đứa con
thông minh, chính là lúc chúng ta thể hiện sự khao khát được tỏ ra quan
trọng trước mọi người.
Tuy nhiên, nỗi khao khát này cũng có mặt trái của nó. Không ít thanh niên
gia nhập các băng nhóm, tham gia những hoạt động tội phạm, sử dụng
heroin và thuốc lắc như để khẳng định mình, để được xã hội nhìn họ như
những “ Siêu nhân”. E. P. Mulrooney, Ủy viên cảnh sát New York, cho
biết: Hầu hết những tội phạm trẻ tuổi đều thể hiện cái tôi rất lớn. Yêu
cầu đầu tiên của chúng sau khi bị bắt giam là đòi xem những tờ báo tường
thuật về chuyện của chúng như thế nào.
Chính cách mỗi người thể hiện sự quan trọng của mình nói lên rất rõ tính
cách thật của họ. John D. Rockefeller tìm được cảm giác về tầm quan
trọng của mình bằng cách đóng góp tiền để dựng nên một bệnh viện hiện
đại ở Bắc Kinh để chữa cho hàng triệu người nghèo mà ông chưa bao giờ
gặp và cũng chưa hề có ý định gặp. Dillinger thích có được cảm giác về
tầm quan trọng của mình bằng cách giết người cướp của. Khi bị FBI
( Cục Điều tra Liên bang Mỹ) săn đuổi, hắn ta đã lao vào một trang trại ở
Minnesota và dõng dạc tuyên bos: “Ta chính là Dillinger!” với niềm tự hào
không cần giấu giếm.
Thực ra, đây là một yếu tố rất “ người”. Gần như ai cũng thế. Nếu không
xem sự khát khao được là quan trọng là một thuộc tính của con người thì
có lẽ nhiều người sẽ kinh ngạc khi biết rằng, ngay cả những nhân vật nổi
tiếng nhất, những con người được tôn vinh nhất trong lịch sử loài người
cũng thế. Người ta có thể ngạc nhiên tự hỏi vì sao người vĩ đại như
George Washington cũng muốn được gọi là “ Đức Ngài Tổng thống Hợp
Chủng quốc Hoa Kỳ”. Người ta lại thắc mắc tại sao một con người tài trí
như Christopher Columbus cũng muốn có được danh hiệu “ Thủy sư Đô
đốc Đại dương và Phó vương Ấn Độ”. Và, người ta sẽ càng ngạc nhiên
hơn nữa nếu biết rằng nữ hoàng Catherine vĩ đại không chịu mở bất kỳ
bức thư nào nếu không có lời đề bên ngoài: “ Kính gửi Nữ Hoàng Quyền
uy”.
Các nhà tỷ phú chỉ đồng ý tài trợ cho cuộc viễn chính của thủy sư đô đốc
Byrd đến Nam Cực năm 1928 với yêu cầu duy nhất là tên của họ phải
được đặt cho những dãy núi băng ở đó. Victor Hugo không khao khát gì
hơn là thành phố Paris được đổi thành tên ông. Ngay cả Shakespeare,
người được mệnh danh là người vĩ đại nhất trong số những người vĩ đại,
cũng muốn làm vẻ vang thêm tên tuổi của mình bằng cách xin hoàng gia
ban cho một tước hiệu quý tộc.
Đôi khi, có người tự biến mình thành tàn tật để có được sự thương hại,
sự quan tâm của người khác, để cảm thấy mình quan trọng. Đệ nhất phu
nhân McKinley tìm cảm giác qan trọng bằng cách bắt chồng bà, Tổng
thống William McKinley của Mỹ, mỗi ngày phải tạm gác việc quốc chính
một vài giờ để ở bên giường ru bà ngủ. Bà nuôi dưỡng khao khát cháy
bỏng được mọi người chú ý bằng cách yêu cầu ông phải ở bên bà ngay cả
khi bà đi khám răng. Có lần, bà đã làm ầm ĩ khi ông “dám” để bà một mình
với nha sĩ vì phải tham dự một cuộc họp quan trọng với Bộ trưởng Ngoại
giao.
Nhà văn Mary Roberts Rinehart có lần kể tôi nghe về một cô gái thông
minh và mạnh khỏe đã trở nên bệnh tật chỉ vì muốn có được cảm giác
mình quan trọng. Bà Rinehart: “Cô ta nằm lỳ trên giường suốt 10 năm
ròng để người mẹ già phải vất vả lên xuống ba tầng lầu phục dịch cô
mỗi ngày. Một hôm, người mẹ già mệt mỏi đổ bệnh và sau đó qua đời.
Trong vài tuần kế đó, cô ta mới ốm liệt giường thật sự. Nhưng rồi cô ta
nhanh chóng hồi phục và bắt đầu cuộc sống khỏe mạnh bình thường như
chưa bao giờ ngã bệnh”.
Thậm chí, người ta có thể hóa điên để tìm trong cơn điên cái cảm giác là
người quan trọng, điều mà họ không thể có được trong thế giới trần trụi
này. Không ít người mải mê “ chiến đấu” trong các trò chơi vi tính để
biến mình thành anh hùng hảo hán. Trong khi ngoài đời thực họ chỉ là
những con người bình thường, không vai vế, không địa vị xã hội.
Một vị bác sĩ trưởng khoa thần kinh của một bệnh viện tâm thần uy tín
nhất nước Mỹ quả quyết rằng nhiều bệnh nhân đã tìm thấy trong thế giới
điên rồ cái cảm giác trở thành một nhân vật quan trọng mà họ không thể
có được trong đời thực. Ông kể cho tôi nghe câu chuyện sau: “ Gần đây
tôi có một nữ bệnh nhân gặp bi kịch gia đình. Cô ấy muốn được quan tâm,
muốn được ân ái, yêu thương. Cô muốn có con cái và có uy tín xã hội,
nhưng cuộc sống thực tế đã chà đạp lên tất cả những ước muốn của cô.
Chồng cô không yêu cô. Anh ta thậm chí không chịu ngồi ăn cùng cô mà
bắt cô phải phục vụ bữa ăn cho anh ta trong một căn phòng trên gác. Cô
không có con, cũng không có địa vị xã hội gì cả. Kết quả là cô bị bệnh tâm
thần. Trong tưởng tượng của cô, cô thấy mình đã ly dị chồng, trở lại là
một con người tự do. Rồi sau đó, cô lại nghĩ rằng mình đã lấy được một
người thuộc dòng dõi quý tộc Anh và nhấn mạnh việc mình được gọi là “
Phu nhân Smith”. Hơn thế nữa, cô còn hình dung mỗi tối cô có thêm một
đứa con. Mỗi lần tôi đến thăm, cô đều nói: “ Thưa bác sĩ, tối qua tôi vừa
sinh con”.
Cuộc sống đã đẩy mội con tàu mơ ước của cô va vào những tảng đá sắc
cạnh của thực tế. Nhưng tại những hòn đảo tràn ngập ánh nắng của trí
tưởng tượng điên rồ, con tàu mơ ước ấy đã cập bến với cánh buồm phấp
phới hoan ca trong gió. Vì bác sĩ khẳng định với tôi: “ Nếu như chỉ cần
giơ tay ra là có thể chữa lành căn bệnh cho cô ấy, tôi cũng sẽ không làm.
Sống như thế này cô ấy hạnh phúc hơn nhiều”.
Nếu một vài người khao khát đến mức hóa điên để có được cảm giác
mình là người quan trọng thì bạn hãy hình dung xem phép màu nào sẽ giúp
cho bạn và tôi có được điều đó mà không cần phải đến miền điên rồ của
trí tưởng tượng?
Một trong những người đầu tiên ở Mỹ được trả lương trên một triệu đô-
la mỗi năm là Charles Schwab( thời mà nước Mỹ chưa có thuế thu nhập cá
nhân và một người được xem là giàu có khi mỗi tuần kiếm được 50 đô-
la). Ông đã được Andrew Carnegie bổ nhiệm vào chức chủ tịch đầu tiên
của Tập đoàn Thép Hoa kỳ vào năm 1921 khi chỉ mới ba mươi tám tuổi.
Vì sao Andrew Carnegie đồng ý trả một triệu đô- la mỗi năm, tức gần 30
ngàn đô- la mỗi ngày cho Charles Schwab? Phải chăng vì Charles Schwab
là một thiên tài? Hay vì ông có kiến thức về thép hơn những người khác?
Hoàn toàn không. Chính Charles Schwab bảo tôi rằng, nhiều người làm
việc cho ông có kiến thức về chế biến thép hơn hẳn ông. Lý do Schwab
được trả lương cao như thế là vì ông có khả năng thu phục lòng người.
Ông chia sẻ, bí quyết của ông chính là “ khả năng tạo niềm hưng phấn ở
những người cùng làm việc. phát huy những ưu điểm mạnh nhất ở một
con người bằng cách nhìn nhận, tán thưởng và khuyến khích họ”.
“ Không có cách nào giết chết ước mơ và nỗ lực phấn đấu của con người
bằng thái độ và những lời chỉ trích của cấp trên. Tôi không bao giờ chỉ
trích một ai. Tôi tin tưởng vào việc tạo ra động lực cho mọi người làm
việc. Điều này làm cho tôi luôn mong muốn khen ngợi người khác và
không thích làm tổn thương thêm những lỗi lầm của họ. Nếu tôi thích thú
một điều gì đó, tôi sẽ luôn động viên, khuyến khích bằng tất cả sự chân
thành và hưởng ứng nhiều tình nhất của mình.”
Đó là những gì Schwab đã làm. Vậy những người tầm thường ứng xử ra
sao? Họ làm ngược lại hoàn toàn. Nếu họ không thích điều gì, họ sẽ quát
mắng nhân viên; còn nếu họ thích, họ sẽ chẳng nói gì. Như một câu nói
ngày xưa: “ Làm tốt đến đâu, không một lời khen; sai lầm một lần, nhắc
nhở suốt đời”.
Schwab chia sẻ: “ Trong suốt cuộc đời mình, tôi chưa từng gặp người nào
làm tốt công việc của mình nếu không có sự ủng hộ của người khác”.
Andrew Carnegie cũng vậy. Và đó là một trong những lý do làm nên thành
cong phi thường của “ ông vua” thép. Andrew Carnegie khen ngời những
người hợp tác với mình lúc công khai, lúc kín đáo. Thậm chí, ngay cả trên
tấm bia mộ của mình, ông còn khen tặng tất cả những người đã từng làm
việc cho ông: “ Đây là nơi yên nghỉ của một người biết cách tập hợp
những người tai giỏi hơn mình”.
Sự khen ngợi, cảm kích thành thực là một trong những bí quyết thành
công đầu tieencuar John D. Rockefeller trong ứng xử vời mọi người. Khi
nhân viên của ông là Edward Bedford gây thiệt hại một triệu đô-la trong
một vụ mua bán ở Nam Mỹ, thay vì chỉ trích, John D. Rockefeller lại tán
thưởng Bedford vì đã cứu được 60% số tiền Rockefeller đã đầu tư.
Rockefeller làm như vậy vì biết rằng Edward đã cố gắng hết sức. Ông
nói: “Điều đó thật tuyệt. Chúng ta không phải lúc nòa cũng làm tốt được
như vậy”.
Trong số các mẩu báo tôi cắt để lại, có một câu chuyện vui mà tôi biết là
không có thực nhưng nó lại minh họa cho một sự thật. Rôi sẽ kể lại cho
các bạn nghe:
Lần nọ, sau một ngày làm viêc cực nhọc, vợ một người nông dân đã
quẳng trước mặt những người đàn ông trong gia đình bà một đống cỏ khô
thay vì dọn bữa tối như mọi khi. Khi họ tức tối hỏi bà có điên hay không,
bà đáp: “Tôi đã nấu ăn cho các người suốt 20 năm nay và trong suốt thời
gian đó tôi chưa hề nghe ai cảm ơn một câu hay nói với tôi rằng các người
không biết ăn cỏ khô”.
Một công trình nghiên cứu cách đây vài năm về việc những người vợ bỏ
nhà ra đi cho thấy nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này chính là do “
thiếu sự nhìn nhận và trân trọng”. Và tôi chắc chắn rằng nếu có một công
tình nghiên cứu về lý do những người chồng bỏ nhà đi thì cũng thu được
một kết quả tương tự. Chúng ta thường cho rằng việc vợ hay chồng mình
ở bên cạnh là lẽ đương nhiên nên rất hiếm khi dành cho họ một lời cảm
ơn hay sự trân trọng.
Một học viên trong lớp của chúng tôi kể rằng vợ anh và một nhóm phụ nữ
khác trong nhà thờ cùng tham gia vào một chương trình tự hoàn thiện bản
thân. Chị đề nghị anh giúp bằng cách liệt kê sáu điều mà anh cho là chị có
thể thay đổi để trở thành một người vợ tốt hơn. Anh ấy kể lại với lớp
học như sau: “ Tôi ngạc nhiên trước một yêu cầu như vậy. Thú thực, tôi
có thể dễ dàng liệt kê sáu điều tôi muốn cô ấy thay đổi. Và, tất nhiên là cô
ấy cũng có thể liệt kê một ngàn chuyện cô ấy muốn tôi thay đổi nhưng tôi
đã làm không làm thế. Tôi bảo: “ Cho anh suy nghĩ và snags mai anh sẽ trả
lời”. Sáng hôm sau, tôi dậy rất sớm, tìm mua tặng vợ sáu bông hồng cới
một tăm thiệp ghi: “Anh không thể nhĩ ra sáu điều mà anh muốn em thay
đổi. Anh yêu em như chính em bây giờ!”. Chiều hom đó, khi về nà, tôi
được vợ chào đón bằng những giọt nước mắt đầy xúc động. Không cần
phải nói, tôi vô cùng vui sướng vì đã không phê phán cô ấy như yêu cầu.
Chủ nhât sau đó ở nhà thờ, sau khi vợ tôi báo cáo lại kết quả của công
việc được giao, nhiều phụ nữ cùng học với cô ấy đã đến gặp tôi và nói: “
Từ trước đến nay chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy một cử chỉ nào lịch
thiệp, chu đáo và ngọt ngào đến như vậy”. Lúc đó tôi mới thất sự hiểu
được sức mạnh của sự trân trọng và lòng biết ơn”.
Tôi đã có lần tập theo phong trào nhịn ăn và đã thử sống sáu ngày sáu đêm
mà không ăn gì. Thực ra cũng không khó lắm. Cuối ngày thứ sáu, tôi cũng
không đói hơn cuối ngày thứ hai. Tuy nhiên nếu chúng ta để gia đình hay
nhân viên của mình nhịn đói sáu ngày thì lại là một lỗi lầm lớn. Thế mà,
chúng ta lại để gia đình thân yêu của mình, những nhân viên cần mẫn và
tận tụy của mình phải nhịn đến sáu tuần hay thậm chí đến sáu mươi năm
mà không có đến một lời tán thưởng thật lòng.Chúng ta không chịu nhớ
rằng họ đang khao khát đến cháy lòng một lời khen ngợi của chúng ta,
chẳng kém gì một người mong có được một bữa ngon lành khi đang đói
cồn cào.
Alfred Lunt, một trong những diễn viên xuất sắc nhất mọi thời đại, người
đóng vai chính trong vở kịch Reunion in Vienna, đã nói: “ Điều tôi cần hơn
cả cho cuộc sống của mình là nuôi dưỡng sự trân trọng đối với bản thân
mình”.
Chúng ta nuôi dưỡng phần thể chất của con cái, quan tâm đến cuộc sống
vật chất của nhân viên mình nhưng lại rất ít khi nuôi dưỡng hau truyền
cho họ sự tự trân trọng những giá trị bản thân. Chúng ta có thể cung cấp
cho họ những thức ăn ngon nhưng lại thường quên tặng họ những lời
khen thật lòng mà học sẽ nhớ mãi như nhớ những giai điệu êm ái tuyệt
vời nhất.
Paul Harvey, trong một buổi phát thanh của mình, đã kể một câu chuyện
minh chứng rằng việc khen ngợi, cảm kích thành thật có thể thay đổi
cuộc đời một con người như thế nào: “ Cách đây nhiều năm có một cô
giáo ở Detroit nhờ Stevie Moris giúp cô tìm một con chuột trong lớp. Cô
đánh giá rất cao tài năng của Stevie và khen Stevie rằng Thượng Đế đã
tặng cho Stevie một đôi tai thính để bù lại sự khiếm thị. Cô không ngờ
rằng đây thực sự là lần đầu tiên Stevie được người khác trân trọng, đánh
giá cao về khả năng của đôi tai mình và quên đi sự khiếm khuyết trước
giờ. Cho đến bây giờ, Stevie thừa nhận rằng sự trân trọng ngày ấy đã tạo
ra một bước ngoặt trong cuộc đời ông. Từ khi được đề cao và phát hiện ra
năng khiếu nghe của mình, ông đã nỗ lực phát huy khả năng cho đến khi
trở thành một trong những ca sĩ nhạc pop tuyệt vời nhất đồng thời là nhạc
sĩ sáng tác những ca khúc hay nhất trong thập niên 70, dưới cái tên huyền
thoai Stevie Wonder”.
Khi đọc những câu chuyện này, có thể bạn sẽ nói: “ Trời! Toàn là những
lời xu nịnh vô nghĩa! Tôi cũng đã từng thử như vậy. Nhưng cách này thực
sự không ổn, đặc biệt với những người nhạy cảm và căm ghét thói giả
dối, xu nịnh!”.
Dĩ nhiên, xu nịnh ít khi thành công với những người hiểu biết và có khả
năng phân biệt sâu sắc giữa nịnh hót với lời khen ngợi và cảm ơn chân
thành. Bởi vì tâng bốc chỉ là lời lẽ hời hợt, ích kỷ, hoàn toàn không trung
thực, và chắc chắn thất bại. Tuy vậy, cũng có một số người khao khát
được tán thưởng đến mức họ nuốt bất kỳ lời khen nào như một người đói
ăn cả rau lẫn con sâu bám trong đó. Tâng bốc giả tạo cũng như tiền giả,
nó dẽ gây khó khăn khi chúng ta chuyển nó cho một người nào khác.
Sự khác nhau giữa cảm kích và tâng bốc nằm ở đâu? Rất đơn giản! Điều
nàu là thành thực còn điều kia là không thành thực. Một điều xuất phát từ
tấm lòng, một điều chỉ từ cửa miệng. Một điều là vô tư, chân thành, một
điều là ích kỷ, có mục đích. Một điều được mọi người cảm nhận, xúc
động, một điều thì bị mọi người lên án.
Gần đây tôi được nhìn thất bức tượng bán thân của một anh hùng Mexico
là Tướng Alvaro Obregon tại lâu đài Chapultepec ở Mexico. Dưới tượng
khắc những lời lẽ đầy triết lý của Obregon: “ Đừng sợ những kẻ thù tấn
công anh mà hãy sợ những người bạn mình hót anh”.
Đúng! Tôi hoàn toàn không khuyến khích sự xu nịnh! Tôi đang nói đến
một cách sống mới. Cho phép tôi nhắc lại: Một cách sống mới.
Vua George V có một loạt sáu câu châm ngôn được viết trên những bức
tường trong phòng học của ông tại cung điện Buckinham. Một trong
những châm ngôn này viết: “ Hãy ngăn tôi đừng trao và nhân những lời
khen ngợi rẻ tiền”. Mọi lời nịnh hót đều là lời khen ngợi rẽ tiền. Tôi rất
tâm đắc với một định nghĩa cho rằng: “ Nịnh hót là nói với một người
khác chính điều mà anh ta thích nghĩ về mình”.
Khi đầu óc không vướng bạn, chúng ta thường dành gần 95% thời gian để
nghĩ về mình. Hãy ngừng việc nghĩ về bản thân trong lát và bắt đầu nghĩ
về điều tốt của những người xung quanh. Khi ấy, tôi và bạn sẽ thấy mình
không cần dùng đến những lời nịnh hót nữa. đó chỉ là một thứ rẻ tiền và
giả dối.
Một trong những giá trị bị chúng ta lãng quên nhiều nhất trong cuộc sống
hàng ngày chính là sự cảm kích, trân trọng. Chẳng biết vì sao chúng ta cứ
hay quên khen ngợi con cái của mình khi chúng đem về nhà tờ giấy khen
hay quyển sổ liên lạc ghi thành tich học tập tốt trong tháng qua. Chúng ta
quên khuyến khích con cái khi lần đầu tiên tự chúng làm được một cái
bánh hay tự giác dọn dẹp gọn gàng góc học tập của mình…Không có điều
gì làm con trẻ vui sướng hơn là sự quan tâm và khen ngợi của bố mẹ.
Mỗi khi thưởng thức một món ngon ở nhà hàng, tôi luôn tự dặn mình nhớ
nói với người đầu bếp rằng món ăn ấy rất tuyệt. Khi gặp một người bán
hàng mệt mỏi mà vẫn biểu lộ sự ân cần với khách thì tôi cũng luôn nhắc
nhở mình hãy nhớ cảm ơn anh ta vì sự phục vụ tận tâm, nhiệt tình.
Tất cả diễn viên, ca sĩ và diễn giả trên thế giới nản lòng nếu không được
nhận những trang vỗ tay khen ngợi nào từ khán thính giả. Nếu điều này
đúng đối với những người biểu diễn chuyên nghiệp thì nó còn đúng gấp
nhiều lần đối với những người làm việc trong các cơ quan, cửa hàng, nhà
máy, trong gia đình và bạn bè chúng ta. Trong tất cả quan hệ giữa người
với người, chúng ta hãy luôn nhớ rằng mọi người hợp tác với mình cũng
đều là những con người và họ đều khao khát nhận được sự công nhận,
đánh giá cao và trân trọng vì những gì họ đã làm.
Hãy thắp lên ngọn lửa của sự biết ơn chân thành đối với mọi người trong
cuộc sống. Sự lan tỏa của ngọn lửa này sẽ mang lại cho bạn những giá trị
vượt thời gian.
Chỉ trích hay xúc phạm người khác không bao giờ làm thức tỉnh hay thay
đổi được họ trở nên tốt hơn, vậy nên bạn đừng bao giờ làm thế! Có một
câu châm ngôn cổ rất hay mà tôi đã dán lên tấm gương soi để ngày nào
cũng có thể nhìn thấy: “ Tôi chỉ sống treenthees gian này có một lần, vì vậy
nếu có thể làm bất cứ điều gì tốt đẹp nào hay thể hiện lòng nhân ái, tri ân của
mình với bất kỳ ai, tôi sẽ thực hiện ngay không chậm trễ, bởi tôi biết mình sẽ
không sống đến lần thứ hai, hoặc sợ mình không còn cơ hội”.
Triết gia Emerson nói: “ Mọi người tôi gặp đều có những điểm hay hơn
tôi và tôi luôn học được điều gì đó từ họ”. Mong rằng điều này cũng đúng
với bạn và tôi. Chúng ta hãy ngừng nghĩ đến những thành tich, mong
muốn của mình và thử tìm hiểu những điểm tốt của người khác. Mọi
người sẽ hết sức ghi nhận những lời khen ngợi của trong suốt cuộc đời
họ. bạn và luôn có động lực để thực hiện những điều tôt đẹp tương tự
trong suốt cuộc đời họ.
* Biết khen ngợi và cảm ơn những người xung quanh một cách chân thành
chính là chiếc đũa thần tạo nên tình thân ái và nguồn động viên tinh thần
to lớn. Đó là niềm vui rằng mỗi người đang được quan tâm, công nhận và
yêu thương. Mỗi người được khen ngợi chân thành sẽ tự nhiên sửa đổi
những tình xấu để trở nên hoàn thiện hơn.