Một số loài Lan dạng Trúc
EPIDENDRUMGiống lan Epidendrum ibaguense hay radicans này mọc xuốt từ Mễ tây cơ đến Nam Mỹ, hoa nở quanh năm, lâu tàn, mầu sắc rực rỡ mà lại rất dễ trồng. Chỉ cần bẻ một vài nhánh, đem về cắm xuống đất hay trồng vào chậu ít lâu sau đã thành một bụi lan rất ngoạn mục. Thân cao ngất ngưởng, chùm hoa mọc ở đầu ngọn lung lay theo gió. Trước kia những giống hoa này chỉ có mầu đỏ hay cánh vàng cam, lưỡi vàng kim, nhưng bây giờ đủ cả tím, hồng, trắng, đỏ thẫm, vàng nhạt,......
Một số loài Lan dạng
Trúc
EPIDENDRUMGiống lan Epidendrum ibaguense hay radicans
này mọc xuốt từ Mễ tây cơ đến Nam Mỹ, hoa nở quanh năm,
lâu tàn, mầu sắc rực rỡ mà lại rất dễ trồng. Chỉ cần bẻ một vài
nhánh, đem về cắm xuống đất hay trồng vào chậu ít lâu sau đã
thành một bụi lan rất ngoạn mục. Thân cao ngất ngưởng, chùm
hoa mọc ở đầu ngọn lung lay theo gió. Trước kia những giống hoa
này chỉ có mầu đỏ hay cánh vàng cam, lưỡi vàng kim, nhưng bây
giờ đủ cả tím, hồng, trắng, đỏ thẫm, vàng nhạt, hoa to hoa nhỏ mà giá chỉ 5-10$
một chậu.
OERSTEDELLACây này trước kia thuộc loài Epidendrum, nguyên xứ tại El Salvador
lá nhỏ, thân mảnh mai chùm hoa tim đỏ (schweinfurthianum) hay hồng nhạt
(centradenia) Oerstedella schweinfurthianum thân cao tới 2 thước. Khi nở hoa, đầu các
cành nhỏ xuốt từ gốc tới ngọn chỗ nào cũng có hoa.
SOBRALIA
Loài Sobralia mọc ở Nam Mỹ và được gọi là Bamboo Orchids vì lá lan giống như lá tre,
lá trúc. Sobralia macrantha và Sobralia decora cao hơn một thước. Hoa nở một hay hai
chiếc trên ngọn, mầu tím hồng rất lớn như hoa Cattleya chỉ có một ngày đã tàn, nhưng
với 3-4 nụ, chiếc nọ nở nối tiếp theo chiếc kia. Sobralia leucoxantha hoa mầu vàng và
cây nhỏ hơn.
DENDROBIUM
Cuốn cây cỏ ViệtNam quyển III tập 2 trang 1040, Phạm Hoàng Hộ có ghi như sau:
Dendrobium hainanensis Rofle, Mành. Đây có lẽ là tên Việt chăng? Hình vẽ rất sơ sài,
phần mô tả không nói rõ mầu hoa, cũng không nói đến nơi cây mọc.
Cuốn Phong Lan Việt Nam của Trần Hợp ấn bản 1998 không thấy đề cập đến Trúc
lan ở phần tên Việt, cũng như không nói gì đến cây Dendrobium hainanensis.
Trong cuốn The Orchids of Indochina do Gunnar Seidenfaden nghiên cứu và ấn hành
năm 1992 đuợc nhiều người coi như là đầy đủ và chuẩn đích hơn cả. Trang 254 viết:
"theo Rolfe (1896) và Gagnepain (1934) nói là có lẽ thấy ở Bắc kỳ". Gunnar cũng thú
nhận là cũng chưa thấy cây lan Den. hainanensis ra sao cả. Ông ta cho rằng cây này chỉ
đồng danh với cây Den parciflorum.
Cố gắng tìm tòi trong các cuốn sách hiện có trong tay: Dendrobium and its Relatives của
Bill Lavarack, Wayne Harris và Geoff Stocker, The Illustrated Encyclopedia of Orchids
của Alec Pridgeon, The Manual of Cultivated Orchids Species của Helmet Bechtel,
Phillip Cribb, Edmund Launert, và cuốn mới nhất Botanica’s Orchids cũng chẳng thấy
tăm hơi.
Không chịu thua, vào Internet lùng lên xục xuống hết trang Web nọ đến trang Web kia,
mới thấy vài nơi nói sơ sơ về cây Den. hainanensis và cây Den.
hancockii nguyên quán tại Vân Nam và đảo Hải nam mà người
Trung hoa gọi những cây lan này là Trúc lan, (Golden Bamboo
Orchids.)
Vào khoảng năm 2000, ông Fung một nguờì Mỹ gốc Hoa, chủ nhân vườn lan Maisie
Orchids, West Covina, California nhập cảng khá nhiều giống lan Trung Hoa và năm đó
gần như một mình một chợ bán những cây lan này tại hội Hoa lan Fascination of
Orchids Show. Ông ta có đổi cho tôi 2 cây Den. hainanensis, Den. hancockii và vài chậu
Cymbidium sinense lấy một bức tranh.
Có người yêu thích bức tranh của mình đó là một điều vinh hạnh, vả lại muốn có một
số hoa lan Việt Nam, cho nên tôi chẳng chần chừ vì biết rằng những cây lan này mọc ở
miền biên giới Hoa Việt, may ra Việt nam cũng có chăng? Khi tìm vào sách vở, biết
không phải là cây lan của quê hương cho nên tôi chẳng lấy gì làm thích thú và cũng
chẳng thèm chú ý đến nữa. Mãi cho tới gần đây có người hỏi tới, tôi mới chợt nhớ ra
những cây kể trên bởi vì tên cây lan bằng tiếng Việt tôi không rành rẽ, vả lại không
thống nhất và chẳng lấy gì làm chuẩn đích.
Cây lan Den hainanensis và Den.hancockii có những bông hoa đều một mầu vàng kim
rực rỡ và hương thơm như mùi mật ong. Mầu sắc tuy giống nhau, nhưng hơi khác về
hình dáng. Cánh hoa Den. hainanensis tròn như cánh hoa mai, thân mảnh mai như que
tre nướng thịt nên thân cây thấp nhỏ.
Den. hancockii hoa lớn hơn nhưng đầu cánh hơi nhọn, thân cây mập mạp mầu nâu đen
cho nên có thể cao tới 2 thước.
Cả hai giống này đều nở hoa vào mùa Xuân và lâu bền tới một
tháng mới tàn. Lan cần nhiều ánh nắng nên có thể trồng ở ngoài
trời không cần phải che lưới. Chịu được nóng và lạnh tới 35°F hay
2°C, không cần phải tưới nhiều, ngoại trừ khi cây non đang mọc.
Lan không ưa thay chậu cần rất ít phân bón và phải để khô mới ra
hoa.
Trong khi tìm hiểu về Den. hainanensis và Den. hancockii tôi nhận
thấy chính các vị khoa học gia cũng ở vào tình trạng "tam sao thất
bổn" như chúng ta.
Xin hãy đọc một đoạn dưới đây trong trang 254 cuốn The Orchids of Indochina do
Gunnar Seidenfaden:
"Gagnepain (1934-249) includes Dendrobium hainanense as a separate species, he had
evidently not see it, stating that it problably will be found in Tonkin, there is no
Indochinese material under this name in Paris. D. hainanense was based by Rolfe (1896:
193) on two Hainamese collections, he likened it with "the Phillipine D. aciculare", which
was a mistake, that taxon is not from the Philippines and belongs in the section
Rhopalanthe, while D. hainanense obviously is a Strongyle. It has later been recorded
from Kwangtung and Hongkong. I have not seen any specimen, but the available
literature leaves the impression that it should be considered a co-specific with D.
parciflorum.
Tôi không dám dịch nguyên văn mà chỉ đi tìm xem cây Den. aciculare và Den
parviflorum ra sao, nhưng thấy mình lại đi vào mê hồn trận. Chẳng thấy 2
cây này ở đâu, chỉ có cây Den. sanderae var. parviflorum hoa mầu trắng, thế
mà vườn lan Santa Barbara Estate ở Santa Barbara, California một vườn lan
nổi tiếng từ lâu lại quảng cáo cây Den. hainanensis cũng là cây Den.
parviflorum. Như vậy đã hết đâu, có chỗ còn nói cây Den. hainanensis với
cây Den. jenkinsii cũng là một.
Chẳng qua các nhà khoa học, ông này viết theo sách của ông kia cho nên Phạm Hoàng
Hộ cũng như Gagnepain và Gunnar đều dựa vào Rolfe cho nên mới có tình trạng "sẩm
sờ voi" hay "ông chẳng bà chuộc" chứ chẳng có người nào nhìn thấy cây lan này ra sao
cả.
Thực ra với khoảng 30.000 cây lan nguyên giống, mấy ai có đủ diễm phúc đi khắp đó
đây, tận cùng thế giới để có thể nhìn thấy tất cả những bông hoa kỳ lạ này, do đó phải
dựa vào sách vở. Vì vậy nếu chúng ta có nhận lầm cây nọ ra cây kia cũng là chuyện
thường tình chẳng lấy gì làm quan trọng.
Qua những điều đã trình bầy ở trên, tôi tin chắc những cây Epidendrum, Oerstedella,
Sobralia tuy hình dáng có giống như cây trúc và được những người Việt ở đất Hoa Kỳ
ngẫu hứng, thấy mặt mà bắt hình dong mà thôi.
Còn những cây Trúc lan ở Việt Nam chắc chắn phải là cây Den hainanensis hoặc cây
Den. hancockii. Có thể người ta mới tìm được ở vùng biên giới Hoa Việt, cũng có thể
là một khách yêu lan nào đó sang Trung quốc chơi rồi mang về dựa theo tiếng Hoa đặt
tên cho lan theo Việt ngữ.
Khi viết bài này, tôi hy vọng đuợc các bạn chơi lan bên nhà gửi cho hình ảnh để dễ bề
nhận diện và mong rằng chúng ta không có thêm một vài cây Trúc Lan lạ hoắc.
..:: http://Agriviet.Com - Xem2319::..