logo

Luận văn tốt nghiệp “Toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam khi thâm nhập thị trường lao động Quốc tế”

Thế giới đang chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hoà bình, hợp tác, phát triển. Quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng tất yếu của thời đại. Các quốc gia dân tộc qua đó có thể giải quyết những vấn đề chung để cùng phát triển. Tuy nhiên ta cũng nhận ra mặt trái của nó khi một thế giới bao gồm đa dạng các quốc gia dân tộc, với sự phức tạp, muôn màu của các nền kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội đang cũng tham gia vào quá trình này....
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: Toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam khi thâm nhập thị trường lao động Quốc tế. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Nguyệt Lớp: A2CN8 Giáo viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thị Mai Khanh Hà Nội, tháng 5 năm 2003 LỜI MỞ ĐẦU Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. Thế giới đang chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hoà bình, hợp tác, phát triển. Quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng tất yếu của thời đại. Các quốc gia dân tộc qua đó có thể giải quyết những vấn đề chung để cùng phát triển. Tuy nhiên ta cũng nhận ra mặt trái của nó khi một thế giới bao gồm đa dạng các quốc gia dân tộc, với sự phức tạp, muôn màu của các nền kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội đang cũng tham gia vào quá trình này. Trước xu hướng chung của thế giới, quá trình toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở nước ta, là một trong những nhân tố để cơ cấu lại và hiện đại hoá nền kinh tế phát triển nguồn nhân lực, làm tăng năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người lao động. Về cơ bản nước ta có nền chính trị-xã hội ổn định, được coi là một trong những nơi an toàn cho đầu tư, hợp tác và giao lưu quốc tế. Tăng trưởng kinh tế đã cải thiện được tình trạng thu nhập bình quân đầu người quá thấp trước chuyển đổi kinh tế. GDP bình quân đầu người đã tăng từ 222USD năm 1991 lên 410USD năm 2000. Và thực tiễn cho thấy, xu thế toàn cầu hoá không những tác động đến toàn bộ nền kinh tế, mà còn tác động lớn đến các vấn đề về lao động. Các nhân tố của toàn cầu hoá đã tác động đến mở rộng việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển thị trường thị trường lao động, tăng thu nhập của người lao động trong nhiều khu vực, ngành nghề. Năng suất lao động trong nhiều khu vực, ngành đã đạt mức cao hơn nhiều so với thời kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đặt ra những thách thức đối với vấn đề lao động, việc làm và phát triển nguồn nhân lực nước ta. Lực lượng lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ còn thấp, chất lượng đào tạo còn bất cập chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là cho các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, các loại hình dịch vụ hiện đại; tỷ lệ thất nghiệp còn cao; thu nhập của người lao động ........................................................................................................................................................................ Trang 2 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. còn thấp. Lao động Việt Nam còn phải khắc phục những bất cập theo chuẩn mực lao động của khu vực và quốc tế để có đủ điều kiện tham gia hội nhập. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội của lao động. Vì thế quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi nước ta phải vượt qua những yếu kém rất cơ bản, yêu cầu đất nước phải tích cực và chủ động nhiều hơn. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, em đã chọn đề tài “Toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam khi thâm nhập thị trường lao động Quốc tế”. Phương pháp nghiên cứu: Khoá luận chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp phân tích, thống kê so sánh, đối chiếu tổng hợp,… để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận chỉ tập trung nghiên cứu một số lĩnh vực đó là những thuận lợi và khó khăn mà với lao động Việt Nam gặp phải trong tiến trình toàn cầu hóa. Sự khảo cứu của khoá luận được tập trung vào khoảng thời gian từ 1993 đến nay và dự báo triển vọng đến năm 2010. Kết cấu của khoá luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung được chia thành 3 chương: Chương I: Khái quát về tác động của toàn cầu hoá đến lao động Việt Nam. Chương II: Thực trạng lao động Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá. Chương III: Giải pháp cho vấn đề lao động Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá. Cuối cùng, em xin bầy tỏ lòng biết ơn chân thành tới Th.S Phạm Thị Mai Khanh người đã nhiệt tình hướng dẫn em viết khoá luận tốt nghiệp này, em cũng xin gửi lời cám ơn trân trọng nhất tới các thầy cô trong khoa kinh tế ngoại thương và các thầy cô thuộc trường Đại học ngoại thương đã tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. ........................................................................................................................................................................ Trang 3 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẤU HOÁ ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG VIỆT NAM I. Khái quát chung về tác động của toàn cầu hoá I.1. Khái niệm về toàn cấu hoá. I.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến thị trường lao động thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. II. Tổng quan về tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề lớn trên thị trường lao động Việt Nam. II.1. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề việc làm II.2. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đềnguồn nhân lực. II.3. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề quan hệ lao động. II.4. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề điều kiện lao động. II.5. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề xã hội của lao động. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ. I. Thực trạng về vấn đề việc làm đối với lao động Việt Nan trong bối cảnh Toàn Cầu hoá.. I.1. FDI và vấn đề tạo ra việc làm cho người lao động. I.2. Tham gia các định chế thương mại khu vực, toàn cầu và ảnh hưởng tới việc làm: Tham gia AFTA, APEC và các hiệp định thươngmại khác. I.3. Di chuyển lao động trên thị trường lao động trong nước và quốc tế. I.3.1. Di chuyển lao động trên thị trường trong nước I.3.2. Di chuyển lao động trên thị trường quốc tế I.4. Biến động lao động và thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá I.4.1. Biến động lao động trong khu vực d.nghiệp dưới tác động của TCH. I.4.2. Vấn đề thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá. II. Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu toàn cầu hóa. ........................................................................................................................................................................ Trang 4 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. II.1. Xuất khẩu hàng hoá nhằm thúc đẩy đổi mới chất lượng nguồn nhân lực. II.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phù hợp với quá trình chuyển giao công nghệ II.3. Vai trò của doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực. II.4. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động nước ta. II.5. Những bất cập trong việc phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu Toàn cầu hoá III. Thực trạng toàn cầu hoá kinh tế tác động đến vấn đề quan hệ lao động. IV. Thực trạng về toàn cầu hoá kinh tế tác động đến điều kiện lao động. V. Thực trạng về toàn cầu hoá kinh tế tác động đến xã hội của lao động. V.1. Toàn cầu hoá kinh tế tác động đến phân hoá lao động V.2. Toàn cầu hoá kinh tế tác động đến Bảo Hiểm Xã Hội. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ. I. Giải pháp về việc làm và chống thất nghiệp. I.1. Ổn định nền kinh tế vĩ mô và đào tạo bầu không khí đầu tư lành mạnh trong toàn xã hội. I.2. Lựa chọn công nghệ ngoại nhập thích hợp. I.3. Hoàn thiện các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài. I.4. Phát triển thị trường chứng khoán thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. I.5. Phát triển hệ thống xúc tiến thương mại để phát triển xuất khẩu. I.6. Xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối phó với những khả năng tác động mạnh mẽ của việc thực hiện các quá trình tự do hoá thương mại. II. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực II.1. Đào tạo nhân lực cho khu FDI II.2. Đào tạo nhân lực cho phát triển các lĩnh vực công nghệ cao. ........................................................................................................................................................................ Trang 5 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. II.3. Đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải cách lao động ở nông thôn. II.4. Đào tạo nhân lực cho xuất khẩu lao động. II.5. Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. III. Giải pháp về chính sách lao động và giải quyết các vấn đề xã hội của LĐ III.1. Hoàn thiện chính sách lao động III.2. Chính sách giải quyết các vấn đề xã hội của lao động IV. Giải pháp về toàn cầu hoá đối với môi trường kinh doanh. IV.1. Nâng cao tính năng động và hiệu quả kinh doanh của nền kinh tế. IV.2. Tạo môi trường sản xuất kinh doanh. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................................................................................ Trang 6 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. CHƯƠNG I: TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ I.1. Khái niệm về toàn cầu hoá Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 và đầu thập kỷ 90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng trong thời điểm chuyển đổi ấy, khái niệm “toàn cầu hoá” bắt đầu hình thành và được sử dụng một cách phổ biến. Những quan hệ, liên kết vượt lên trên quốc gia, đôi khi người ta cách điệu thành “siêu quốc gia”, ấy được gọi là quá trình quốc tế hoá. Đa số bắt nguồn từ cơ sở kinh tế, nhưng cũng có những quan hệ được dựng lên bởi những tham vọng, lý tưởng chính trị không có nguồn gốc từ những cơ sở kinh tế – xã hội hiện thực. Những quốc gia dân tộc đã thực sự trưởng thành đến lúc tham dự một cách có ý thức vào một quá trình mới, hình thành hệ thống thế giới. Nó mở đường cho sự hình thành một hệ thống toàn thế giới. Về mặt khái niệm, đó là lúc khái niệm “quốc tế hoá” được thay thế bởi khái niệm “toàn cầu hoá” Toàn cầu hoá là quá trình hình thành một chính thể thống nhất toàn thế giới. Đó là sự ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế, và vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu. Toàn cầu hoá có thể được xem xét như một quá trình lịch sử tự nhiên. Roland Robertson là người đi đầu trong quan niệm này. Ông gọi nó là quá trình hội tụ thế giới trên phạm vi rộng, phân biệt với các quá trình trên ........................................................................................................................................................................ Trang 7 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. phạm vi nhỏ hơn diễn ra trong quốc gia hay địa phương. Hàm ý của R.Robertson là lịch sử toàn thế giới đi theo một tiến trình hợp nhất, thông qua việc hình thành nên những thực thể xã hội lớn dần – mà lớn nhất là thực thể toàn cầu – và ngay trong quá trình hình thành các thực thể trung gian đã hàm chứa quá trình toàn cầu hoá, dưới dạng manh nha. Ông cho rằng, tiến trình toàn cầu hoá bắt đầu ở Châu Âu đầu thế kỷ XV. Nó được mở rộng ra ngoài phạm vi Châu Âu từ giữa thế kỷ XVIII. Robertson phân quá trình này thành hai giai đoạn: từ 1750 đến 1870 là giai đoạn “toàn cầu hoá phôi thai”, còn từ 1870 đến những năm 1920 như là giai đoạn thiết yếu của sự “cất cánh” đưa đến sự thiết lập một xã hội toàn cầu. Hai giai đoạn này được xác định với một hỗn hợp của những sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá và công nghệ. Từ cách tiếp cận xã hội học tôn giáo, Robertson vẫn có được một cái nhìn khá biện chứng về quá trình toàn cầu hoá. Ông không coi nó là quá trình đồng nhất toàn cầu, mà là sự thâm nhập lẫn nhau giữa cái toàn cầu (the global) và cái địa phương (the local). Trong kinh doanh, nó thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu đáp ứng nhu cầu sản phẩm và thị trường của địa phương theo từng hoàn cảnh cụ thể, tương thích với sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái niệm “glocalization” hay “local globalization” (toàn cầu hoá có tính địa phương. Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và nhiều hơn hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Đó chính là phương thức để giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển của sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối với những yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, nhân công và hàng hoá nhằm tối ưu hoá việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm vi toàn cầu. ........................................................................................................................................................................ Trang 8 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. Như vậy, toàn cầu hoá là một quá trình khách quan của xã hội loài người, cả thế giới chỉ có một quá trình toàn cầu hoá duy nhất đang trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi nước - đặt biệt là các nước đang phát triển – không thể có sự lựa chọn: tẩy chay toàn cầu hoá này hay chỉ tham gia vào toàn cầu hoá kia, hoặc chờ đợi làn sóng toàn cầu hoá mới nào đó có lợi cho mình. Việt Nam cũng không là trường hợp ngoại lệ. Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Anan đã nói “ Những người thua cuộc thực sự trong một thế giới còn rất nhiều bất bình đẳng ngày nay không phải là những người đã phải đối mặt quá nhiều với toàn cầu hoá mà là những người bị gạt ra lề của quá trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng không chỉ rõ: “Chúng ta cần cùng nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hoá các mặt tích cực và tối thiểu hoá các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là ngăn chặn sự phát triển của đói nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là nhằm đạt được một sự phát triển ổn định và bền vững”. I.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến thị trường lao động thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong xu thế toàn cầu hoá, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, nhất là tác động vào các nước đang phát triển, hai xu thế tưởng chừng như trái ngược nhau đang diễn ra đồng thời , đó là vừa thúc đẩy sự di chuyển lao động, vừa hạn chế dòng di chuyển này. Một mặt, nhu cầu của thị trường lao động ở nhiều nước phát triển và các nước khan hiếm lao động đã tạo ra một dòng chảy lao động tới những nước này từ những nước đang phát triển và dư thừa lao động. Mặt khác, sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia thông qua ........................................................................................................................................................................ Trang 9 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. FDI vào các nước đang phát triển đã trở thành yếu tố có tác dụng giữ lao động tại chỗ, hạn chế dòng di chuyển lao động quốc tế, nhưng lại thúc đẩy dòng di chuyển lao động trong nước từ nông thôn ra thành thị, từ những khu vực kém phát triển tới những địa phương phát triển hơn và tới những ngành nghề có nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn. Xét theo nghĩa rộng đây chính là những hình thức khác nhau của thị trường lao động quốc tế vì lực lượng lao động làm việc trong các công ty được quản lý tập trung theo những tiêu chuẩn nhất định, buộc người lao động phải học hỏi nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công việc giống nhau trong các chi nhánh của công ty tại các quốc gia khác nhau. Lao động tại các quốc gia đang phát triển được thu hút vào các chi nhánh công ty xuyên quốc gia. Như vậy, thực chất vẫn có sự dịch chuyển lao động nhưng không vượt qua biên giới quốc gia. Một hình thức phân công lao động quốc tế và dịch chuyển lao động vô hình nữa là trong thời đại tin học và Internet này nay, một người vẫn ngồi ở quốc gia mình mà vẫn có thể làm việc cho một công ty ở quốc gia khác thông qua mạng Internet. Như vậy, cho dù không có sự di chuyển lao động, trên thực tế lao động vẫn được quốc tế hoá, có sự phân công và ràng buộc lẫn nhau. Đây là những điểm mới của thị trường lao động quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Toàn cầu hoá, cùng với những nỗ lực cải cách đi liền với nó, đã làm tăng áp lực cạnh tranh trên các thị trường sản phẩm. Áp lực cạnh tranh gia tăng đến lượt mình sẽ làm giảm bớt mức độ định đoạt tiền lương và phân biệt đối xử với lao động nữ của những người sử dụng lao động. ........................................................................................................................................................................ Trang 10 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. Không chỉ có vậy, nhờ có thương mại hàng hoá và dịch vụ, nhờ sự chu chuyển về vốn và các luồng di chuyển trên thị trường, thu nhập từ lao động trong xu hướng dài hạn ở các nước đang phát triển ngày một tăng. Tác động tích cực của toàn cầu hoá đến tiền lương trước hết được chỉ ra trong mối liên hệ chặt chẽ giữa tiền lương và năng suất ở trong một quốc gia. Nhìn chung các nhà kinh tế thừa nhận: Năng suất lao động tăng nhanh hơn ở những nền kinh tế mở hơn, trong khi đến 90% sự khác biệt về tiền lương được giải thích bởi sự khác biệt về năng suất lao động. Với chừng mực nhất định, sự di chuyển các luồng vốn quốc tế có thể làm cho khủng hoảng tài chính dễ xảy ra hơn, những mất mát về thu nhập do toàn cầu hoá gây nên có thể lớn hơn rất nhiều so với những gì mà thương mại quốc tế mang lại. Khủng hoàng tài chính nổ ra làm giảm mức thu nhập từ lao động là do các luồng vốn đã ngày càng tự do di chuyển , trong khi lao động thì không như vậy. Do vậy, đồng thời với việc “làm thông thoáng” thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần quản lý kinh tế vĩ mô tốt và thực thi những chính sách tài chính có hiệu quả. Trong khi tác động ngắn hạn của tự do hoá thương mại đến tiền lương có thể là tiêu cực, thì tích cực ngắn hạn của đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là tích cực. Do vậy, mở cửa nền kinh tế, tự do di chuyển lao động mà không thu hút được vốn đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến những mất mát lớn về tiền lương và thu nhập từ lao động. Tại Việt Nam cũng đang diễn ra những xu hướng tiền lương và dòng di chuyển lao động khác nhau. Những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, nhất là ở những khu công nghiệp và khu chế xuất và sự trả công hấp dẫn hơn đã tạo nên dòng di chuyển lao động từ vùng nông thôn ra thành ........................................................................................................................................................................ Trang 11 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển đến khu công nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp hơn đến khu có thu nhập cao hơn. Ngoài ra, dòng di chuyển lao động ra nước ngoài làm việc cũng tuân theo quy luật trên, tức là tới những nơi có cơ hội việc làm nhiều hơn và trả công cao hơn. Xét về khía cạnh kinh tế, đây là những sự dịch chuyển lao động tuân theo quy luật thị trường, làm cho nguồn lực lao động được sử dụng hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sự di chuyển lao động theo quy luật thị trường nhiều khi lại không phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Thể hiện rõ nhất là sự bất hợp lý trong việc tập trung quá nhiều lao động có trình độ đại học ở các đô thị, trong khi loại hình lao động này lại đang rất thiếu ở những vùng kinh tế khó khăn. Ngoài ra, khác với sự di chuyển của vốn và hàng hoá, di chuyển lao động là sự di chuyển con người nên bao giờ cũng phát sinh nhiều vấn đề đòi hỏi có sự can thiệp và trợ giúp hiệu quả và kịp thời của của Nhà nước. Đây là những thách thức lớn xét từ góc độ quản lý lao động. Toàn cầu hoá đang đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế. Toàn cầu hoá mở ra khả năng cho các quốc gia phát triển chậm hơn nhanh chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế – xã hội có hiệu quả hơn, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại hoá. Xu hướng phân công lao động quốc tế đang chuyển từ phân công theo chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang , với nội dung của nó là phân công theo bộ phận cấu thành sản phẩm. Các cơ sở sản xuất ở khắp các nơi trên thế giới tham gia vào sản xuất các bộ phận, chi tiết, linh kiện theo một quy chuẩn rồi ráp nối với nhau thành sản phẩm hoàn chỉnh. Về lâu dài, với hình thức phân công này, Việt Nam có thể tham gia vào công đoạn nào đó của quá trình phân công lao động quốc tế ........................................................................................................................................................................ Trang 12 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. mà đẩy nhanh tiến trình điều chỉnh kết cấu ngành của nền kinh tế quốc gia như một số quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các “con rồng, con hổ” đã và đang áp dụng. Về chiến lược phát triển nguồn nhân lực, các nước phát triển thường tập trung vào những ngành kỹ thuật cao, có tỷ trọng công nghệ cao và vốn cao hơn trong khi các nước đang phát triển lại tập trung nhiều vào những ngành sử dụng nhiều lao động. Điều đó cũng phản ánh một bức tranh chung về phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển đan xen hiện nay, một mặt ta tiếp tục phát triển những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, mặt khác vẫn có thể đầu tư phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho những ngành công nghệ cao để đa dạnh hoá cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực không thể cách ly, mà luôn phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, vừa có tác dụng phục vụ, vừa có tác dụng thúc đẩy chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý và phát triển nguồn nhân lực trong tiến trình toàn cầu hoá. Mặc dù toàn cầu hoá đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, với nguy cơ về sự không ổn định và gạt ra bên lề một số nước, kinh nghiệm hiện tại cho thấy toàn cầu hoá mở ra những triển vọng mới cho hội nhập của các nước đang phát triển vào nền kinh tế thế giới. Những cơ hội Toàn cầu hoá đang mở ra những cơ hội chưa từng có cho các nước trên thế giới. Nhờ những tiến bộ của công nghệ thông tin và viễn thông mà chi phí giao dịch giảm đi rất nhiều, khoảng cách về không gian và thời gian giữa ........................................................................................................................................................................ Trang 13 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. các quốc gia được thu hẹp, tốc độ và điều kiện tiếp cận với tri thức mới được tăng lên. Toàn cầu hoá làm tăng thêm tính tự chủ của các tác nhân tham gia quá trình này vì làm tăng cơ hội lựa chọn của họ, Toàn cầu hoá có lợi cho việc thúc đẩy các nhân tố kinh tế như tiền tệ, kỹ thuật, tri thức, phân bổ hợp lý hoá các nguồn lực, mở rộng hoạt động thương mại, nâng cao hiệu quả kinh tế, gắn chặt mối liên kết kinh tế , kỹ thuật giữa các nước và khu vực. Thị trường thế giới đã trở thành một nguồn công nghệ và vốn vô cùng lớn lao mà các nước đều có cơ hội để khai thác. Tri thức của loài người và thông tin toàn cầu được phổ biến rộng rãi mà mọi người đều có cơ hội tiếp cận. Đối với nước ta, toàn cầu hoá tạo cơ hội thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu các công nghệ mới để thúc đẩy phát triển kinh tế. Toàn cầu hoá thúc đẩy phát triển thương mại và tạo điều kiện cho nước ta tham gia sâu rộng hơn vào phân công lao động quốc tế nhằm phát huy tốt hơn lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế. Như vậy, với những điều kiện phù hợp, toàn cầu hoá có thể đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và mở ra con đường phát triển lâu dài bền vững tiến kịp các nước đi trước. Những thách thức Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh rằng, cơ hội, xét về ý nghĩa thực tiễn chỉ là tiềm năng. Bản thân các cơ hội không mang lại các giá trị cụ thể. Các cơ hội có thể trở thành hiện thực khi và chỉ khi các điều kiện cần thiết để thực hiện đã được hội đủ. ........................................................................................................................................................................ Trang 14 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá cũng có nghĩa là nước ta cần phải tuân thủ hàng loạt các yêu cầu để hôị nhập, từ các luật lệ về bản quyền đến các tiêu chuẩn về ngân hàng. Trong khi đó , rất nhiều chuẩn mực, quy tắc quốc tế được soạn thảo trong tình hình các nước phát triển giữ vai trò chính. Như vậy, đối với các nước có trình độ phát triển thấp như nước ta, rủi ro trong vận hành kinh tế sẽ gia tăng. Toàn cầu hoá kinh tế đưa đến nhiều cơ hội lập nghiệp, nhiều cơ hội việc làm, nhưng kèm theo là đổi mới kỹ thuật nhanh hơn , vòng quay tuổi thọ ngắn hơn, vốn lưu thông linh hoạt hơn, sự cạnh tranh nhân lực sâu sắc hơn và tính rủi ro trong việc làm cũng cao hơn. Những thách thức lớn nhất đối với nước ta hiện nay và trong tương lai là làm thế nào để vượt qua được những yếu kém của nền kinh tế và sự tụt hậu của nguồn nhân lực như: Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của từng loại hàng hoá, dịch vụ nói riêng còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới và về chất lượng, giá cả, mẫu mã...; Cơ sở hạ tầng (đướng sá, bến cảng, giao thông, thông tin liên lạc, điện nước...) kém phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế; Trình độ công nghệ của các ngành kinh tế rất lạc hậu (đi sau các nước trong khu vực từ 3-5 thế hệ). Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh còn ở mức rất thấp; ........................................................................................................................................................................ Trang 15 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. Các thể chế kinh tế thị trường chưa được thiết lập và phát triển đồng bộ; Chất lượng nguồn nhân lực còn bất cập. Ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, những phẩm chất khác như ý thức chấp hành kỷ luật lao động và kỷ luật công nghệ, khả năng ngoại ngữ, tình trạng sức khoẻ... cũng đáng lo ngại; Cơ sở vật chất của hệ thống đào tạo, dạy nghề nước ta lạc hậu so với trình độ chung của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi khả năng đầu tư cho đào tạo, dạy nghề còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực. Xu hướng thương mại hoá giáo dục, đào tạo cản trở yêu cầu tăng cường giáo dục và đào tạo cho người lao động tại các vùng chậm phát triển và cho người nghèo . II. Tổng quan tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề lớn trên thị trường lao động việt nam. Đối với Việt Nam trong gần hai thập kỷ qua, nhiều thay đổi đã và đang diễn ra dưới những tác động kép. Thứ nhất, đó là những thay đổi do quá trình đổi mới mà Đảng và nhân dân ta chủ động khởi xướng và thực hiện mang lại. Thứ hai là tác động của xu hướng toàn cầu hoá. Đường lối đổi mới của Việt nam được thực hiện trong bối cảnh trên thế giới đang diễn ra xu hướng toàn cầu hoá và yếu tố toàn cầu hoá được tính đến trong quá trình triển khai đường lối đổi mới. Bởi vậy, chúng ta cần đánh giá, dự báo đúng những thay đổi đã và có thể diễn ra dưới những tác động của những ........................................................................................................................................................................ Trang 16 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. yếu tố nội tại trong đường lối đổi mới và những tác động từ bên ngoài của xu hướng toàn cầu hoá. Nói cách khác, chúng ta cần đánh giá đúng mức độ và phạm vi tác động của toàn cầu hoá đổi với những thay đổi của Việt Nam để có những đối sách thích hợp. Trong lĩnh vực lao động – việc làm và các vấn đề xã hội, có thể khái quát một số tác động của toàn cầu hoá như sau: II.1. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề việc làm Về tổng thể trên phạm vi toàn cầu, quá trình toàn cầu hoá làm tăng lưu lượng giao dịch trên cả 3 thị trường là thị trường hàng hoá-dịch vụ, thị trường tài chính và thị trường lao động. Đối với thị trường lao động thế giới, tổng cầu về lao động, tức số việc làm mới được tạo ra nhiều hơn, nhưng đi kèm theo đó sẽ là sự dư thừa lao động cục bộ, tức thất nghiệp do sự cạnh tranh và sự phân bổ lại các nguồn lực dưới tác động điều chỉnh của thị trường toàn cầu. Như vậy, sự gia tăng của tổng cầu về lao động và suy giảm cục bộ về lao động chính là hai yếu tố mang đến thời cơ và thách thức cho mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp trong quá trình toàn cầu hoá. Trong khi toàn cầu hoá vừa làm mất đi việc làm vừa tạo ra việc làm mới, hai quá trình này không diễn ra đồng thời. Trong giai đoạn tự do hoá thương mại, và nói chung hơn là giai đoạn của cải cách kinh tế, tốc độ mất việc làm có thể cao hơn so với tốc độ tạo việc làm. Những nguyên nhân thường được nêu ra là: - Do phải sắp xếp lại lao động khi dỡ bỏ những rào cản thương mại, đặt biệt là trong những ngành được Nhà nước chính thức bảo hộ dựa vào nguồn lao động rẻ và chất lượng thấp. ........................................................................................................................................................................ Trang 17 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. - Song song với quá trình trên là việc thu hẹp “đặc quyền” và giảm dư thừa lao động trong doanh nghiệp Nhà nước cùng các cơ quan hành chính. Quá trình này làm tăng đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong những năm đầu của “mở cửa”. Nhưng hội nhập với thị trường thế giới, đẩy mạnh cạnh tranh, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, bãi bỏ độc quyền trong một số ngành cung cấp dịch vụ công cộng, cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã gắn liền với việc tạo ra khối lượng công ăn việc làm lớn, mở rộng thị trường lao động phi nông nghiệp và hướng mạnh vào các ngành xuất khẩu. Việc làm tạo ra dễ thấy là nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài, cụ thể nhất là trong các khu công nghiệp và khu chế xuất. Đây chính là những động lực tạo việc làm mạnh mẽ, bởi lẽ khu vực này không chỉ trực tiếp tạo việc làm mà còn tác động “lan tỏa” tạo cầu lao động mới và thu hút vào các dự án liên qua. Nhìn chung, những đánh giá dài hạn và kinh nghiệm hội nhập cho thấy trong cả quá trình, tốc độ tạo việc làm mới cao hơn nhiều so với tốc độ mất việc làm. Đối với Việt Nam, với tư cách là một nước phát triển, toàn cầu hoá có tác dụng tích cực trong việc tạo ra việc làm mới trong bốn khu vực: Thứ nhất là khu vực đầu tư nước ngoài FDI, Thứ hai là các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, thứ ba là xuất khẩu lao động, và thứ tư là tại các khu vực khác, toàn cầu hoá đã có ảnh hưởng nhất định tới kích cầu nội địa về hàng hoá-dịch vụ đã có tác dụng tăng cầu lao động, tức tạo thêm việc làm. ........................................................................................................................................................................ Trang 18 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, đầu tư nước ngoài (FDI) tạo thêm số việc làm bằng 2-3% tổng số việc làm được tạo thêm hàng năm. Tính đến năm 2002, tổng số việc làm trực tiếp do khu vực FDI tạo ra là khoảng 420 ngàn chỗ làm việc, chưa kể số việc làm được tạo ra gián tiếp từ FDI. Hàng triệu lao động được thu hút vào những ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó có những ngành có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, trồng các loại cây nông nghiệp và công nghiệp như lúa, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, cao su, cây ăn quả.... Về xuất khẩu lao động, hiện nay có khoảng 330 ngàn người Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng xuất khẩu lao động. Tính trung bình, hàng năm lượng tiền do số người Việt Nam làm việc theo những hợp đồng lao động hợp pháp ở nước ngoài gửi về vượt con số 1,3 tỷ USD. Ngoài ra, còn phải kể đến hàng chục ngàn lao động bằng cách này cách khác đã tìm được cách ra nước ngoài làm ăn sinh sống, phần lớn ở các nước Đông Âu và các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, và trong thời gian gần đây là sang Trung Quốc và Căm Pu Chia. Trong số này có những người làm ăn nghiêm túc, có những đóng góp cho kinh tế của nước sở tại và tạo thu nhập cho bản thân và gia đình. Bên cạnh đó, cũng còn những người có những hoạt động vi phạm pháp luật nước sở tại. Việc di chuyển lao động quốc tế mang tính tự phát này cũng phản ánh tác động của xu thế toàn cầu hoá. Dòng di chuyển này đang ẩn chứa trong nó cả cơ hội và nguy cơ. Một mặt, nó góp phần giải quyết việc làm, tạo cơ hội cho một bộ phận dân cư. Mặt khác nó cũng kèm theo nhiều hiện tượng xã hội phức tạp, thậm chí tội phạm. ........................................................................................................................................................................ Trang 19 Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Nguyệt A2CN8 ................................................................................................................................. Thu nhập dân cư tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong và ngoài nước đã kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cả về lượng lẫn về chất. Đây chính là yếu tố kích thích cầu của thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nước và là tác động gián tiếp của toàn cầu hoá đối với việc tạo việc làm trong nước. Trong hơn hai năm thực hiện Luật doanh nghiệp, đã có hơn 42 ngàn doanh nghiệp và hơn 300 ngàn hộ kinh doanh mới đăng ký, thu hút thêm vốn đầu tư tương đương 4 tỷ đô la Mỹ và tạo được khoảng 750 ngàn chỗ làm việc mới. Ngoài tác động tích cực trong việc tạo việc làm mới, toàn cầu hoá cũng buộc các doanh nghiệp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động. Chính sức ép này đang tạo ra những thách thức đối với vấn đề việc làm, nhất là trong khu vực kinh tế quốc doanh. Trước hết, cần khảng định chủ trương tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm làm cho khu vực kinh tế Nhà nước làm ăn có hiệu quả hơn, sử dụng hợp lý và kinh tế hơn các nguồn lực của xã hội. Quá trình sắp xếp , tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước lại diễn ra trong điều kiện toàn cầu hoá nên nhiều doanh nghiệp chịu sức ép cạnh tranh hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp từ thị trường quốc tế. Trong thời đại ngày nay, khó có thể tìm thấy một doanh nghiệp nào mà các yếu tố đầu vào hoặc đầu ra, hoặc các phần cấu thành nên yếu tố đầu vào không chịu ảnh hưởng của giá cả thị trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã bộc lộ yếu kém trong quản lý và sử dụng nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động. Để đảm bảo tính hiệu quả và sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước, một bộ phận lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước sẽ thuộc diện dôi dư. Bởi vậy, trong những năm tới, xử lý vấn đề lao ........................................................................................................................................................................ Trang 20
DMCA.com Protection Status Copyright by webtailieu.net