MẠNG THÔNG MINH (IN – Intelligent Network)
Vũ Ngọc Quyết
Mở đầu
Mạng thông minh (IN) là mạng viễn thông tách rời dịch vụ, nghĩa là sự thông minh
được lấy ra thuộc thiết bị chuyển mạch và trong nút máy tính được phân bổ qua mạng. Nó
cung cấp người vận hành mạng phương tiện để phát triển và điều khiển các dịch vụ một
cách linh hoạt và hiệu quả hơn, những khả năng mới có thể được đưa vào trong mạng một
cách nhanh chóng hơn. Ngay lập tức nhiều dịch vụ được thương mại hoá một cách dễ ràng
hơn đáp ứng những nhu cầu của từng cá nhân khách hàng. Bài viết này cố gắng nêu lên
qúa trình tiến hoá mạng viễn thông từ mạng cung cấp dịch vụ trên cơ sở lôgic chuyển mạch
đến một mạng thông minh tiên tiến tách rời dịch vụ có khả năng tạo và cung cấp dịch vụ.
Như IN tiến hoá, các nhà cung cấp dịch vụ sẽ đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức,
trong khi đó IN cung cấp năng lực mạng thoả mãn nhu cầu thay đổi thường xuyên của
khách hàng, tính thông minh của mạng trở thành phân bố với độ phức tạp ngày càng tăng
nhanh. Ví dụ : những nhà cung cấp dịch vụ tay ba bên sẽ được kết nối với các mạng của
các công ty khai thác truyền thống. Số cục bộ di động (LNP - Local Number Portability)
mô tả rất nhiều vấn đề mà chỉ có thể giải quyết trong môi trường mạng thông minh để đáp
ứng các yêu cầu của quản lý nhà nước. Ngoài ra, do sự canh tranh tăng nhanh cùng với
những công ty chào hàng dịch vụ điện thoại trước đây bị từ chối thì nay mạng thông minh
(IN) cung cấp giải pháp để thoả mãn những thách thức và nhiệm vụ khó khăn đó. Bài này
đề cập đến các nội dung sau :
1. Phát triển mạng
2. Bước đầu làm quen với IN
3. Những lợi ích của IN
4. Các phiên bản AIN
5. Công nghệ phiên bản AIN 1
6. Mô hình cuộc gọi
7. Phiên bản AIN 0
8. Phiên bản AIN 0.1
9. Phiên bản AIN 0.2
10. Ví dụ về
11. Những dịch vụ AIN khác
12. Các thuật ngữ
1. Phát triển mạng
Những năm đầu thập kỷ 1960, logic dịch vụ điện thoại được mô tả trên Hình 1, các hệ
thống chuyển mạch được kết nối vật lý bằng các rơle điện cơ. Những nhà khai thác cung
cấp dịch vụ mạng phải gặp các đối tác cung cấp thiết bị chuyển mạch để bàn thảo về những
1
loại hình dịch vụ mà khách hàng yêu cầu, đàm phán về những đặc tính của hệ thống
chuyển mạch để cung cấp các dịch vụ và đi đến thống nhất, sau đó nhà khai thác mạng đưa
ra kế hoạch phát triển dịch vụ/ tiện ích chung trong cơ cấu mạng chuyển mạch (Hình 1).
Hệ thống Hệ thống
chuyển mạch chuyển mạch
Bên gọi Bên bị gọi
Logic dịch vụ khởi đâu mới Logic dịch vụ kết cuối mới
- Cuộc gọi ba hướng - Đợi cuộc gọi
- Quay số giọng nói - Chuyển hướng cuộc gọi
Hình 1: Dịch vụ điện thoại truyền thống
Quá trình này được kết hợp giữa người điều hành khai thác mạng với những hệ thống
chuyển mạch từ nhiều nhà cung cấp, dẫn đến những dịch vụ không được đưa ra bán ở
nhiều nơi trên một khu vực phục vụ của nhà khai thác mạng đó. Do vậy, khách hàng ở
điểm cuối của một thành phố, tỉnh, hoặc một lãnh thổ không có được những dịch vụ giống
như những người ở khu vực khác nhau trong cùng một vùng. Ngoài ra, một trong những
dịch vụ được thực hiện, chúng không thể sửa đổi một cách dễ ràng để đáp ứng những yêu
cầu của khách hàng riêng lẻ. Thông thường, người vận hành mạng thương lượng thay đổi
với người cung cấp thiết bị chuyển mạch, kết quả của quá trình này được thực hiện trong
nhiều năm để lập kế hoạch và thực thi những dịch vụ.
Phương pháp này để triển khai những dịch vụ mới cần sự quản lý chặt chẽ của những
mô hình cuộc gọi, cung cấp các nhóm đường trục mới để điểu khiển những mô hình cuộc
gọi. Vì thói quen gọi của khách hàng (độ dài của cuộc gọi lâu hơn, phạm vi lớn hơn, và
nhiều tuyến trong hoạt động kinh doanh và trong cuộc sống).
1.1. Chuyển mạch điều khiển bằng chương trình nhớ sẵn (SPC)
Vào giữa những năm 1960, hệ thống chuyển mạch điều khiển chương trình nhớ sẵn
(SPC – Stored Program Controlling) ra đời, đó là một bước tiến quan trọng, từ lúc đó
nguyên lý thực hiện dịch vụ được chương trình hóa khác với quá khứ, các dịch vụ mới
được đưa ra một cách dễ dàng. Tuy vậy nguyên lý thực hiện dịch vụ không dựa trên
môđun vì thế nó trở nên phức tạp hơn khi thêm vào những dịch vụ mới bởi vì sự phục
thuộc giữa dịch vụ và nguyên lý thực hiện dịch vụ đặc trưng. Về cơ bản, nguyên lý thực
hiện dịch vụ được sử dụng cho một dịch vụ không thể sử dụng cho dịch vụ khác. Kết quả
là, nếu những khách hàng không được hệ thống chuyển mạch SPC cung cấp dịch vụ thì họ
không được cung cấp những dịch vụ mới.
1.2. Mạng báo hiệu kênh chung (CCSN – Common Channel Signalling Network)
Thêm một diện mạo nữa của quá trình đưa ra những dịch vụ theo truyền thống là
thông tin thiết lập cuộc gọi - đó là báo hiệu và giám sát cuộc gọi đặt giữa các hệ thống
2
chuyển mạch và cuộc gọi hiện tại. Khi một cuộc gọi được thiết lập, tín hiệu và đường
thoại sử dụng đường trung kế chung giống nhau từ hệ thống chuyển mạch gốc đến hệ
thống chuyển mạch đích. Thông thường có nhiều khu nhà phức tạp gặp khó khăn khi định
hướng một cuộc gọi. Hệ thống sử lý nắm vững những đường trục trong tất cả những hệ
thống chuyển mạch phức tạp. Vì thế, nếu đầu nút kết thúc bận, tất cả những đường trục đã
được thiết lập quá mức cần thiết.
Mạng viễn thông đạt một bước tiến lớn, vào giữa những năm 1970 khi hệ thống báo
hiệu kênh chung được đưa vào mạng (CCS – Common Channel Signalling System) hay
còn gọi là hệ thống báo hiệu số 7 (SS7). Hệ thống báo hiệu kênh chung là giao thức để
chạy qua mạng báo hiệu kênh chung (CCSN), mạng báo hiệu kênh chung bao gồm những
liên kết dữ liệu dưới dạng gói và những hệ thống chuyển mạch dữ liệu gói được gọi là
những điểm truyền báo hiệu (STPs).
Mạng SS7 (Hình. 2) tách ra khỏi thông tin thiết lập cuộc gọi và đường thoại từ đường
trục chung mà vận hành giữa những hệ thống chuyển mạch. Thông tin thiết lập cuộc gọi di
chuyển ra ngoài đường trục chung thông qua mạng SS7. Các loại thông tin được truyền
bao gồm : cho phép thiết lập cuộc gọi được hay không khi bên bị gọi bận.
1.3. Báo hiệu kênh chung
Công nghệ SS7 mở rộng tuyến đường trục giữa các hệ thống chuyển mạch cho những
cuộc gọi hiện thời. Mạng SS7 cho phép đưa vào những dịch vụ mới, như ID người gọi. ID
người gọi cung cấp số điện thoại của bên gọi, nó được truyển qua mạng SS7.
Mạng báo hiệu
Các điểm
truyền báo
Bên gọi hiệu (STPs) Bên bị gọi
Hệ thống Hệ thống
chuyển mạch chuyển mạch
• Giới thiệu về Hệ thống báo hiệu kênh chung (CCS) cho báo hiệu năm
1976
- Sự chậm trễ được giảm bớt - Giảm thiểu gian lận
- Sự tin cậy được cải thiện - Có khả năng báohiệu trong suốt cuộc gọi
ổn định
Hình 2: Báo hiệu kênh chung
Mạng SS7 được thiết kế và ứng dụng trước khi định nghĩa mạng thông minh (IN)
được giới thiệu. Tuy nhiên, những nhà cung cấp dịch vụ điện thoại đã nhận ra nhiều lợi
ích, từ đó tích cực khai thác và sử dụng những năng lực tiềm tàng của mạng SS7.
2. Các vấn đề về IN
Trong suốt những năm 1980, những công ty thành viên Bell trực thuộc khu vực
(RBOCs) đã bắt đầu đề ra những tính năng nhằm đáp ứng những mục tiêu sau:
- Phát triển nhanh những dịch vụ trong mạng.
3
- những giao diện chuẩn.
- Những cơ hội mà không có những RBOC để đưa ra những dịch vụ để tăng tính sử
dụng mạng.
Telcordia Technologies đáp lại những yêu cầu này và phát triển thêm khái niệm
mạng thông minh 1 (IN/1) được mô tả trên Hình 3.
Sử dụng SCP cho những dịch vụ tập trung:
- Những dịch vụ cuộc gọi thẻ
- Dịch vụ 800
SCP
STP
Hệ thống
quản lý dịch
vụ (SMS)
Hệ thống
chuyển mạch
Những hệ thống quản
lý dịch vụ riêng biệt
“Những bản lề “ dịch vụ riêng biệt
mới trong phần mềm chuyển mạch
Hình 3: Mạng thông minh 1 (IN/1)
Lần đầu tiên IN/1 đã trình bày nguyên lý thực hiện dịch vụ ở bên ngoài các hệ thống
chuyển mạch, đặt trong những cơ sở dữ liệu gọi là những điểm điều khiển dịch vụ (SCP –
Service Controll Points). Hai dịch vụ đưa ra đó cần đến nguyên lý thực hiện dịch vụ IN/1 -
dịch vụ 800 (hay điện thoại miễn phí) và xác minh thẻ cuộc gọi (hay dịch vụ thực hiện hóa
đơn luân phiên [ABS]). Do đặc tính riêng biệt dịch vụ của công nghệ, có những dịch vụ
yêu cầu đến 2 SCP tách biệt nhau. Để giao tiếp với nguyên tắc thực hiện dịch vụ giá trị gia
tăng, phần mềm phải được triển khai trong những hệ thống chuyển mạch. Phần mềm hệ
thống chuyển mạch này cho phép thừa nhận hệ thống chuyển mạch khi nó cần thiết để giao
tiếp với một SCP thông qua mạng SS7.
Cùng với việc đưa ra khái niệm, những nhà khai thác mới và những hệ thống trở nên
cần thiết để tạo thành những dịch vụ hỗ trợ, kiểm tra, và dự phòng. Trong cả hai hình vẽ,
chú ý thuật ngữ “những hệ thống quản lý dịch vụ riêng biệt” ở dưới khung có nhãn “hệ
thống quản lý dịch vụ”. Điều này có nghĩa rằng phần mềm chỉ ra những điểm neo và nút
nhấn là riêng biệt để liên kết các dịch vụ. Ví dụ như dịch vụ 800 có nút kiểu 800 trong hệ
thống chuyển mạch, cơ sở dữ liệu của dịch vụ 800 đặt tại SCP, một hệ thống quản lý dịch
vụ 800 để hỗ trợ SCP 800. Trong điều kiện dịch vụ đặc trưng này, dịch vụ 800 tập hợp
những khả năng không thể thực hiện cho những dịch vụ khác (ví dụ như dịch vụ 900). Mặc
dù phương thức thực hiện dịch vụ nằm ngoài hệ thống chuyển mạch, nó vẫn là dịch vụ
riêng lẻ.
4
Nền công nghệ SCP
- Phục vụ những khả năng độc lập
- Phần mếm ứng dụng
SCP
STP
Hệ thống
quản lý dịch
vụ (SMS)
Hệ thống
chuyển mạch
Những hệ thống quản
lý dịch vụ độc lập
Sử lý cuộc gọi chung
- Phục vụ những khả năng độc lập
- Các tricgơ
Hình 4: Công nghệ AIN
Nhìn thoáng qua lần đầu, Hình 4 trông giống như hình 3. Tuy nhiên có một sự khác
biệt cơ bản. Chú ý đến cách diễn đạt “những hệ thống quản lý dịch vụ độc lập” ở bên dưới
khung có nhãn “hệ thống quản lý dịch vụ”. Sau đây lấy dịch vụ đặc trưng 800 IN/1 làm ví
dụ, phần mềm dịch vụ độc lập AIN có 3 phím sô bấm có thể được sử dụng để cung cấp
một dẫy các dịch vụ 3 số (800, 900, XXX,...) trái với phương thức thực hiện dịch vụ 800.
Tương tự như vậy, phương thức thực hiện dịch vụ và hệ thống quản lý dịch vụ là những
dịch vụ riêng biệt, không dịch vụ đặc trưng. AIN là một mạng có khả năng dịch vụ độc lập.
3. Những tiện ích của các IN
Lợi ích chính của IN là khả năng cải tiến các dịch vụ hiện tại và phát triển những tài
nguyên mới quốc gia. Để đáp ứng những mục tiêu này, các nhà cung cấp mong muốn có
khả năng giải quyết hoàn hảo các vấn đề sau:
• Đưa ra dịch vụ mới một cách nhanh chóng - IN đưa ra khả năng cung cấp những
dịch vụ mới hoặc thay đổi những dịch vụ hiện có trong toàn mạng bằng sự can
thiệp vật lý.
• Cung cấp dịch vụ theo yêu cầu khách hàng - Các nhà cung cấp mong muốn có
khả năng thay đổi phương thức thực hiện dịch vụ một cách nhanh chóng và hiệu
quả. Những khách hàng cũng đã hạn chế những đòi hỏi khắt khe những dịch vụ
của riêng họ để làm thỏa mãn những thứ cần thiết của riêng họ.
• Thiết lập đại lý cung cấp độc lập - Một tiêu chuẩn chủ yếu cho những nhà cung
cấp dịch vụ đó là những phần mềm phải được phát triển nhanh chóng và rẻ. Để
hoàn thành được điều này, những người cung cấp hệ thống phải kết hợp được
những phần mềm thương mại sẵn có để tạo ra những ứng dụng do các nhà cung cấp
dịch vụ yêu cầu.
• Tạo ra những giao diện mở - những giao diện mở cho phép những nhà cung cấp
dịch vụ đưa ra các nhân tố mạng nhanh chóng để cá nhân báo những dịch vụ của
5
khách hàng. Phần mềm phải chỉ ra những giao diện chung giữa các sản phẩn của
những đại lý cung cấp khác nhau, trong khi đó vẫn duy trì được những tiêu chuẩn
vận hành mạng một cách nghiêm ngặt. Những nhà cung cấp dịch vụ không thể dựa
vào một hoặc hai đại lý cung cấp để cung cấp thiết bị và phần mềm để đáp ứng
những yêu cầu của khách hàng.
Công nghệ mạng thông minh tiên tiến (AIN - Advance Intelligent Network) sử dụng
phương thức nhúng của các hệ thống chuyển mạch điều khiển theo chương trình nhớ sẵn
và mạng SS7. Công nghệ AIN cho phép tách biệt những chức năng dịch vụ đặc trưng và
dữ liệu từ những tài nguyên mạng khác nhau. Chức năng này làm giảm bớt sự lệ thuộc của
những đại lý cung cấp hệ thống chuyển mạch để phát triển phần mềm và những kế hoạch
phân phối. Những nhà cung cấp dịch vụ có thể thoải mái hơn để đưa ra những dịch vụ
theo yêu cầu của khách hàng.
Điểm điều khiển dịch vụ (SCP – Service Control Point) bao gồm nhiều khả năng
chương trình hóa những dịch vụ riêng biệt (hoặc phương thức thực hiện dịch vụ) đó là sự
hạn chế dưới chuẩn của các nhà cung cấp dịch vụ. SCP cũng bao gồm dữ liệu dịch vụ đặc
trưng cho phép các nhà cung cấp dịch vụ và những khách hàng của họ hướng tới những
dịch vụ theo yêu cầu. Với IN, không có loại nào là cỡ duy nhất phù hợp với tất cả các dịch
vụ được yêu cầu để đáp ứng những thứ cần thiết của cá nhân.
Do phương thức thực hiện dịch vụ do nhà cung cấp dịch vụ điều khiển, nó dễ ràng
hơn khi đưa ra các dịch vụ theo định hướng giá và lợi nhuận. Những nhà cung cấp mạng
có thể chào hàng tại thị trường trọng điểm để thử nghiệm dịch vụ bằng cách đưa phương
thức thực hiện dịch vụ vào trong một SCP và thử nghiệm những khả năng trong thị trường
đó hay trong những hệ thống chuyển mạch khác. Những tiêu chuẩn và sự công khai được
chấp nhận, những cái chung của tài liệu dẫn chứng hợp lý cung cấp một phương thức tiêu
chuẩn giữa những hệ thống chuyển mạch và các SCP, đặc biệt là trong điều kiện đa nhà đại
lý cung cấp.
4. Các công nghệ phiên bản AIN
Yêu cầu cho những dịch vụ AIN vượt xa lợi ích của chức năng mạng. Những nhà
cung cấp dịch vụ không thể đợi tất cả các tính năng và chức năng như đã được mô tả trong
phiên bản AIN 1. Các phiên bản AIN 1 định rõ tất cả các loại nhu cầu, nó thực hiện tập
hợp các khả năng qua lớn để thích ứng được với nền công nghiệp.
Telcordia Technologies phát triển tính hoạt động hướng vào những yêu cầu FTS
2000 xuất trình bởi chính phủ Mỹ. Các RBOCs lần lượt làm thích nghi những yêu cầu này
để đáp ứng những nhu cầu cần thiết tức thời của khách hàng. Sự cố gắng này là kết quả từ
Phiên bản AIN 0, nó có một khung thời gian trước khi có thể sử dụng AIN 0.1. Trong lúc
đó, bản thân những tiêu chuẩn quốc tế, Hiệp hội viễn thông quốc tê (ITU) đi theo những
khái niệm đưa ra từ trước trong những yêu cầu Phiên bản AIN 1. ITU phát triển một tiêu
chuẩn IN quốc tế được gọi là Capability Set 1, hay SC-1. Hình 5 cho thấy đích của công
nghệ Phiên bản AIN 1, như được định nghĩa trong Telcordia Technologies AIN Generic
Requirements (GRs).
6
Thiết bị đầu
cuối thông
minh (IP) Điểm điều
Các hệ thống khiển dịch
vận hành vụ (SCP)
(OSs)
Mạng CCS
Điểm chuyển
Bộ phận
mạch dịch
bổ xung
vụ (SSP)
Hình 5: Phiên bản AIN 1
Điểm chuyển mạch dịch vụ (SSP – Service Switching Point) trong sơ đồ này là một
AIN có năng lực cần thiết cho hệ thống chuyển mạch. Ngoài việc cung cấp cho những đầu
cuối người dùng với truy nhập đến mạng và thực hiện bất kỳ một tính năng chuyển mạch
cần thiết nào, SSP cho phép truy nhập đến tập hợp những khả năng của AIN. SSP có khả
năng phát hiện ra những yêu cầu cho AIN - những dịch vụ cơ bản và những thông tin thiết
lập cuộc gọi cùng với phương thức thực hiện dịch vụ AIN được đặt tại những SCP. SSP
có thể giao tiếp với những hệ thống mạng khác (ví dụ như những thiết bị ngoại vi thông
minh) được các dịch vụ riêng lẻ xác định.
Điểm điều khiển dịch vụ (SCP) cung cấp khả năng điều khiển dịch vụ. Có hai thành
phần cơ bản trong một SCP, phần một là tính năng ứng dụng trong đó phương thức thực
hiện dịch vụ được cài đặt sau khi những dịch vụ được thiết lập. Tính năng ứng dụng này
nằm trên đỉnh của phần SCP cơ bản thứ hai - một tập hợp những tính năng nền tảng chung
được các nhà cung cấp SCP phát triển. Chức năng nền tảng này được chia sẻ giữa những
chương trình ứng dụng phương thức thực hiện dịch vụ trong tính năng hoạt động ứng dụng.
Tính hoạt động nền tảng cung cấp giao diện SS7 tới các hệ thống chuyển mạch. Như đã
thấy trong sơ đồ trên, SCP được kết nối đến các SSP thông qua mạng SS7.
Thiết bị ngoại vi thông minh (IP-Intelligent Peripheral ) cung cấp tài nguyên là
những thông báo âm thanh được kết nối và tùy biến, nhận thức tiếng nói, và tập hợp mã đa
tần (DTMF) âm kép. IP chứa đựng một ma trận chuyển mạch để kết nối người dùng đến
tài nguyên. Ngoài ra, IP hỗ trợ sự tương tác thông tin linh hoạt giữa đầu cuối người dùng
với mạng. Nó có những khả năng quản lý tài nguyên để tìm những nguồn thông tin không
dùng đến, bắt đầu những nguồn tài nguyên đó, và rồi trả lại chúng trạng thái rỗi.
Giao diện giữa SSP và IP là một mạng số đa dịch vụ tích hợp (ISDN), giao diện nhịp
độ sơ cấp (PRI), và/hoặc giao diện cơ bản (BRI). IP có tính năng hoạt động để cung cấp
giao diện ISDN cho hệ thống chuyển mạch. Cái thêm được thể hiện trong sơ đồ trên tương
đương về mặt chức năng đến một SCP, nhưng nó được kết nối trực tiếp đến một SSP. Một
giao diện tốc độ cao hỗ trợ truyền thông giữa một cái thêm vào và một SSP. Những thông
báo lớp ứng dụng đồng nhất về nội dung được mạng bởi mạng SS7 giữa SSP và SCP.
7
5. Mô hình cuộc gọi
Mô hình cuộc gọi là đại diện chung cho những hoạt động cuộc gọi SSP được yêu cầu
thiếp lập, duy trì và giải phóng một cuộc gọi cơ bản. Mô hình cuộc gọi bao gồm điểm
trong những cuộc gọi (PICs), các điểm tìm kiếm (DPs), và các trigơ được mô tả trong Hình
6 dưới đây.
Các điểm trong cuộc gọi (PICs) Các điểm phát hiện tricgơ (TDPs)
(v.v..., Tập hợp thông tin) (v.v..., Thông tin được tập hợp)
SCP
Thông tin_Tập hợp
Mô hình Dịch vụ
cuộc gọ logic AIN
Phân tích_Định tuyến
Chuyển mạch
AIN (SSP) Các tricgơ
Hình 6: Mô hình cuộc gọi: Khái niệm cơ bản
Các PIC miêu tả những hoạt động của hệ thống chuyển mạch bình thường hay các
trạng thái mà một cuộc gọi đi xuyên suốt từ điểm đầu đến điểm cuối. Ví dụ: trạng thái vô
hiệu lực hay trạng thái rỗi là khi SSP trên thực tế đang kiểm tra đường dây của khách hàng.
Những ví dụ khác của các trạng thái, hoặc các PICs, là nhấc máy, thu thập thông tin, phân
tích thông tin, định tuyến, cảnh báo, . . .
Những hệ thống chuyển mạch đã trải qua những giai đoạn giống nhau trước khi AIN
được phát triển. Tuy nhiên, đến khi AIN giới thiệu một mô hình cuộc gọi chính thức hướng
đến tất cả các hệ thống chuyển mạch phải được tham gia. Trong mô hình cuộc gọi mới này,
các điểm dò tìm trigơ (TDPs) được thêm vào giữa các PICs. Các SSPs kiểm tra TDPs để
xem xét nếu có bất kỳ những trigơ tích cực nào. Có 3 kiểu trigơ: các trigơ đường dây cơ sở
hay thuê bao, các trigơ nhóm cơ sở, và các trigơ văn phòng cơ sở. Những trigơ thuê bao
được cung cấp đến đường dây khách hàng với mục đích là một vài cuộc gọi từ điểm bắt
đầu đích và đến điểm kết thúc phải qua trigơ. Các trigơ nhóm cơ bản được thiết kế để các
nhóm thuê bao, các nhóm Centrex hay doanh nghiệp, bất kỳ một thành viên nào của một
phần mềm định rõ nhóm nào sẽ qua trigơ. Các trigơ văn phòng không được gắn cho những
cá nhân riêng lẻ hoặc những nhóm.
Nếu một trigơ hoạt động được phát hiện, việc xử lý cuộc gọi trong hệ thống chuyển
mạch thông thường bị đình chỉ cho tới khi SSP và SCP hoàn thành việc truyền thông.
Chẳng hạn, trong sơ đồ ở trên, hãy nghĩ rằng một cuộc gọi AIN đã có tiến triển trải qua
trạng thái không hiệu lực hay nhấc máy là PIC và hiện thời tại thu thập thông tin PIC. Xử
8
lý cuộc gọi thông thường bị đình chỉ tại TDP đã thu thập thông tin bởi vì một trigơ trì hoãn
hoạt động nhấc máy. Trước quá trình xử lý tiếp tục (phân tích thông tin) PIC, SSP tập hợp
một thông báo thông tin đã được thu thập và gửi nó đến SCP thông qua mạng SS7. Sau khi
phương thức thực hiện dịch vụ SCP thực hiện theo thông báo, SCP gửi một tin nhắn phận
tích định tuyến để nó cho SSP biết phải điều khiển cuộc gọi như thế nào trước khi đi đến
một PIC tiếp theo (phân tích thông tin).
Thực chất, khi SSP nhận ra đó là một cuộc gọi có một trigơ AIN phụ trợ, SSP đình
chỉ quá trình xử lý cuộc gọi trong khi truy vấn SCP cho việc định tuyến cuộc gọi có liên
quan. Trước đó SCP cung cấp chỉ dẫn, SSP tiếp tục mô hình cuộc gọi cho đến khi hoàn
thành cuộc gọi. Điều này về cơ bản là làm thế nào để mô hình cuộc gọi làm việc, và nó là
một thành phần quan trọng trong AIN. Khái niệm này khác với khái niệm chuyển mạch
AIN trước kia trong đó những cuộc gọi được xử lý từ trạng thái bắt đầu đến trạng thái kết
thúc cuộc gọi mà không có sự trì hoãn cuộc gọi.
6. Phiên bản AIN 0
Mô hình cuộc gọi Phiên bản AIN 0 có 3 điểm kiểm tra trigơ (TCPs). Ở tại mỗi một
TCP có một hay nhiều hơn các trigơ. Chẳng hạn, TCP nhấc máy tính cả đến trigơ trực tiếp
nhấc máy. Nếu một đường dây thuê bao được trang bị với trigơ này, truyền thông với SCP
sẽ xuất hiện nếu hệ thống chuyển mạch phát hiện tình trạng nhấc máy. Cho một trigơ trì
hoãn nhấc máy, một hoặc hơn số đã được quay trước khi bắt đầu một quá trình đến SCP.
Với tập hợp số và phân tích TCP, các số được thu thập được phân tích trước khi bắt đầu
một quá trình. Khởi sự một quá trình cũng có thể xuất hiện khi định tuyến trạng thái cuộc
gọi. Mô hình cuộc gọi được thể hiện trong hình 7.
Rỗi • Nhấc máy trực tiếp
• Nhấc máy
• Chiếm dụng trung kế đến
• Kênh PRI B
TCPs Nhấc máy
• Các bộ hoạt động đặc trưng BRI
Định tuyến • Mã hoá đặc trưng PODP (*XX)
Phân tích • Các mã tiến hành quay só theo
& yêu câu của khách hàng
Tập hợp số • Chia sẻ trung kế giữa các phòng
(Truy nhập trigơ quá giang)
• Tự động định tuyến
mềm dẻo
• Số danh bạ điện thoại
Hình 7: Mô hình cuộc gọi Phiên bản AIN 0
Khi một hệ thống chuyển mạch đoán nhận một cuộc gọi cần đến sự bao hàm AIN, nó
kiểm tra những điểu kiện quá tải trước khi truyền thông với SCP. Quá trình xử lý này được
gọi là gián đoạn mã. Gián đoạn mã cho phép SCP thông báo hệ thống chuyển mạch giảm
thiểu thông báo các NPA hay NPA-NXX một cách chắc chắn. Khi gián đoạn mã bị tác
động, một vài cuộc gọi có thể nhận được cách xử lý cuối cùng. Cách khác, một thông báo
tài liệu cung cấp được gửi đến SCP. Phụ thuộc vào phương thức thực hiện dịch vụ SCP, nó
9
sẽ hồi đáp đến hệ thống chuyển mạch với một vài kiến thức xử lý cuộc gọi được thể hiện
trên hình 8.
AIN Phiên bản 0 khởi
sự một hành động
Kiểm tra khe
Đưa ra những chỉ dẫn hở mã
Truy vấn TCAP gửi Sử lý cuối cùng
đến SCP
Thực hiện thông báo và tập hợp số
Định tuyễn cuộc gọi
Cuộc gọi kết thúc khi có thông báo
Báo cho SCP biết khi cuộc gọi được giải phóng
Thông tin khe hở mã
Hình 8: Các chức năng của Phiên bản AIN 0
Phiên bản AIN 0 cung cấp thông cáo tại hệ thống chuyển mạch. Phiên bản 0 căn cứ
vào Công nghiệp tiêu chuẩn quốc gia Mỹ (ANSI) và Phần ứng dụng khả năng trao đổi
(TCAP) số 1. TCAP ở lớp số 7 của chồng nghi thức SS7. Điều này có nghĩa rằng có duy
nhất một tin nhắn được gửi từ SSP đến SCP, không có trigơ nào đạt được một trong 3 TCP.
7. Phiên bản AIN 0.1
AIN 0.1 là tập hợp con đầu tiên của Phiên bản AIN 1. Có 2 sự khác nhau cơ bản
giữa Phiên bản AIN 0 và AIN 0.1. Đầu tiên là mô hình cuộc gọi cân đối và thứ 2 là thiết
lập truyền thông giữa hệ thống chuyển mạch và SCP. Mô hình cuộc gọi cân đối được tách
ra bên trong mô hình cuộc gọi phát sinh (một nửa cuộc gọi phát sinh) và mô hình cuộc gọi
kết thúc (một nửa cuộc gọi kết thúc). Mô hình cuộc gọi Phiên bản AIN 0 không phân biệt
giữa điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Một tiêu chuẩn hay một mô hình cuộc gọi cân đối là
cần thiết trong khi chúng ta phát triển tới khả năng của Phiên bản AIN 1, bởi vì những khả
năng đó sẽ có nhiều các PIC và TDP hơn. Đông thời, sẽ có các kiểu chuyển mạch phức tạp
và gồm các phần tử mạng. Bởi vậy, phương thức thực hiện dịch vụ sẽ cần tương tác với
mỗi phần tử mà sẽ được yêu cầu trong mạng.
AIN 0.1 bao gồm một vài đặc tính chính khác. Có 254 thông cáo trong hệ thống
chuyển mạch, nó cung cấp những thông báo linh hoạt hơn, sẵn sàng đến những khách
hàng. Có thêm các chức năng cuộc gọi có liên quan và không có cuộc gọi liên quan cũng
như 3 trigơ thêm vào - trigơ N11, trigơ số 3, 6, 10, và trigơ cuối cùng. Nhiều trigơ hơn
cung cấp thêm những cơ hội cho phương thức thực hiện dịch vụ SCP ảnh hưởng đến quá
trình xử lý cuộc gọi. (Chú ý: TCP là một Phiên bản AIN 0 hoàn thành thay đổi đến TDP
trong AIN 0.1).
Có một vài khả năng không cuộc gọi liên quan trong AIN 0.1. SCP có khả năng kích
hoạt và khử kích hoạt những trigơ được thuê. SCP trong AIN 0.1 cũng có thể theo dõi tài
10
nguyên. Ngoài việc gửi một thông báo định tuyến cuộc gọi cho hệ thống chuyển mạch,
SCP có thể đòi hỏi hệ thống chuyển mạch theo dõi trạng thái bận và ngừng của đường dây
đặc biệt và những thay đổi của báo cáo. AIN 0.1 cũng hỗ trợ những tính năng ISDN chuẩn.
Như đã được đề cập trước đó, có một sự phân biệt giữa ranh giới khởi tạo và ranh
giới kết thúc của một điểm chuyển mạch dịch vụ. Điều này có nghĩa cả hai trigơ khởi tạo
và kết thúc và phương thức thực hiện dịch vụ có thể ảnh hướng đến một cuộc gọi đơn lẻ.
Hình 9. mô tả mô hình cuộc gọi khởi đầu trong AIN 0.1, mô hình cuộc gọi khởi đầu
trong AIN 0.1 bao gồm những điểm dò tìm trigơ khởi đầu - kết thúc sự khởi đầu, thu thập
thông tin, phân tích thông tin, và mạng bận.
1. Giá trị 0 Phản đối
Thử khởi tạo
Ngắt kết nối Khởi tạo bị hủy
2. Cấp phép_Khởi tạo_Thực hiện
Sự khởi tạo
được cho phép Tập hơp ngoài
thời gian
Điểm trong 3. Tập hợp_Thông tin
cuộc gọi (PIC)
Thông tin được tập hợp
Thông tin không
có hiệu lực
4. Phân tích_Thông tin
Điểm phát
hiện trigơ Thông tin được
(TDP) phân tích
Mạng bận
5. Lựa chọn_ Hướng đi
AIN 0.1 TDP
Hướng đi được
lựa chon
Hình 9: Mô hình cuộc gọi khởi tạo AIN 0.1
Mô hình cuộc gọi kết thúc AIN 0.1 bao gồm một TDP - cố gắng kết thúc, như được
miêu tả trong từng phần của mô hình cuộc gọi trong Hình 10.
11
11. Kết thúc_Giá trị 0 Phản đối
Sự kết thúc bắt đầu
Giải phóng Kết thúc bị hủy
12. Cấp phép_Kết thúc
Sự kết thúc
được thực hiện
Kết thúc bận
Điểm trong 13. Lựa chọn_Tiện ích
cuộc gọi (PIC)
Tài nguyên kết
thúc có giá trị
Loại bỏ cuộc gọi
14. Hiện thời_Cuộc gọi
Điểm phát
hiện trigơ Cuộc gọi được
(TDP) chấp nhận Sự kết thúc
không có trả lời
15. Kết thúc_ Cảnh báo
AIN 0.1 TDP
Kết thúc_Trả lời Hướng đi được
lựa chon
Hình 10: Mô hình cuộc gọi kết thúc AIN 0.1
AIN 0.1 : GIAO DIỆN SSP-SCP
AIN 0.1, được thể hiện trong hình 11, đưa vào ANSI TCAP phát hành số 2, có nghĩa
là tập hợp thông báo khác với tập hợp thông báo trong ANSI TCAP phát hành số 1. Chẳng
hạn, trong Phiên bản AIN 0, chỉ có một tin nhắn gửi từ SSP đến SCP không có trigơ nào
đạt được một trong 3 TCP. Trong AIN 0.1, những thông báo riêng biệt được gửi cho 4
điểm khởi tạo và một TDP kết thúc.
STP
SSP
SCP
• Sử dụng ANSI TCAP ra lần số 2
Về trước không tương thích với giao diện AIN 0 SSP-SCP mà sử
dụng ANSI TCAP ra lần số 1
• Về mặt chức năng thì ngang hàng vói ITU-T IN Capability Set 1
Hình 11: Giao diện SSP-SCP AIN 0.1
8. Phiên bản AIN 0.2
AIN 0.2 xây dựng trên AIN 0.1 với những khả năng bổ xung để hỗ trợ 2 bộ điều
khiển dịch vụ - 2 phương diện là dịch vụ giao tiếp cá nhân (PSC) và quay số âm kích hoạt
(VAD). Trong khi AIN 0.2 được tập trung vào những khả năng để hỗ trợ PCS và VAD, tất
cả các yêu cầu cho các khả năng này được chỉ ra trong một loại dịch vụ độc lập. Những
khả năng của AIN 0.2 sẽ bao gồm sau đây:
12
- Giao diện SSP-IP nền tảng ISDN
- Những trigơ không trả lời và bận
- Xử lý những danh sách sự kiện tiếp theo
- Lộ trình mặc định
Những chức năng bổ xung trong tất cả khu vực vận hành (kiểm tra công việc,...). Hai
khả năng AIN 0.2 sơ cấp là giao diện ISDN giữa một hệ thống chuyển mạch và một thiết
bị có năng lực - ISDN (như là một IP) và thêm vào đó những trigơ không trả lời và bận.
Xử lý những danh sách sự kiện tiếp theo là một tính năng quan trọng khác. Thêm vào trong
các TDP, AIN 0.2 bao gồm các điểm rò tìm sự kiện (EDPs). Cùng với EDPs, SCP sẽ có
khả năng gửi một danh sách đến SSP. Danh sách sự kiện tiếp theo này được sử dụng bởi
SSP thông báo cho SCP những sự kiện bao hàm trong danh sách sự kiện tiếp theo. Những
sự kiện này có thể bao gồm không câu trả lời nào, báo bận, kết thúc những tài nguyên sẵn
có, v.v...
AIN 0.2 cũng bao gồm khả năng định tuyến cố định, có nghĩa là khi những cuộc gọi
gặp tình trạng lỗi, chúng có thể giử đến một số lượng danh mục, một thông báo, v.v... trái
với việc gửi nó đến cách xử lý cuối cùng như là trong trường hợp ở AIN 0.1.
GIAO DIỆN SSP-IP AIN 0.2
Phiên bản AIN 0 và AIN 0.1 thừa nhận rằng những thông cáo là chuyển mạch cơ sở.
Với lời giới thiệu của 0.2, thông cáo có thể đặt trong một cơ sở dữ liệu bên ngoài, giống
như một IP. Nếu SCP gửi một tin nhắn gửi tài nguyên đến hệ thống chuyển mạch để IP
thực thiện một thông cáo hay dò tìm các số, hệ thống chuyển mạch kết nối khách hàng đến
IP thông qua giao diện ISDN SSP-IP. Người dùng đầu cuối trao đổi thông tin với IP. Hệ
thống chuyển mạch đẩy tới thông tin cho SCP. Một trong những khả năng của hệ thống
chuyển mạch chủ yếu ảnh hưởng hưởng lẫn nhau của những thông báo SS7 với những
thông báo ISDN (SSP-IP).
Ngoài ra, SSP có thể điều khiển các tài nguyên IP mà không có sự liên can của SCP.
VAD là một ví dụ. Một thuê bao VAD có thể được kết nối đến những khả năng giọng nói
được nhận diện IP trong lúc nhấc máy. Thuê bao VAD nói “gọi mẹ”, và IP trả lại số điện
thoại của mẹ cho hệ thống chuyển mạch. Hệ thống chuyển mạch nhận diện số của mẹ
trong khi nếu thuê bao đã thực sự quay số.
9. Ví dụ về tạo dịch vụ AIN
Những môđun trước đây hướng vào kiến trúc và lý thuyết của AIN. Bộ phận này bàn
luận về những khía cạnh khác nhau của sự tạo thành dịch vụ - đó là công cụ để xây dựng
hình tượng lưu lượng cuộc gọi của mỗi khách hàng riêng lẻ. Nhiều nhà cung cấp phần
mềm AIN có từng cặp phần mềm tạo thành dịch vụ với phần mềm đồ họa máy tính cao cấp
để loại trừ thứ cần thiết cho những phương pháp lập trình theo truyền thống. Thông qua
việc sử dụng phần mềm điều khiển theo menu, những dịch vụ được tạo thành bằng cách
nhiều tham số dịch vụ được nhập vào.
Hình 12 là một ví dụ về phương pháp khối làm sẵn để xây dựng, tạo thành những
dịch vụ AIN. Thực hiện thông cáo, tập hợp số, định tuyến cuộc gọi, và thông dịch số
13
những hợp nhất được thể hiện ở đây. SSP có khả năng thực hiện thông báo và tập hợp
những số, như là IP. Định tuyến cuộc gọi là một chức năng của SSP, và thông dịch số là
một khả năng của SCP. Bởi việc sắp xếp 4 khả năng hay những khối hợp nhất này trong
nhiều sự kết hợp, những dịch vụ như dịch vụ 800 với tương tác quay số, thử nghiệm cuộc
gọi đi, và số cuộc gọi khu vực có thể được tạo ra.
SSP hay IP SSP SCP
Thực hiện Tập hợp Đinh hướng
Truyền số
thông báo số cuộc gọi
Dịch vụ 800 cùng sự Hiển thị cuộc Gọi số khu
quay số tương tác gọi đi vực
Thực hiện Truyền số
Truyền số
thông báo
Thực hiện Tập hợp
thông báo số Đinh tuyến
cuộc gọi
Tập hợp
số Đinh tuyến
cuộc gọio
Đinh tuyến
cuộc gọio
Hình 12: Ví dụ về dịch vụ AIN: Phương pháp khối làm sẵn để xây dựng
Hình 13 mô tả những thứ trông giống như một khung mẫu tạo thành dịch vụ. Cho
một dịch vụ thử nghiệm cuộc gọi đi, dịch vụ bắt đầu với số điện thoại của khách hàng. Ví
dụ này cho phép khách hàng thử nghiệm 900 số, trong khi vẫn có khả năng không quan
tâm đến 900 thử nghiệm bằng cách đăng nhập một mã PIN. Ngoại trừ 703-974-1234, tất cả
những cuộc gọi không 900 được xử lý mà không thử nghiệm.
7039748072 AIN
Dịch vụ hiển thị
cuộc gọi đi Quay số
900 7039743458 Khác
Hỏi PIN Kết thúc Sóngmang
Kết quả Khác Định tuyến
4755 Kết thúc
Sóngmang
Định tuyến
Hình 13: Ví dụ về dịch vụ AIN: Khung mẫu đưa ra dịch vụ
14
STP
SCP
Hệ thống Hệ thống
chuyển mạch chuyển mạch
Quay số
21111
Khu vực 1 Khu vực 2
Chuông
kêu!!!
1111 2222 3333 1111 2222 3333
Hình 14: Ví dụ về dịch vụ AIN: Dịch vụ quay số mở rộng
Một dịch vụ quay số 4 số mở rộng được hiển thị trong Hình 14, cho phép quay số tắt
bên ngoài ranh tổng đài nội bộ. Nếu một nhân viên ở vị trí 1 muốn gọi một nhân viên ở vị
trí 2 bằng cách quay số số mở rộng 111, 2111 sẽ được quay số. Mặc dù 211 không phải là
số mà một hệ thống chuyển mạch có thể sử dụng để định tuyến cuộc gọi, một trigơ tùy
biến quay số theo yêu cầu của khách hàng bị bắt gặp sau khi 2111 được quay và một câu
hỏi được gửi cho SCP. Phương thức thực hiện dịch vụ tại SCP sử dụng dụng số 2111 để
xác định số điện thoại thực tế của người được gọi.
Hình 15 mô tả dịch vụ khôi phục sau thảm họa, cho phép các doanh nghiệp có phải
định tuyến cuộc gọi đến một hoặc nhiều hơn những vị trí luân phiên dựa trên phương thức
thực hiện dịch vụ khách hàng tại SCP. Những cuộc gọi đến vào trong hệ thống chuyển
mạch được phục vụ bình thường. Sau khi xuất phát, truyền thông với SCP xuất hiện. Dựa
trên phương thức thực hiện dịch vụ, cuộc gọi có thể là sự định tuyến đến vị trí doanh
nghiệp bình thường hay đến một hoặc nhiều hơn vị trí doang nghiệp luân phiên.
STP
SCP
Những cuộc
gọi đến Hệ thống Hệ thống
chuyển mạch chuyển mạch
Khu vực thương Khu vực thương
mại thông thường mại xen kẽ
Hình 15: Dịch vụ khôi phục sau thảm họa
15
Dịch vụ cuộc gọi số khu vực (ANC) được thể hiện trên hình 16. Dịch vụ này hữu ích
cho các doanh nghiệp và các công ty mà muốn quảng cáo số điện thoại những muốn những
cuộc gọi của khách hàng của họ được định hướng đến vị trí doanh nghiệp gần nhất và
thuận tiện nhất. Phương thức thực hiện dịch vụ SCP (chẳng hạn như chỉ số bưu điện)
được sử dụng để thực hiện một sự tương xứng nhau giữa số điện thoại của bên gọi và vị trí
địa lý. Cuộc gọi được định hướng đến vị trí của công ty hoặc doanh nghiệp đó mà gần nhất
hoặc thuận tiện nhất cho bên gọi.
STP
SCP
Những cuộc
gọi đến Hệ thống Hệ thống
chuyển mạch chuyển mạch
Khu vực công ty 1 Khu vực công ty 2
Hình 16: Dịch vụ cuộc gọi số khu vực
Hình 17 hiển thị một dịch vụ không quấy rầy. Có một dịch vụ trong đó gia đình ông
An đã có phương thức thực hiện dịch vụ hiển thị kết quả ở SCP. Mỗi khi người nào đó gọi
họ, phương thức thực hiện dịch vụ xác định liệu có phải cuộc gọi đã được định tuyến đến
điện thoại của gia đình An hay một thông báo cần phải được thực thi. Trong trường hợp
đặc biệt này, một hình thức tiếp thị qua điện thoại gọi gia đình An. SCP thông tin cho hệ
thống chuyển mạch để định tuyến hình thức tiếp thị qua điện thoại đến một thông cáo.
SCP
STP
2 3 Người chào
hàng qua
Quay số
555-3333
1
Hệ thống Hệ thống
chuyển mạch chuyển mạch
4
Gia đình
Smith “Người ban đang thử liên
555-3333 lạc hiện không có mặt.
Xin vui lòng gọi lại sau.
Hình 17: Dịch vụ không quấy rầy
16
Phương thức thực hiện dịch vụ SCP của khách hàng cũng có thể chứa đựng một danh
sách các số mà chúng muốn có suốt trong khi không quấy rầy được khích hoạt, nếu SCP
tìm thấy một sự khớp nhau giữa số bên gọi và một số trong danh sách, cuộc gọi được định
hướng đến gia đình Smith.
10. Những dịch vụ AIN khác
Danh sách sau đây mô tả các dịch vụ được phát triển sử dụng công nghệ AIN/IN
được liệt kê dưới đây :
Dịch vụ truy nhập N11 - Với dịch vụ này, một mã duy nhất được sử dụng để truy
nhập một cổng dịch vụ đến các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISPs), giống như các thư
viện hay các tờ báo. Thuê bao có thể chọn trước một ISP cho việc định tuyến tự động hoặc
yêu cầu ngăn gọi tới ISP.
Định tuyến cơ bản - Chức năng định tuyến cơ bản cho phép thuê bao định tuyến
các cuộc gọi đến một nơi đến đơn giản như được định nghĩa trong hệ thống.
Dịch vụ số đơn giản - Định tuyến bởi dịch vụ số đơn giản cho phép những cuộc gọi
có những cách xử lý những cuộc gọi khác nhau dựa trên vùng địa lý bắt đầu và nhận diện
bên gọi.
Định tuyến theo ngày trong tuần - Định tuyến theo chức năng ngày trong tuần cho
phép thuê bao áp dụng các định tuyến cuộc gọi có thể biến đổi được dựa trên ngày trong
tuần mà cuộc gọi được cài đặt.
Định tuyến theo giờ trong ngày - Đinh tuyến theo chức năng giờ trong ngày cho
phép những thuê bao áp dụng các định hướng cuộc gọi có thể biến đổi được dựa trên thời
gian trong ngày mà cuộc gọi được thực hiện.
Định tuyến lựa chọn - Dịch vụ này là bị ràng buộc bởi tính năng cuộc gọi chuyển
tiếp tổng quát được cung cấp như một tính năng chuyển mạch cơ bản. Với AIN, khi một
cuộc gọi đến một khách hàng định tuyến tùy chọn được chuyển, SCP xác định nơi đến để
định tuyến cuộc gọi chuyển tiếp dựa trên số của người gọi.
Bộ phân phối cuộc gọi - tính năng dịch vụ bộ phân phối cho phép thuê bao chỉ rõ
phần trăm của những cuộc gọi được phân bố ngẫu nhiên lến đến 5 cách xử lý điều khiển
cuộc gọi luân phiên.
Đích luân phiên trạng thái bận (ADOB) - Tính năng dịch vụ ADOB cho phép thuê
bao chỉ rõ trình tự đích đến các cuộc gọi này sẽ được định tuyến nếu đích đầu tiên bận.
Lệnh định tuyến - Một thuê bao xác định trước một tập hợp các cách xử lý cuộc gọi
luân phiên để điều khiển đường truyền trong trường hợp khẩn cấp, bất ngờ hay lường trước
được nhu cầu tối đa, hay vì các lý do khác, bảo đảm chất lượng cuộc gọi luân phiên.
Cổng gọi - Đây là một dịch vụ trình diễn cuộc gọi bên ngoài linh hoạt. Cổng gọi hỗ
trợ một số nhận dạng cá nhân (PIN) và trình diễn dựa trên thời gian trong ngày và ngày
trong tuần.
17
Truy nhập cá nhân - Truy nhập cá nhân là một kiểu dịch vụ theo tôi “follow me”.
Một số điện thoại ảo được gán cho thuê bao truy nhập cá nhân. Khi một người gọi quay số
này, phần mềm xác định như thế nào đó để định tuyến cuộc gọi.
Người gọi thanh toán - Người gọi thanh toán là một dịch vụ đề nghị cho những
khách hàng mạng tế bào. Nó thông báo cho người gọi, chúng đang cố gắng đạt đến một số
tế bào. Nếu lựa chọn và hoàn thành cuộc gọi bên bị gọi sẽ chịu cước kết nối. Nếu quyết
định không chịu chi phí, cuộc gọi có thể được kết thúc hoặc định tuyến đến hộp thư thoại
của bên bị gọi.
Truy nhập từ xa đến cuộc gọi chuyển tiếp (Siêu chuyển tiếp) - Dịch vụ Siêu
chuyển tiếp cho phép truy nhập từ xa đến cuộc gọi chuyển tiếp. Những người gọi có thể,
từ một vị trí nào đó trên thế giới, cuộc gọi ở mức nhỏ và kích hoạt và/hoặc thay đổi số cuộc
gọi chuyển tiếp của họ.
Dịch vụ số di động (PNS) - Các đặc tính của PNS tăng cường chuyển tiếp cuộc gọi
cho những thuê bao doang nghiệp lớn. Nó cung cấp những thuê bao với khả năng duy trì
hành trình cá nhân mà bao gồm các kế hoạch thời gian trong ngày, ngày trong tuần
(TOD/DOW), các kế hoạch tìm kiếm cuộc gọi, và thông tin định tuyến cuộc gọi. Các thuê
bao PNS cũng có các khả năng không để ý đến các kế hoạch của họ với những chỉ dẫn lộ
trình mặc định. Dịch vụ này được dùng cho các công ty với những nhân viên mà trong
môi trường di động cao đòi hỏi tính sẵn sàng tức thời.
Dịch vụ 800 tăng cường (Điện thoại miễn phí) - Một cuộc gọi của khách hàng đến
một thuê bao 800 có thể được định tuyến đến các đích khác nhau, các trường hợp của định
tuyến bao gồm vị trí địa lý của người gọi, thời gian và ngày cuộc gọi thực hiện, và những
câu trả lời của người gọi để nhắc nhở. Thuê bao thiết lập thông số định tuyến luân phiên
cho cuộc gọi nếu đích đến bận hay không dùng được, do đó gửi một lần nữa để hoàn thành
cuộc gọi.
Dịch vụ cuộc gọi số đông (MCS) - MCS là một dịch vụ cung cấp thông tin và kiểm
soát vòng mà cho phép cuộc gọi đồng thời xảy ra bởi một số lượng lớn người gọi đến một
hoặc nhiều số điện thoại. MSC cung cấp đa dạng những dịch vụ thông cáo có liên hệ với
nhau để kết nối một số lượng lớn người gọi (người quay một số được biết công khai) để
ghi lại các phương pháp thông cáo. Hai kiểu được đưa ra là những thông cáo đại chúng,
như là thời gian và thời tiết, và bầu cử từ xa, nó cho phép những người gọi đến những danh
sách quan điểm của họ trên một chủ đề của tầm quan trọng chung.
Sự lựa chọn định tuyến tự động/định tuyến chi phí nhỏ nhất - Với dịch vụ này,
những thuê bao thiết kế một lộ trình ưu tiên cho mọi số điện thoại được quay. Hệ thống
hoặc định hướng cuộc gọi hoặc ngăn chặn cuộc gọi đến để hạn chế những người sử dụng
đặc lợi.
Công việc tại nhà - Dịch vụ này cho phép một cá nhân đạt được ở nhà bằng cách
quay một số ở cơ quan, cũng như cho phép nhân viên quay một mã truy nhập từ nhà, thực
hiện những cuộc gọi khoảng cách xa, và có chúng tính toán hóa đơn và kiểm tra đến một
số điện thoại của doanh nghiệp.
18
Dịch vụ người ở chung trong tù - Dịch vụ này định tuyến những cuộc gọi của tù
nhân, kiểm tra thông tin cuộc gọi, và đưa ra những tính năng điều khiển cuộc gọi như là
nhắc nhở các số nhận dạng cá nhân, chặn những số được gọi nhất định và hạn chế thời gian
và ngày.
Phòng hội đồng - Các thành viên của công ty vận tải sử dụng dịch vụ này để nói
cho các gia đình và những đồng nghiệp trong doanh nghiệp về sự chậm trễ và hủy bỏ
chuyến đi.
Nhắc nhở cuộc gọi - Đặc tính dịch vụ nhắc nhở cuộc gọi cho phép một thuê bao
cung cấp một thông cáo để yêu cầu người gọi nhập và số hay một dãy số thông qua một
máy điện thoại đa tần âm đôi (DTMF). Các số này cung cấp thông tin mà được sử dụng để
hướng dẫn định hướng hay như là kiểm tra bảo mật trong khi cuộc gọi đang xử lý.
Đếm cuộc gọi - Đặc tính dịch vụ đếm cuộc gọi thêm một bộ đếm trong ứng dụng
đếm televoting (TV) khi một cuộc gọi được làm cho một số TV. Quá trình đếm được quản
lý trong SCP, nó có thể tích lũy và gửi kết quả trong suột một thời hạn thời gian đặc biệt.
Dịch vụ truy nhập 500 - Dịch vụ định tuyến này cho phép các nhà cung cấp dịch vụ
thông tin cá nhân (PCS) có khả năng định tuyến các cuộc gọi đến những thuê bao mà sử
dụng một số 500 ảo.
Dịch vụ mở rộng PBX - Dịch vụ này cung cấp một con đường đơn giản để người
dùng được phép truy nhập đến mạng Internet.
Dịch vụ hiệu lực quảng cáo - Dịch này tập hợp thông tin trên cuộc gọi đến (ví dụ
như ANI, thời gian, và ngày). Thông tin này có ích đối với những người làm quảng cáo để
xác định nhân khẩu học của những khách hàng của họ.
Dịch vụ mua bán ngoại tệ ảo - sử dụng mạng chuyển mạch công cộng để cung cấp
các dịch vụ tương tự như là dịch vụ mua bán ngoại tệ có dây.
Tự động hóa tên và địa chỉ khách hàng (ACNA) - ACNA cho phép các khách
hàng hạn chế đường dây của họ từ quyền được truy nhập bởi dịch vụ.
Hóa đơn công việc ở nhà - Một cá nhân người mà đang làm việc ở nhà quay mã
truy nhập đặc trưng 4 số, nó nhắc nhở hệ thống để kiểm tra và ghi lại thông tin hóa đơn về
những cuộc gọi. Các cuộc gọi được kiểm tra trong loại này được tính hóa đơn trực tiếp đến
công ty hơn là đến cá nhân.
Hạn chế cuộc gọi về nước - Dịch vụ này cho phép một khách hàng hạn chế những
cuộc gọi nào đó đến vị trí của thuê bao. Dịch vụ này linh hoạt đủ để hạn chế những cuộc
gọi bởi mã số điện thoại của vùng, NNX, hoặc những số điện thoại đặc biệt. Các hạn chế
thậm chí có thể chỉ ra được ngày trong tuần hay giời trong ngày.
Hạn chế cuộc gọi đi ra nước ngoài - Dịch vụ này cho phép một khách hàng hạn chế
những cuộc gọi nào đó được hoàn thành từ vị trí của thuê bao. Dịch vụ này linh hoạt đủ để
hạn chế những cuộcg gọi bởi mã số điện thoại của vùng, NNX, hoặc những số điện thoại
đặc biệt. Các hạn chế thậm chí có thể chỉ ra được ngày trong tuần hay giời trong ngày.
Đương dây nóng linh hoạt - Dịch vụ này cho phép một khách hàng nhấc ống nghe
điện thoại và tự động kết nối đến một thương gia mà không quay bất kỳ một số nào.
19
Danh sách các dịch vụ này chỉ là một ví dụ tiềm tàng mà công nghệ IN cung cấp cho
nền công nghiệp. Mọi người làm lợi!
1. Nhà cung cấp mạng sử dụng lại
2. Nhà cung cấp dịch vụ cung cấp những dịch vụ đến chợ nhanh hơn.
3. Khách hàng tùy biến những dịch vụ của họ để đáp ứng những thứ họ cần.
CÁC THUẬT NGỮ
AIN - Advance Intelligent Network - Mạng thông minh tiên tiến
AMP - AIN Maintenance Parameter - Thông số bảo trì AIN
API - Application Programming Interface - Giao diện lập trình ứng dụng
ASE - Application Service Elements - Các phần tử dịch vụ ứng dụng
BCSM - Basic Call State Model - Mô hình trạng thái cuộc gọi cơ sở
BRI - Basic Rate Interface - Giao diện tốc độ cơ sở
BSTP – Broadband Signalling Transfer Point - Điểm truyền giao báo hiệu băng rộng
CCM - Call Control Module - Môđun điều khiển cuộc gọi
CFM - Call Failure Message - Thông báo cuộc gọi bị lỗi
CSM - Call Segment Model - Mô hình phân đoạn cuộc gọi
DAA - Directory Assistance Automation - Tự động hỗ trợ thư mục
DAP - Data Access Point - Điểm truy nhập dữ liệu
DCN - Data Communications network - Mạng truyền thông dữ liệu
DP - Detection Point - Điểm dò tìm
EDP - Event Detection Point - Điểm dò tìm sự kiện
EML - Element Management Layer - Lớp điều hành phần tử
ETC - Event Trapping Capability - Khả năng bẫy sự kiện
FE - Function Entity - Thực thể chức năng
GDI - Generic Data Interface - Giao diện dữ liệu chung
IF - Information Flow - Dòng thông tin
IN - Intelligent network - Mạng thông minh
INAP - Intelligent Network Application Protocol -Giao thức ứng dụng mạng thông minh
IN/1 - Intelligent Network - Mang thông minh 1
IP - Intelligent Peripheral - Ngoại vi thông minh
IPC – Intelligent Peripheral Controller - Bộ điều khiển ngoại vi thông minh
IPI - Intelligent Peripheral Interface - Giao diện thiết bị ngoại vi thông minh
20