logo

Mười tác động lớn của Thương mại điện tử

Tác động sâu rộng của thương mại điện tử đối với cuộc sống hiện đại, đem đến nền văn minh cho con người.
Mười tác động lớn của Thương mại điện tử Khía cạnh hấp dẫn nhất của TMĐT là nó chứa đầy những biến thể. Có lẽ một người có thể thậm   chí tìm ra 50 cách giải quyết một vấn đề. Rồi thì một lần nữa 50 cách này có thể không có tác   dụng. (Andy Grove – Chủ tịch Intel) Có lẽ nhiều người vẫn còn băn khoăn: tại sao cứ phải làm rùm beng trong từng chủ đề liên quan  đến TMĐT như thế? Sở dĩ như vậy là vị nó là một hệ thống tạo ra của cải vật chất mới. TMĐT không phải là một phương thức mới của thương mại. Thực ra nó đánh dấu sự bắt đầu của  một hệ thống tạo ra của cải vật chất mới. Nó là một cơ hội thương mại tuyệt vời để phát triển kinh  tế. Đó là lý do tại sao nhiều người đang đổ tiền vào khai thác TMĐT. Nhờ có thông tin liên lạc tiên tiến, mọi người biết rằng chúng ta cần xây dựng một hệ thống tạo ra  của cải vật chất mới trong một nền văn minh mới. Bất cứ ai làm chủ được hệ thống tạo ra của cải  vật chất mới sẽ làm chủ nền văn minh mới. Điều đó cũng giống như các nhà tư bản đầu tiên đã  làm chủ thế giới như thế nào bởi vì họ đã làm chủ hệ thống tạo ra của cải vật chất trong thời đại  công nghiệp. TMĐT có một tác động sâu rộng bởi vì nó là một nền văn  minh mới. Ngày nay, các doanh nghiệp  TMĐT có thể làm những việc giống như các nhà máy đã từng làm trong suốt thời đại công nghiệp  khi họ lấy đi các công việc của người nông dân. Điều này cũng giải thích cho vụ sáp nhập trị giá  185 tỷ USD giữa American Online và Time Warner. Tổng số dự trữ ngoại tệ của Đài Loan đứng  hàng thứ ba trên thế giới (chưa đến 100 tỷ USD). Nhưng tổng tài sản của hai công ty Mỹ này lại  vượt xa so với hàng thập kỷ tiết kiệm của 200 triệu người dân Đài Loan. Lý do là gì vậy? Đó là Mỹ, với Internet và máy tính PC tiên tiến nhất trên thế giới đã nhận thức  được làn sóng mới thuộc về xã hội mạng. Cái cốt lõi của xã hội mạng là TMĐT. Bất cứ ai làm chủ  được TMĐT thì sẽ làm chủ nền văn minh sắp tới. Ví dụ tập đoàn Sears cần một thế kỷ để trở thành hệ thống siêu thị lớn nhất thế giới. Tuy nhiên,  Wal­Mart được thành lập năm 1980 chỉ cần 20 năm để vượt qua Sears trở thành hệ thống siêu thị  lớn nhất thế giới. Amazon.com, một hiệu sách trực tuyến được thành lập năm 1995 chỉ cần mất 4  năm để vượt qua Wal­Mart về giá trị thị trường. Từ đây, chúng ta có thể nhận thấy tầm quan trọng  của TMĐT. Nó không phải là một thực thể không ổn định giống như chứng khoán và cổ phiếu.  Thực ra, nó là một thực thể chắc chắn và thực tế. Gần đây, tôi đã nghiên cứu Amazon.com. Nó có khoảng 6 triệu khách hàng mà rất nhiều người  trong số là những khách hàng thường xuyên. Hãy nghĩ kỹ về điều đó. Nếu một trạm Web có nhiều  khách hàng thường xuyên, nó không có gì khác so với bất kỳ cửa hàng nào. Khi chúng ta mua thứ  gì đó, chúng ta không cần đi đến cửa hàng. Điều quan trọng nhất là chúng ta có thể mua cái mà  chúng ta cần và người bán có thể nhận được tiền thanh toán. Như vậy thì không cần phải đi đến  cửa hàng để mua sắm nữa. Nếu 6 triệu người cảm thấy thật dễ dàng, thuận tiện, tiết kiệm thời gian khi mua sách trực tuyến  thì tự nhiên họ sẽ có thói quen mua bán trực tuyến. Nếu ngày càng có nhiều người làm như vậy  thì có phải là vô số các hiệu sách sẽ làm các cửa hàng phải đóng cửa? Đấy là tác đọng của  TMĐT đối với các hiệu sách. Hiển nhiên rằng TMĐT là hệ thống tạo ra và của cải vật chất của nền văn minh sắp tới. Chúng ta  có thể nhìn và nghe thấy rằng nó tạo ra một tác động to lớn đến cuộc sống của chúng ta. Nếu gọi  nó là kỹ năng luyện vàng mới của thế kỷ mới thì cũng không quá.   Tuy nhiên, trong khu vực này bất cứ cái gì đều biến động nên có một số quy tắc cần được tuân  thủ, đó là các cơ hội phải được tận dụng và các biện pháp phải được thực hiện để khách hàng còn  quay trở lại. Chỉ như thế người ta mới có thể tận hưởng hương vị ngọt ngào của thành công. Mười tác động lớn liệt kê dưới đây cho chúng ta thấy sự biến đổi từ thương mại truyền thống sang  TMĐT ảnh hưởng thế nào đến cuộc sống của chúng ta. 1. Phá vỡ các giới hạn của không gian và thời gian Có những người vẫn còn nghĩ rằng chúng ta chỉ tới đơn đặt hàng khi nói về TMĐT. Có người hiểu  rằng đó là việc mua cái mà chúng ta thích trên Internet và hãng sản xuất sẽ giao hàng đến cửa  nhà chúng ta. Ý tưởng này dường như rất giống với đơn đặt hàng. Những người hiểu điều này đã  thực sư dự báo được sức mạnh của hệ thống tạo ra của cải vật chất mới. Nó hoàn toàn không  phải là đơn đặt hàng. TMĐT đã phá vỡ các giới hạn của thời gian và không gian. Ví dụ, hiệu sách lớn nhất thế giới có  thể chứa khoảng 170.000 cuốn sách. Nhưng bạn có thể xem hàng triệu cuốn sách của Amazon  trên Internet. Hơn thế nữa, số lượng sách ngày càng tăng theo thời gian. Lý do là nó không bị hạn  chế về không gian và thời gian. Một điểm nữa là hầu hết các hiệu sách bị giới hạn về giờ mở cửa. Mặc dù đã xuất hiện các hiệu  sách mở cửa 24 giờ/ ngày thì những hiệu sách này vẫn còn rất ít ỏi. Bạn vẫn còn phải đi ra khỏi  nhà và tìm tên cuốn sách bạn muốn trên giá sách. Việc này tiêu tốn cả thời gian và công sức. Và  bạn có thể thậm chí không tìm thấy cuốn sách mà bạn muốn. Tuy nhiên, các hiệu sách trực tuyến mở cửa 24giờ/ ngày và 7 ngày/ tuần. Thậm chí, nếu bạn thức  dậy vào lúc nửa đêm, bạn chỉ cần ấn bàn phím để tìm cuốn sách bạn muốn và bạn tìm cuốn sách  theo thời gian thực. Bạn không bị ràng buộc bởi các giới hạn về không gian và thời gian. Và đến  một lúc nào đó các hiệu sách truyền thống sẽ bị loại ra. Trừ khi bạn không quan tâm đến việc tiêu  tốn thời gian và công sức để tìm một quyển sách ở một hiệu sách, làm sao bạn có thể chống lại ý  tưởng của một hiệu sách trực tuyến? Các siêu thị có 10 triệu mặt hàng Cái gì là sự khác biệt giữa một siêu thị và một cửa hàng tạp hóa? Sự khác biệt hiển nhiên nhất là   số lượng mặt hàng bán ra. Với không gian nhỏ của một cửa hàng tạp hóa, một cửa hàng cỡ lớn   có thể bày bán khoảng 9.000 đến 10.000 mặt hàng và thậm chí một cửa hàng cỡ lớn hơn nữa có   thể bày bán khoảng 20.000 đến 40.000 mặt hàng. Tuy nhiên, các siêu thị với nhiều tầng có thể   bày bán từ 80.000 đến 120.000 mặt hàng. Một siêu thị khổng lồ như Wal­Mart có thể bày bán tới   200.000 mặt hàng. Điều này có vẻ như là quá đủ nhưng cũng là một vấn đề không thể xem   thường được. Chừng nào sản phầm mà bạn tìm kiếm còn thuộc về các mặt hàng được bày bán thì bạn còn có   thể tìm thấy nó. Nhưng nếu nó không được bày ra thì bạn sẽ không tìm thấy nó. Do đó, vấn đề là   cho dù siêu thị lớn như thế nào thì nó vẫn có giới hạn. Không thể có siêu thị nào, cho dù mặt   bằng cực lớn có thể đáp ứng được nhu cầu của mọi khách hàng.   Cái gì là sự khác biệt giữa một siêu thị và một cửa hàng tạp hóa? Sự khác biệt hiển nhiên nhất là  số lượng mặt hàng bán ra. Với không gian nhỏ của một cửa hàng tạp hóa, một cửa hàng cỡ lớn có  thể bày bán khoảng 9.000 đến 10.000 mặt hàng và thậm chí một cửa hàng cỡ lớn hơn nữa có thể  bày bán khoảng 20.000 đến 40.000 mặt hàng. Tuy nhiên, các siêu thị với nhiều tầng có thể bày  bán từ 80.000 đến 120.000 mặt hàng. Một siêu thị khổng lồ như Wal­Mart có thể bày bán tới  200.000 mặt hàng. Điều này có vẻ như là quá đủ nhưng cũng là một vấn đề không thể xem  thường được.Chừng nào sản phầm mà bạn tìm kiếm còn thuộc về các mặt hàng được bày bán thì  bạn còn có thể tìm thấy nó. Nhưng nếu nó không được bày ra thì bạn sẽ không tìm thấy nó. Do  đó, vấn đề là cho dù siêu thị lớn như thế nào thì nó vẫn có giới hạn. Không thể có siêu thị nào,  cho dù mặt bằng cực lớn có thể đáp ứng được nhu cầu của mọi khách hàng.  Nhưng trên Internet thì hoàn toàn khác. Do nội dung không hạn chế trên Internet, tất cả các sản  phẩm có thể được hiển thị để người tiêu dùng lựa chọn. Nếu một trang Web được thiết kế để giới  thiệu sản phẩm thì nó có thể thay thế các giá bày hàng vật lý. Dưới sức ép cạnh tranh gay gắt của  các cửa hàng trực tuyến, Wal­Mart đã đưa ra kế hoạch làm tăng số lượng và chủng loại các mặt  hàng bày bán. Họ quyết định giới thiệu trên mạng một số loại hàng hóa mà họ không thể chứa  được để phá vỡ giới hạn về không gian và thời gian. Họ cũng đưa ra một tuyên bố chắc nịch: “Tới  năm 2005, Wal­Mart mong muốn bán tới 10 triệu mặt hàng để trở thành một siêu siêu thị”.   Đối với một siêu thị nâng số mặt hàng từ 200.000 lên 10 triệu, thì quy mô kinh doanh chắc chắn  sẽ tăng lên nhiều lần. Do đó, nhiều người đã đi hết cả siêu thị vẫn không mua được gì bởi vì họ  không tìm thấy cái mà họ cần. Điều này có thể xảy ra bởi vì tính đa dạng được cung cấp hoặc  một dải kích thước không hoàn chỉnh. Các siêu thị trực tuyến không làm mất khách hàng theo  cách này do hàng hóa không bị giới hạn. Thậm chí khách hàng sẽ còn quay lại bởi vì họ có mọi  thứ! Các hoạt động thương mại không ngừng – Không có kỳ nghỉ hàng năm; dịch vụ 24 giờ/ngày Các hoạt động thương mại không ngừng là một hình thức phá vỡ các giới hạn của không gian và  thời gian. TMĐT có thể thực hiện 24 giờ trong ngày, 365 ngày trong năm. Giả sử tôi muốn mua  một áo len dài tay vào lúc 1 giờ sáng nhưng các cửa hàng đã đóng cửa vào giờ đó. Vào ngày hôm  sau, tôi lại quên việc mua áo. Như thế, cửa hàng đã mất đi một cơ hội bán áo. Do giới hạn thời  gian, cơ hội bán chiếc áo len dài tay cho tôi đã mất.   Vấn đề đó sẽ không xảy ra trong TMĐT. Một người truy nhập vào Internet có thể mua một cái gì  đó vào bất kỳ thời điểm nào, ở bất kỳ đâu. Kết quả là sản lượng thương mại thế giới sẽ tăng lên.  Thương mại không ngừng là tác động đầu tiên của TMĐT. Mua tại chỗ ­ Theo yêu cầu Trước đây, khi bạn mua hàng thì đó là phương thức mua hàng tại chỗ. Chúng ta chỉ có thể mua   các sản phẩm hoặc dịch vụ đã có sẵn. Nếu chúng không được bày bán hoặc chúng ta không tìm   thấy chúng thì chúng ta không biết được sản phẩm hoặc dịch vụ mà mình cần đã có chưa.   Trước đây, khi bạn mua hàng thì đó là phương thức mua hàng tại chỗ. Chúng ta chỉ có thể mua  các sản phẩm hoặc dịch vụ đã có sẵn. Nếu chúng không được bày bán hoặc chúng ta không tìm  thấy chúng thì chúng ta không biết được sản phẩm hoặc dịch vụ mà mình cần đã có chưa.  Nhờ công nghệ Internet trở nên phổ biến, một siêu thị trước đây thường bán khoảng 200.000 mặt  hàng có thể tăng số mặt hàng bán ra lên tới 10 triệu. Người sử dụng có thể đặt hàng tay vì mua  hàng tại chỗ. Họ chỉ cần thông báo trên Internet sản phẩm dịch vụ mà họ cần là họ có thể tìm ra  nó.   2. Quan hệ trực tiếp giữa nhà cung cấp và người tiêu dùng Tác động thứ hai là nhà cung cấp có thể có quan hệ trực tiếp tới người tiêu dùng, do đó bỏ qua  được các khâu trung gian. Trước đây, ngay cả khi một nhà máy có thể sản xuất tới một triệu mặt  hàng, nhưng họ không biết khách hàng của họ ở đâu. Với Internet, điều này sẽ không xảy ra. Vào năm 1999, công ty Dell đã bán được 10 triệu máy tính  PC trực tiếp cho người sử dụng.   Họ đã tránh được rủi ro không tìm thấy khách hàng và không mất chi phí lưu kho hàng hóa. Điều  đó cũng giống với Amazon. Một khi họ hiểu được nhu cầu của người đọc, họ sẽ bớt bị rủi ro, tiết  kiệm chi phí và tăng suất lợi nhuận. Cuộc cách mạng về hệ thống bán lẻ Trước đây, nhà cung cấp và người tiêu dùng có mối liên hệ còn chưa nhiều. Ngay cả với phương   thức đặt hàng trực tiếp qua thư từ được gửi đi từ trước khi tìm được đúng khách hàng. Mặt khác,   nhà cung cấp không biết phải tìm các thông tin của khách hàng ở đâu. Internet quy tụ mọi người   và cửa hàng vớinhau nên các nhà cung cấp có thể có quan hệ trực tiếp với người sử dụng. Điều   này mở ra một chương mới trong cuộc cách mạng về hệ thống bán lẻ. Nó làm đơn giản hóa toàn   bộ tiến trình thương mại và đem lại hiệu quả sản xuất.   Trước đây, nhà cung cấp và người tiêu dùng có mối liên hệ còn chưa nhiều. Ngay cả với phương  thức đặt hàng trực tiếp qua thư từ được gửi đi từ trước khi tìm được đúng khách hàng. Mặt khác,  nhà cung cấp không biết phải tìm các thông tin của khách hàng ở đâu. Internet quy tụ mọi người  và cửa hàng vớinhau nên các nhà cung cấp có thể có quan hệ trực tiếp với người sử dụng. Điều  này mở ra một chương mới trong cuộc cách mạng về hệ thống bán lẻ. Nó làm đơn giản hóa toàn  bộ tiến trình thương mại và đem lại hiệu quả sản xuất.    Thay đổi vai trò từ đại lý sang người mua Theo truyền thống, các sản phẩm từ một nhà máy phải đi qua một số khâu trung gian trước khi   đến được với người tiêu dùng. Đó chính là hệ thống bán lẻ mà chúng ta đã biết. Tuy nhiên, các   nhà máy bây giờ có thể bán sản phẩm của họ trực tiếp cho người tiêu dùng, bỏ qua các khâu   trung gian. Một cách tựnhiên, điều này đã cách mạng hóa hệ thống bán lẻ. Một người chỉ phải gửi   thư điện tử tới một nhà máy có sản phẩm mà anh ta muốn và sau đó nhận sản phẩm đó tại nhà   mình. Một hệ thống giao dịch đơn giản như vậy sẽ dần dần thay thế các đại lý và cửa hàng bán lẻ   hiện nay.   Theo truyền thống, các sản phẩm từ một nhà máy phải đi qua một số khâu trung gian trước khi  đến được với người tiêu dùng. Đó chính là hệ thống bán lẻ mà chúng ta đã biết. Tuy nhiên, các  nhà máy bây giờ có thể bán sản phẩm của họ trực tiếp cho người tiêu dùng, bỏ qua các khâu  trung gian. Một cách tựnhiên, điều này đã cách mạng hóa hệ thống bán lẻ. Một người chỉ phải gửi  thư điện tử tới một nhà máy có sản phẩm mà anh ta muốn và sau đó nhận sản phẩm đó tại nhà  mình. Một hệ thống giao dịch đơn giản như vậy sẽ dần dần thay thế các đại lý và cửa hàng bán lẻ  hiện nay.  Có thể bạn nghĩ rằng về mặt dài hạn, những đại lý và người bán lẻ này sẽ phải đóng cửa và mất  việc làm. Nhưng thực tế sẽ không như vậy. Các đại lý không ngồi chờ khách hàng của họ bỏ đi.  Họ sử dụng kinh nghiệm và kiến thức quản lý đã tích lũy được để chiếm lấy các cơ hội kinh  doanh.   Về mặt cơ bản, mọi đại lý và cửa hàng bán lẻ đều có nghiên cứu thị trường. Khi nào họ có một  mặt hàng nhất định không còn nhu cầu lớn thì họ sẽ giảm bớt số lượng nhập mặt hàng đó. Do có  sự nhạy cảm thị trường, họ có thể nắm bắt được nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng một  cách chính xác. Những người này có thể trở thành những nhân tài vô giá đối với TMĐT. Các đại lý và người bán lẻ sẽ dần dần trở thành người mua hàng bởi vì họ biết khách hàng muốn  gì và có thể tìm ra cái mà họ muốn. Họ có thể cho khách hàng những lời khuyên và cung cấp dịch  vụ tư vấn chuyên nghiệp. Khi khách hàng đã có một quyết định, họ sẽ gửi một lệnh đặt hàng lên  Internet trong vai người mua. Đây là tác động thứ hai.   3. Giảm đáng kể sự phỏng đoán Thương mại trong xã hội công nghiệp truyền thống thường được xây dựng trên một thế  giới – sự phỏng đoán. Nói một cách khác đại ký và người bán lẻ đều tham gia vào việc  phỏng đoán: khách hàng muốn cái gì?   Thương mại trong xã hội công nghiệp truyền thống thường được xây dựng trên một thế giới – sự  phỏng đoán. Nói một cách khác đại ký và người bán lẻ đều tham gia vào việc phỏng đoán: khách  hàng muốn cái gì?    Nhà máy bắt đầu phỏng đoán. Phòng kế hoạch sản phẩm của nó sẽ phỏng đoán loại sản phẩm  nào mà khách hàng có  thể cần trước khi sản xuất nó. Người bán lẻ cũng không phải ngoại lệ. Khi  họ mở một cửa hàng bán đồ điện, họ cho rằng khách hàng sẽ đi qua khu vực đó và do đó quyết  định mở cửa hàng đó. Tiếp theo, anh ta sẽ đoán góc nào trong cửa hàng của anh ta sẽ có nhiều  người đến nhất. Đó là nơi mà anh ta sẽ đạt số lượng hàng hóa lớn nhất để thu hút khách hàng  vào cửa hàng. Giả sử chúng ta bước vào một cửa hàng đồ điện và xem rất nhiều loại máy thu hình với các kích  cỡ khác nhau bày trên tủ hàng. Do người chủ không thể nói kích cỡ máy thu hình nào khách hàng  đang nghĩ trong đầu nên anh ta phải bày mọi loại máy thu hình với kích cỡ khác nhau hiện có. Sự  thật là khách hàng chỉ cần có một chiếc máy thu hình chứ đâu có cần nhiều loại máy bày bán đến  như vậy? Nếu máy thu hình không bán được họ sẽ trả lại nhà máy sản xuất. Từ nhà máy tới đại lý  và tới người bán lẻ, mọi người đều phỏng đoán. Bạn có thể hình dung bao  nhiêu công sức đã  được dồn vào công việc phỏng đoán này. Khi bạn phải trả hàng không bán được lại cho nhà máy  sản xuất thì chi phí còn cao hơn nữa. Nhưng với Internet, có một mối quan hệ trực tiếp giữa nhà cung cấp với khách hàng. Khách hàng  có thể nói với nhà máy anh ta muốn mua chiếc máy thu hình 29 inch với giá bao nhiêu, do đó tiết  kiệm được thời gian đi tìm mua hàng. Với quan hệ trực tiếp đó không cần mở một cửa hàng theo  kết quả phỏng đoán. Điều đó có nghĩa là chi phí được tiết kiệm rất lớn. Tất nhiên, cần có sự thông  tin qua lại ở một mức độ nhất định để khách hàng hiểu các sản phẩm và dịch vụ cần thiết. Tuy  nhiên, sự phỏng đoán trước đây vẫn còn, đó là một dạng của quá khứ. Cách tốt nhất để giảm chi phí – Sản xuất cái mà người tiêu dùng cần Cách tốt nhất để giảm chi phí là sản xuất cái mà người tiêu dùng cần. Nếu khách hàng trên thế   giới hy vọng mua một chiết máy thu hình 29 inch với cái giá của máy thu hình 21 inch thì chỉ có   loại máy thu hình 29 inch được sản xuất. Điều này sẽ làm giảm đáng kể chi phí sản xuất và số   tiền tiết kiệm đó được giành cho khách hàng. Khách hàng chỉ phải mua chiếc máy thu hình 29   inch với giá của một chiếc máy thu hình 21 inch. Tại sao máy thu hình 29 inch lại đắt thế? Bởi vì chi phí của các loại máy thu hình 25 inch và 34   inch đã dồn vào nó. Nếu chỉ sản xuất loại máy thu hình 29 inch, thi chi phí phí sản xuất sẽ nhỏ   hơn nhiều so với việc sản xuất các loại máy thu hình có kích cỡ khác nhau. Sẽ không cần một   không gian cửa hàng và đại lý không cần xây dựng hoặc thuê một nhà kho để chứa hàng. Chỉ có   loại hàng hóa nào khách hàng cần mới được sản xuất. Đây là cách tốt nhất để giảm chi phí. Rất nhiều nhà máy sẽ nói rằng họ là các hãng sản xuất và không có gì để làm với TMĐT cả. Tất   cả những gì họ cần làm là quản lý tốt dây chuyền sản xuất. Nhưng vấn đề thực tế là nếu họ   không tham gia vào TMĐT thì họ sẽ không biết khách hàng cần gì và họ sẽ luôn luôn phải phỏng   đoán. Tại sao công ty Dell của Mỹ lại là công ty máy tính có lợi nhuận lớn nhất? Công nghệ của   Dell không phải là tốt nhất. Nhưng chi phí phỏng đoán của họ thấp bởi vì họ biết khách hàng   muốn gì.   Cách tốt nhất để giảm chi phí là sản xuất cái mà người tiêu dùng cần. Nếu khách hàng trên thế  giới hy vọng mua một chiết máy thu hình 29 inch với cái giá của máy thu hình 21 inch thì chỉ có  loại máy thu hình 29 inch được sản xuất. Điều này sẽ làm giảm đáng kể chi phí sản xuất và số  tiền tiết kiệm đó được giành cho khách hàng. Khách hàng chỉ phải mua chiếc máy thu hình 29  inch với giá của một chiếc máy thu hình 21 inch.Tại sao máy thu hình 29 inch lại đắt thế? Bởi vì  chi phí của các loại máy thu hình 25 inch và 34 inch đã dồn vào nó. Nếu chỉ sản xuất loại máy  thu hình 29 inch, thi chi phí phí sản xuất sẽ nhỏ hơn nhiều so với việc sản xuất các loại máy thu  hình có kích cỡ khác nhau. Sẽ không cần một không gian cửa hàng và đại lý không cần xây dựng  hoặc thuê một nhà kho để chứa hàng. Chỉ có loại hàng hóa nào khách hàng cần mới được sản  xuất. Đây là cách tốt nhất để giảm chi phí.Rất nhiều nhà máy sẽ nói rằng họ là các hãng sản xuất  và không có gì để làm với TMĐT cả. Tất cả những gì họ cần làm là quản lý tốt dây chuyền sản  xuất. Nhưng vấn đề thực tế là nếu họ không tham gia vào TMĐT thì họ sẽ không biết khách hàng  cần gì và họ sẽ luôn luôn phải phỏng đoán. Tại sao công ty Dell của Mỹ lại là công ty máy tính có  lợi nhuận lớn nhất? Công nghệ của Dell không phải là tốt nhất. Nhưng chi phí phỏng đoán của họ  thấp bởi vì họ biết khách hàng muốn gì.    4. Từ những lựa chọn hạn chế đến các yêu cầu hạn chế Chúng ta thường nói rằng khách hàng là thượng đế. Khách hàng chọn người nào để mua.  Nhưng không có nhiều điều cho “thượng đế” này làm. Cái mà anh ta phải làm là lựa chọn  những hàng hóa có sẵn cho  mình. Nếu anh ta muốn mua một máy thu hình 300 inch thì  xin lỗi không có. Bất kể khách hàng đáng kính trọng đến mức nào thì ông ta cũng chỉ có  một số lựa chọn hạn chế. Phòng nghiên cứu và triển khai (R & D) ­> Phòng nhu cầu và thỏa mãn khách hàng N & S    Chúng ta thường nói rằng khách hàng là thượng đế. Khách hàng chọn người nào để mua. Nhưng  không có nhiều điều cho “thượng đế” này làm. Cái mà anh ta phải làm là lựa chọn những hàng  hóa có sẵn cho  mình. Nếu anh ta muốn mua một máy thu hình 300 inch thì xin lỗi không có. Bất  kể khách hàng đáng kính trọng đến mức nào thì ông ta cũng chỉ có một số lựa chọn hạn chế. Nhưng với Internet thì khác. Khách hàng có thể nói cái mà họ muốn có. Điều này chuyển trọng   tâm từ phòng nghiên cứu và triển khai R & D (Research & Development) sang phòng nhu cầu và   thỏa mãn khách hàng N & S (Customer’s Need and Satisfaction). Phòng N & S có trách nhiệm   tìm ra nhu cầu của khách hàng là gì và cố gắng tốt nhất để thỏa mãn khách hàng. Có thể các kỹ   sư sẽ lo lắng khi tôi cho rằng N & S sẽ thay thế R & D, do đó sẽ giảm nhu cầu sử dụng kỹ sư. Một   số người thậm chí còn muốn đệ đơn từ chức sau khi nghe bài phát biểu của tôi ở Thượng Hải.   Thực tế thì còn xa.   Nhưng với Internet thì khác. Khách hàng có thể nói cái mà họ muốn có. Điều này chuyển trọng  tâm từ phòng nghiên cứu và triển khai R & D (Research & Development) sang phòng nhu cầu và  thỏa mãn khách hàng N & S (Customer’s Need and Satisfaction). Phòng N & S có trách nhiệm  tìm ra nhu cầu của khách hàng là gì và cố gắng tốt nhất để thỏa mãn khách hàng. Có thể các kỹ  sư sẽ lo lắng khi tôi cho rằng N & S sẽ thay thế R & D, do đó sẽ giảm nhu cầu sử dụng kỹ sư. Một  số người thậm chí còn muốn đệ đơn từ chức sau khi nghe bài phát biểu của tôi ở Thượng Hải.  Thực tế thì còn xa.    Trong quá khứ, việc nghiên cứu và triển khai được xây dựng trên sự phỏng đoán chứ không thực  sự dựa trên cái mà khách hàng cần. Với sự liên lạc trực tíep do Internet đem lại, tại sao khách  hàng không nói cho chúng ta biết họ muốn gì trước khi chúng ta phát triển các sản phẩm mới mà  hầu hết mọi người muốn? Tôi tin rằng khi chúng ta chuyển từ R&D sang N&S, yêu cầu sử dụng kỹ sư vẫn tăng. Bởi vì chúng  ta đã từng tham gia vào sự phỏng đoán nên có những mặt hàng chúng ta chưa nghĩ tới và do đó  chúng ta chưa sản xuất. Với những khách hàng cho chúng ta biết nhu cầu và mong muốn của họ,  các kỹ sư có thể phát triển các sản phẩm mới mà khong phải tham gia phỏng đoán. Các cơ hội  thương mại nảy sinh từ quá trình này sẽ hoàn chỉnh hơn và hiệu quả hơn. Kỷ nguyên phát triển không hạn chế các sản phẩm và dịch vụ mới Khi khách hàng đặt ra các yêu cầu không hạn chế thì có nghĩa là chúng ta sẽ bước vào một kỷ  nguyên mà không có giới hạn về các sản phẩm, dịch vụ mới. Trong thế giới ngày nay, cung đang  vượt cầu nên có sự cạnh tranh khốc liệt. Khi chúng ta bước vào những năm chạng vạng của thời  đại công nghiệp, sự phỏng đoán, hệ thống sản xuất và phương thức bán hàng của chúng ta đã  tồn tại lâu hơn sự hữu dụng của chúng. Trong xã hội mạng, chúng ta có thể có quan hệ trực tiếp  với khách hàng và tìm hiểu nhu cầu của khách hàng trước khi chúng ta thực hiện. Đó là lý do tại  sao các sản phẩm dịch vụ mới luôn luôn xuất hiện. Đây là thời đại mà chúng ta đang sống. Tôi luôn lạc quan về những năm sau năm 2000. Tôi tin  tưởng rằng quan hệ trực tiếp giữa nhà cung cấp và người tiêu dùng có nghĩa là chẳng bao lâu nữa  chúng ta sẽ không còn bị bó buộc trong những sản phẩm, dịch vụ có sẵn do kiến thức hạn chế  của các kỹ sư đem lại cho chúng ta. Thay vào đó, chúng ta có thể nêu ra yêu cầu không có giới  hạn.   5. Tác động của bất động sản đối với kinh doanh Một thành phố trống? Tiến sỹ Toffler muốn dùng cụm từ “Một thành phố trống” trong các quyển sách của ông ta. Khi tôi  gặp ông tại một hội thảo SAP ở Nhật Bản vào năm 1998, ông bảo ôi: “Này hãy nhìn xem, một  thành phố lớn như Tokyo đến lúc nào đó sẽ có những tòa nhà trống rỗng”. Tại sao như vậy?   Đó là bởi vì chúng ta đã chuyển vào xã hội mạng. Các giao dịch sẽ dựa vào hệ thống giao nhận  trực tiếp và số lượng những người trung gian sẽ giảm đi rất nhiều. Khi các nhà máy giao hàng trực  tiếp cho người tiêu dùng, chúng ta sẽ cần rất ít các văn phòng, cửa hàng và siêu thị. Người tiêu  dùng bây giờ có thể phải trả ít tiền hơn cho cùng một loại sản phẩm. Khi chúng ta ít đi tới các siêu  thị hơn thì số lượng các siêu thị sẽ giảm. Điều này có nghĩa là bất động sản sẽ dư thừa. Đây sẽ là  một tác động nghiêm trọng tới ngành kinh doanh bất động sản. Công nghệ Internet tương lai cho phép chúng ta không phải sống và làm việc trong các thành phố  để có năng suất lao động cao. Mọi người chỉ cần một chiếc máy tính PC và kết nối trực tuyến vào  mạng để làm việc tại nhà. Hiện nay, rất nhiều người làm việc trước màn hình máy tính khi họ báo  cáo kết quả làm việc ở cơ quan. Trong tương lai, một khi các máy tính của chúng ta nối mạng trực  tuyến thì chúng ta không cần đi đến cơ quan nữa. Với những bối cảnh như thế, nhu cầu về bất động sản cho các hoạt động thương mại và dịch vụ  như nhà hàng, nơi đỗ xe và các mỹ viện giảm đi rất lớn. Mặc dù sẽ không đến mức không còn  chút nhu cầu nào nhưng xu hướng của tương lai sẽ là giảm bớt nhu cầu về bất động sản. Trong  cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, giá trị bất động sản ở Hồng Kông giảm đi 400 tỷ  USD, vượt quá tổng số vốn đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc trong vòng 20 năm vừa qua. Điều đó  cho chúng ta thấy thị trường bất động sản bị tác động mạnh mẽ đến mức nào. Trong thực tế, thị trường bất động sản ở Đài Loan đã phá vỡ xu hướng của quá khứ. Thị trường  bất động sản Đài Loan trước đây thường tăng trưởng trong vòng 6 đến 7 năm để đạt đến đỉnh  điểm. Những thay đổi về nhân chủng học và sự phát triển thành phố là những yếu tố tác động của  hiện tượng này. Nhưng kỷ nguyên của TMĐT rõ ràng là một yếu tố tác động mới. Một cộng đồng mới? Tuy nhiên vẫn có những người tin rằng thời đại mạng sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng bất động sản.  Trong quá trình chuyển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, hầu hết mọi người đều  chuyển nhà vài lần. Khi chúng ta bước vào xã hội mạng, con người có thể muốn một môi trường  sống thoáng đãng và thịnh vượng hơn phù hợp với tầm nhìn của họ về một xã hội mạng. Mặc dù  cả hai kịch bản trên đều hợp lý nhưng chúng ta không thể dự báo sai về tác động của TMĐT đối  với bất động sản.   Sau khi Amazon.com lên mạng, 40% các hiệu sách ở Mỹ đóng cửa trong hai năm 1997 và năm  1998. Các hiệu sách không phải là đối tượng duy nhất chịu tác động và dần dần các lĩnh vực  khác cũng sẽ chịu tác động tương tự. Thực tế, TMĐT đã làm tồn tại đã làm tổn hại đến thị trường  bất động sản. 6. Thương mại quốc tế giữa các cá nhân Trong quá khứ, bất cứ khi nào chúng ta nói về TMĐT, chúng ta thường nghĩ đến máy tính  PC và Internet. Mọi người nghĩ rằng chỉ có các công ty lớn hoặc các cá nhân làm việc  trong các lĩnh vực công nghệ cao mới triển khai TMĐT. Điều đó không đúng. Trong thời đại  mạng, thương mại quốc tế có thể xảy ra giữa các cá nhân với nhau.   Trong quá khứ, bất cứ khi nào chúng ta nói về TMĐT, chúng ta thường nghĩ đến máy tính PC và  Internet. Mọi người nghĩ rằng chỉ có các công ty lớn hoặc các cá nhân làm việc trong các lĩnh vực  công nghệ cao mới triển khai TMĐT. Điều đó không đúng. Trong thời đại mạng, thương mại quốc  tế có thể xảy ra giữa các cá nhân với nhau.    Đây là một chuyện xảy ra ở Trung Quốc. Một người đàn ông sống ở một vùng ngoại ô Bắc Kinh  đem tỏi đi bán ở thủ đô. Ông ta nhận thấy càng ngày càng ít người mua tỏi của mình do mọi  người bây giờ mua tỏi ở siêu thị. Đột nhiên có một trận mưa và ông ta trú tạm vào một quán café  Internet của một số thanh niên. Họ mời ông ta vào quán uống một tách trà nóng. Một thanh niên hỏi người nông dân: “Bác làm nghề gì?”. Người nông dân trả lời: “Tôi trồng tỏi  nhưng bây giờ ít người mua quá”. Người thanh niên tiếp tục: “Tỏi của bác có gì khác so với tỏi bán  ở siêu thị?”. Người nông dân đáp: “Không khác nhiều lắm. Tôi tự trồng tỏi. Tôi không sử dụng  phân hóa học”. Một ý tưởng táo bạo nảy sinh trong đầu người thanh niên và anh ta nói: “Hãy để  cháu giúp bác tìm người mua”. Sau đó, anh ta đưa thông tin về tỏi sạch lên Internet để tìm người  mua và thấy rằng một hệ thống nhà hàng Trung Quốc lớn nhất ở Đức đang tìm kiếm loại tỏi sạch  này. Ngay sau đó, hai bên đã ký được hợp đồng. Ý nghĩa của câu chuyện là TMĐT không chỉ dành cho các công ty lớn trong thời đại mạng. Một  người nông dân mù chữ về máy tính cũng có thể tham gia vào thương mại quốc tế. Nếu như có ai  đó ở một cửa làng xa xôi có một chiếc máy tính nối mạng Internet thì thương mại quốc tế giữa các  cá nhân ở đó vẫn có thể xảy ra. Thậm chí trong quá khứ nếu có nhu cầu về tỏi sạch thì cũng không ai kinh doanh mặt hàng này vì  tỷ lệ hoàn vốn quá thấp. Các công ty lớn khống chế hầu hết thị trường. Không ai quan tâm đến  một lĩnh vực kinh doanh nhỏ như thế này. Trong thực tế, nơi nào có cầu là nơi đó có cung. Nhưng nếu không có những người trung gian môi  giới thì sẽ không có thương mại. Tuy nhiên, TMĐT lại làm cho thương mại quốc tế C đến C trở  nên khả thi. Ví dụ, bạn có thể viết cho tôi một bài hát còn tôi có thể viết cho bạn một bài thơ.  Thương mại phát triển mạnh mẽ đồng nghĩa với một nền kinh tế bùng nổ. Nơi nào cung đáp ứng  cầu thì nơi đó nền kinh tế đang tăng trưởng tốt. Sự phát triển của một nền kinh tế không do sự tăng trưởng của cải vật chất. Đúng hơn là do dòng  lưu thông của cải vật chất lớn. Mọi người sẽ muốn tham gia vào thương mại quốc tế. Như chúng  ta đã thấy, khi trú nhờ để tránh mưa đã có một hợp đồng với người mua đang tìm kiếm tỏi sạch.  Kịch bản đó sẽ tiếp tục xảy ra trong xã hội mạng. Hình thức thương mại quốc tế này sẽ phát triển và nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng. Sẽ đến  lúc có sự phân phối bình đẳng của cải vật chất bởi vì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ không còn  nằm trong tầm khống chế của một số ít tập đoàn khổng lồ hoặc những công ty môi giới đầy quyền  lực. Hình thức thương mại quốc tế C đến C có thể được triển khai qua TMĐT. 7. Cuộc cách mạng tiếp thị của các sản phẩm và dịch vụ số hóa Bất cứ điều gì có thể truyền qua đường dây điện thoại dưới dạng tín hiệu số được gọi là một sản  phẩm số hóa.  Tất cả các dạng thông tin đã được số hóa. Nội dung của một cuốn sách đã được  số hóa và truyền qua đường dây điện thoại. Cuốn sách này có thể là một sản phẩm số hóa.  Ngược lại, một chiếc máy thu hình không thể được truyền qua các đường dây điện thoại. Do đó,  nó không phải là một sản phẩm số hóa. Trong tương lai, tất cả các sản phẩm thông tin sẽ được số hóa qua Internet. Các quyển sách,  băng âm thanh, băng video sẽ được số hóa. Mặt hàng được nhiều người ưa thích bây giờ là MP3,  một dạng tệp máy tính số hóa âm nhạc và cho phép chúng ta lấy nhạc từ Internet. Hình thức này  đã làm cho ngành âm nhạc thua lỗ hơn 10 tỷ USD một năm. Sự biến đổi tiền mặt là tác động rõ ràng nhất. Trong quá khứ, tiền là vàng trước khi nó biến đổi  thành dạng tiền giấy. Bây giờ nó đang biến thành dạng tiền số hóa. Khi bạn mua hàng ở một siêu  thị, tất cả những gì chúng ta cần là trả tiền bằng thẻ tín dụng. Không hề có sự trao đổi tiền mặt  nào cả. Nhưng cái thực sự đáng kinh ngạc là dịch vụ số hóa. Hãy nghĩ kỹ về nó. Một lượng lớn tiền mua  bán các cổ phiếu có thể được truyền qua Internet trong một giây.  Dịch vụ này đã cách mạng hóa  chu trình bán lẻ. Chúng ta đang thực sự sống trong thời đại đầy sáng tạo. Giải phóng sức sáng tạo Trong quá khứ, một nhà văn với một bản thảo hay thường bị các nhà xuất bản từ chối in sách của  anh ta. Một nhà xuất bản có thể nghĩ rằng đó là một quyển sách hay nhưng không bán được  nhiều bản. Hoặc là nhà văn đó chưa có tên tuổi và do đó nhà xuất bản khong muốn mạo hiểm.  Cơ chế này có thể ngăn cản nhà văn đó viết thêm sách. Chính vì thế những tác phẩm đầy sáng  tạo trong tương lai của nhà văn bị chặn lại từ trong trứng nước.   Bây giờ, nếu quyển sách này được xuất bản, nhà văn có thể viết nhiều sách hơn. Tính sáng tạo  của ông ta thậm chí có thể khơi dậy sự sáng tạo của những người khác. Tính sáng tạo của chúng  ta trước đây thường bị ngăn cản bởi hệ thống bán lẻ. Với sự xuất hiện của các sản phẩm và dịch  vụ số hoá, chúng ta tin tưởng rằng tính sáng tạo sẽ thực sự được giải phóng. Bây giờ tôi có thể hy vọng kiếm được một đô la cho việc kể một chuyện tiếu lâm hoặc soạn 100  chuyện tiếu lâm và bán một lô với giá một đô la. Có thể có những người mua quan tâm tới tất cả  những gì tôi biết. Trong quá khứ, chuyện tiếu lâm bị coi là thô tục. Không ai có thể giúp bạn bán  chúng cả. Nhưng nếu sự sáng tạo của bạn được số hoá thì bạn có thể bán. Đây là một sự giải  phóng sức sáng tạo. Thực tế, chúng ta đã cảm nhận được điều đó. Bất kể đó là một cuốn sách,  các cổ phần và cổ phiếu, MP3 hoặc thậm chí tiền điện tử thì nó đã xảy ra rồi. 8. Sự biến đổi của các ngân hàng truyền thống Tiền kim loại ­> tiền giấy ­> tiền điện tử Tác động thứ tám của TMĐT là sức ép cải tổ các ngân hàng truyền thống.  Để thấy sự ra đời và suy thoái của ngân hàng, chúng ta phải xem xét lịch sử của đồng tiền.   Chúng ta xem tivi, xem phim thấy rõ người xưa sử dụng vàng, bạc và các kim loại khác làm đồng   tiền như thế nào. Tôi sợ rằng ngày nay không ai bán cho chúng ta hàng hoá, dịch vụ của họ nếu   chúng ta trả họ bằng những thỏi vàng thay cho những đồng tiền. Tuy nhiên, khi đồng tiền giấy   mới xuất hiện không ai muốn dùng nó cả. Bây giờ, ai đó còn dùng vàng để giao dịch thì sẽ bị chê   cười.   Để thấy sự ra đời và suy thoái của ngân hàng, chúng ta phải xem xét lịch sử của đồng tiền.  Chúng ta xem tivi, xem phim thấy rõ người xưa sử dụng vàng, bạc và các kim loại khác làm đồng  tiền như thế nào. Tôi sợ rằng ngày nay không ai bán cho chúng ta hàng hoá, dịch vụ của họ nếu  chúng ta trả họ bằng những thỏi vàng thay cho những đồng tiền. Tuy nhiên, khi đồng tiền giấy  mới xuất hiện không ai muốn dùng nó cả. Bây giờ, ai đó còn dùng vàng để giao dịch thì sẽ bị chê  cười.    Chức năng của các ngân hàng truyền thống ­ Cất giữ, phát hành, quản lý và giao nhận tiền Khi xuất hiện đồng tiền giấy, một tổ chức mới gọi là ngân hàng được thành lập. Các ngân hàng   mới phổ biến trong vòng vài thế kỷ trở lại đây. Các ngân hàng truyền thống giữ tiền cho chúng ta.   Giữ, phát hành, quản lý và giao nhận tiền là chức năng của một ngân hàng truyền thống. Trong   thời gian đầu, ngành tài chính chỉ là cơ quan cất giữ tiền của mọi người, nhưng sau đó ngân hàng   còn làm chức năng tín dụng. Các chi nhánh ngân hàng và sau này là các máy rút tiền tự động   (ATM) được đặt khắp nơi trên thế giới để tạo thuận lợi hơn cho việc rút tiền.   Khi xuất hiện đồng tiền giấy, một tổ chức mới gọi là ngân hàng được thành lập. Các ngân hàng  mới phổ biến trong vòng vài thế kỷ trở lại đây. Các ngân hàng truyền thống giữ tiền cho chúng ta.  Giữ, phát hành, quản lý và giao nhận tiền là chức năng của một ngân hàng truyền thống. Trong  thời gian đầu, ngành tài chính chỉ là cơ quan cất giữ tiền của mọi người, nhưng sau đó ngân hàng  còn làm chức năng tín dụng. Các chi nhánh ngân hàng và sau này là các máy rút tiền tự động  (ATM) được đặt khắp nơi trên thế giới để tạo thuận lợi hơn cho việc rút tiền.    Chức năng của các ngân hàng trực tuyến ­ bảo vệ tiền điện tử và đảm bảo sử dụng đồng tiền có   hiệu quả Các ngân hàng trực tuyến xuất hiện thì chúng ta bước vào kỷ nguyên tiền điện tử. Trong kỷ   nguyên mới này, tiền mặt thể hiện dưới dạng một tín hiệu số có thể truyền tới mọi nơi trên thế   giới. Nếu bạn đi tới ngân hàng gửi 500.000USD tới Mỹ thì người nhận sẽ có được số tiền đó trong   ngày hôm sau. Tiền nhận được không phải là tiền mặt mà là một thông báo xác định rằng tiền đã   sẵn sàng có thể rút được. Nó cũng giống như việc thanh toán tiền bằng thẻ tín dụng ở một siêu   thị vậy.   Các ngân hàng trực tuyến xuất hiện thì chúng ta bước vào kỷ nguyên tiền điện tử. Trong kỷ  nguyên mới này, tiền mặt thể hiện dưới dạng một tín hiệu số có thể truyền tới mọi nơi trên thế giới.  Nếu bạn đi tới ngân hàng gửi 500.000USD tới Mỹ thì người nhận sẽ có được số tiền đó trong ngày  hôm sau. Tiền nhận được không phải là tiền mặt mà là một thông báo xác định rằng tiền đã sẵn  sàng có thể rút được. Nó cũng giống như việc thanh toán tiền bằng thẻ tín dụng ở một siêu thị  vậy.    Nếu tiền trở thành một tín hiệu thì chúng ta chẳng cần tiền giấy nữa. Với bối cảnh như thế, các  ngân hàng truyền thống sẽ mất đi lợi thế của chúng. Nếu vấn đề bảo an tiền điện tử được giải  quyết thì hầu hết nếu không phải là tất cả các ngân hàng sẽ phải tiến hành cải tổ. Trước thực tế còn có nhiều tin tặc và virus máy tính, nhiều  người đặt vấn đề nghi vấn về độ tin  cậy của các tín hiệu số. Trong thời gian đầu, chúng ta đã từng có sự nghi ngờ về đồng tiền giấy.  Bây giờ chúng ta sẽ không bao giờ trả tiền mua cái gì bằng thỏi bạc nữa. Điều đó là vì giao dịch  bằng tiền giấy thật dễ dàng và chúng ta có thể phân biệt được tiền giả. Tương tự như vậy, lòng tin  và tính bảo an của tiền điện tử cũng sẽ vượt qua đồng tiền giấy. Chúng ta vẫn còn dùng tiền giấy  bởi vì việc dùng tiền điện tử chưa thực sự thuận lợi. Nếu tất cả xe taxi đều có một máy đọc để bạn  có thể đưa thẻ tín dụng của mình thì mọi người sẽ sẵn lòng sử dụng tiền điện tử. Cũng thế, hãy nghĩ tới khoản tièn lãi cộng thêm thu được. Nếu một người lái xe taxi gửi số tiền  kiếm được vào ngân hàng ngày hôm sau thì anh ta sẽ bị mất tiền lãi của một ngày. Nếu anh ta có  thể kiếm được tiền lãi ngày vào lúc thẻ tín dụng được đọc thì đó không chỉ là sự thuận tiện mà còn  là sự khai thác tối đa đồng tiền. Với tiền điện tử, chúng ta thường phải tuân thủ các thủ tục thường  xuyên của ngân hàng để đưa tiền của chúng ta vào năm khoản tiền đặt cọc khác nhau. Một khi  chúng ta bắt đầu thanh toán từ tài khoản xuống mức tiền lãi thấp nhất. Lợi ích của tiền điện tử sẽ  buộc các ngân hàng truyền thống phải cải tổ. 9. Cước viễn thông sẽ là khoản thu lớn nhất của chính phủ Khoản giao dịch và nguyên lý thuế lợi tức Một thị trường của một thành phố Đông Nam Á từng nói với tôi: “Nguồn thu từ viễn thông của  chúng tôi cao hơn nguồn thu thuế của chúng tôi”. Tình trạng đó còn tiếp tục phát triển xa hơn.  Cách thức Chính phủ giám sát thương mại cũng sẽ thay đổi. Điều này là do nguồn thu thuế dựa  trên doanh thu và lợi nhuận. Nếu Inventec Corporation làm được 10 tỷ USD một năm thì chính  phủ sẽ áp đặt mức thuế dựa trên doanh thu đó hoặc dựa trên lợi nhuận kiếm được. Nếu chúng ta  không có doanh thu thì Chính phủ không thể thu thuế của chúng ta được.   Một Chính phủ có thể thu tiền thuế như thế nào trong một xã hội mạng? Giả sử bạn sống ở Mỹ và  bạn mua một máy tính xách tay ở Đài Loan. Nhà sản xuất ở đó muốn bạn trả tiền vào một tài  khoản miễn thuế trước khi giao trực tiếp máy tính xách tay cho bạn. Như thế, có vẻ như hãng sản  xuất không có tí doanh số nào. Cả cơ quan thuế Mỹ và Đài Loan không thể thu thuế. Nhưng mặt  hàng đó đã được chuyển đến cho bạn. Với kịch bản như thế thì làm thế nào để đánh thuế? Một nguyên lý thuế dựa trên tần suất và số lượng thời gian dùng mạng viễn thông Một hình thức đánh thuế mới rất khả thi sẽ xảy ra trong tương lai. Khi toàn bộ thế giới tham gia   vào TMDT, doanh số và lợi nhuận có thể không còn được nghiên cứu chặt chẽ nữa. Chính phủ   không có cách nào để tìm ra bao nhiêu bài thơ tôi đã viết cho bạn trong tháng trước. Với TMĐT,   Chính phủ có thể mất một khoản tiền thuế lớn.   Một hình thức đánh thuế mới rất khả thi sẽ xảy ra trong tương lai. Khi toàn bộ thế giới tham gia  vào TMDT, doanh số và lợi nhuận có thể không còn được nghiên cứu chặt chẽ nữa. Chính phủ  không có cách nào để tìm ra bao nhiêu bài thơ tôi đã viết cho bạn trong tháng trước. Với TMĐT,  Chính phủ có thể mất một khoản tiền thuế lớn.    Để giải quyết vấn đề nghiêm trọng này, thuế trong tương lai có thể dựa trên tần suất và thời gian  sử dụng mạng viễn thông. Điều đó còn thực tế hơn là cố gắng dò xem tiền đã đi đâu. Khi nào  chúng ta sử dụng mạng, qua vệ tinh, cáp hoặc hệ thống hữu tuyến, thì chúng ta sẽ bị quản lý bởi  một hệ thống viễn thông. Do đó, các hệ thống viễn thông có thể là nền tảng cho việc đánh thuế  trong thế kỷ sau. Nhưng điều đó liệu có công bằng không nếu có ai đó đang vào mạng tán chuyện với người yêu  cũng phải trả tiền thuế giống như một người đàm phán một hợp đồng trị giá hàng triệu đô la qua  điện thoại? Không thể suy nghĩ như thế được. Chúng ta cần thay đổi suy nghĩ của chúng ta. Nó  cũng giống như việc thuê một phòng khách sạn. Một số người thuê phòng khách sạn chỉ để ngủ,  trong khi đó những người khác dùng phòng đó đàm phán hợp đồng trị giá hàng chục triệu đô la.  Nhưng khách sạn đều tính tiền thuê phòng cho hai đối tượng đó như nhau. Việc thay đổi suy nghĩ  này là một trong những thách thức mà chính phủ gặp phải trong tương lai. 10. Các luật và quy định mới cần ban hành ngay Mô hình thị trường của một nước ­> Thị trường toàn cầu (Bán hàng trong nước và bán hàng ngoài  nước – Bán hàng toàn cầu) Do rất nhiều thay đổi mà TMĐT mang lại, chúng ta cần nhanh chóng tìm ra các luật mới và đưa  ra các quy định mới. Bởi vì thế giới đã thay đổi nên mô hình thị trường của một nước đã đi đến giai  đoạn một thị trường toàn cầu. Nơi nào trước đây còn có sự phân biệt giữa thị trường trong nước và  thị trường ngoài nước thì bây giờ chỉ còn là thị trường toàn cầu. Tôi có một người bạn ở Đài Loan làm nha sĩ. Ông ta thường gửi các số đo của một chiếc răng giả  cho một nha sĩ ở Sri Lanka thông qua Internet. Sau đó, chiếc răng giả sẽ được gửi về Đài Loan  qua đường bưu chính. Cách đó đã tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức. Chúng ta có thể gọi  cách này là bán hàng trong nước hay bán hàng ngoài nước? Nó không phải là trong nước mà  cũng chẳng phải ngoài nước. Đó là giao dịch toàn cầu. Khi thế giới được kết nối qua mạng, các ranh giới quốc gia không còn là ranh giới thương mại nữa.  Mọi người đều tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế. Nếu hệ thống giao nhận trực tiếp  hoàn thành thì chúng ta sẽ nói về một thị trường toàn cầu. Nếu một đại lý ở Hồng Kông bán một đầu DVD với giá thống nhất thế giới thì các đại lý khác trên  toàn thế giới không thể bán được các đầu DVD của họ. Đây là một vấn đề mà chúng ta cần giải  quyết. Các luật lệ và quy định cũ không còn áp dụng được nữa. Cần có những luật lệ mới để tạo  hành lang pháp lý cho TMĐT phát triển. Điều này bao gồm cả các quy tắc ứng xử trong kinh  doanh và nguyên tắc quản lý.  Nguồn : chung ta
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net