Luận văn tốt nghiệp "Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian gần đây – Thực trạng và giải pháp"
Trong điều kiện toàn cầu hoá và khu vực hoá của đời sống kinh tế thế giới hướng tới thế kỷ XXI, không một quốc gia nào phát triển nền kinh tế của mình mà không tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Điều đó không loại trừ đối với Việt Nam đặc biệt là trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, IX tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh...
…………..o0o…………..
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong
thời gian gần đây – Thực trạng và giải pháp
MỤC LỤC
CHƯƠNG I
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THUỶ SẢN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VIỆT NAM.
I./ TỔNG QUAN VỀ NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM.
1. Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam.
2. Vài nét về ngành thuỷ sản Việt Nam.
II./ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THUỶ SẢN TRONG NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM.
1. Ngành thuỷ sản xuất khẩu với vấn đề tăng trưởng kinh tế.
2. Ngành thuỷ sản xuất khẩu với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3. Ngành thuỷ sản xuất khẩu với vấn đề xã hội.
III./ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
ĐỐI VỚI NGÀNH THUỶ SẢN VÀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN GẦN ĐÂY.
I./ TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN THẾ GIỚI.
1. Đặc điểm thị trường thuỷ sản thế giới.
2. Tình hình nhu cầu thuỷ sản trên thị trường thế giới.
3. Buôn bán thuỷ sản thế giới.
4. Những vấn đề có liên quan đến thuỷ sản Việt Nam.
II./ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM.
1. Mạng lưới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
2. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
a. Thị trường Mỹ.
b. Thị trường Nhật Bản.
i
c. Thị trường Trung Quốc và Hồng Kông.
d. Thị trường EU.
e. Các thị trường khác.
3. Mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam.
4. Đánh giá kết quả kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản.
a. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu.
b. Hiệu quả xuất khẩu.
III./ ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1995-2002 VÀ TÁC ĐỘNG TỚI CÁC MẶT CỦA XÃ HỘI.
1. Những thành tựu đạt được.
2. Những mặt còn tồn tại.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM.
I. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT
NAM.
1. Mục tiêu
a. Mục tiêu chung.
b. Mục tiêu đến năm 2005.
c. Mục tiêu đến 2010.
2. Phương hướng xuất khẩu thuỷ sản.
II./ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THUỶ SẢN Ở
VIỆT NAM.
1. Phát triển sản xuất nguyên liệu.
2. Quy hoạch phát triển sản xuất theo nhóm sản phẩm chủ yếu gắn chặt chẽ
với chế biến và thị trường tiêu thụ.
3. Cải tiến chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thuỷ sản xuất khẩu.
ii
4. Xây dựng cơ cấu mặt hàng thuỷ sản hợp lý và đạt hiệu quả cao, xây dựng
cơ cấu đầu tư nhằm phát huy các lợi thế so sánh cảu từng địa phương và vùng
lãnh thổ.
5. Về thị trường: xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hoá thị
trường, đa dạng hoá bạn hàng; giảm dần tỷ trọng các thị trường trung gian,
tăng nhanh tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu cầu thuỷ sản lớn.
6. Một số giải pháp tài chính tín dụng khuyến khích xuất khẩu hàng thuỷ
sản
7. Đa dạng hoá các doanh ng hiệp hoạt động xuất khẩu, vận dụng linh hoạt
các phương thức mua bán quốc tế.
8. Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
9. Đầu tư.
iii
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện toàn cầu hoá và khu vực hoá của đời sống kinh tế thế giới
hướng tới thế kỷ XXI, không một quốc gia nào phát triển nền kinh tế của mình mà
không tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Điều đó không loại trừ
đối với Việt Nam đặc biệt là trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, IX tiếp tục
khẳng định đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế, thực hiện chiến lược công
nghiệp hoá hiện đại hoá (CNH_HĐH) hướng mạnh vào xuất khẩu.
Để tăng xuất khẩu thời gian tới, Việt Nam chủ trương kết hợp xuất khẩu những
mặt hàng mà đất nước có lợi thế tương đối (những mặt hàng xuất khẩu truyền thống:
hàng nông lâm thuỷ sản, khoáng sản, nhiên liêụ và hàng dệt may) và một số hàng có
hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao bao gồm ô tô, xe máy, hàng điện tử và dịch vụ
phần mềm...
Hàng thuỷ sản là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng này năm1996 đạt 670 triệu USD, đến năm 1997 đã tăng lên 776
triệu USD. Đặc biệt năm 2000 xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã có bước nhảy vọt,
vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD, đạt mức 1,479 tỷ USD và năm 2002 đạt mức 2,023 tỷ
USD chiếm hơn 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Theo tổng cục thống
kê, thuỷ sản là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ ba sau dầu thô và dệt may.
Theo dự kiến trong thời gian tới, sẽ có sự thay đổi các mặt hàng xuất khẩu chính yếu
của Việt Nam, nhưng thuỷ sản vẫn là một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn của
đất nước.
Điều đó khẳng định ngành thuỷ sản giữ một vai trò quan trọng trong cơ cấu
tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam. Ngoài ra ngành thuỷ sản còn góp phần quan
trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu ngư dân, đảm bảo an ninh
xã hội cho đất nước cũng như góp phần thoả mãn nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng
của thị trường nội địa. Và cũng giống như bất cứ một quốc gia nào, ngành thuỷ sản là
một trong những ngành kinh tế “nhạy cảm” nên vai trò của quản lý nhà nước là
không thể thiếu .
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Nhận biết được tầm quan trọng của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian
tới, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài "Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
trong thời gian gần đây – Thực trạng và giải pháp". Trong bài viết này tôi sẽ đề cập
đến một vài vấn đề chủ yếu có tính hệ thống với tầm nhìn chiến lược về tiềm năng và
triển vọng của ngành thuỷ sản Việt Nam trong tương lai cũng như định hướng và đưa
ra các giải pháp để phát triển xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, do trình độ viết của tôi còn có nhiều hạn chế cho nên đề tài sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong muốn nhận được sự góp ý, chỉ bảo
của các thầy cô và bạn bè để tôi có những tiến bộ hơn sau này.
2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG I
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THUỶ SẢN ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
Việt Nam có tiềm năng tài nguyên biển phong phú: Dầu khí, thuỷ sản, dịch
vụ hàng hải, du lịch, tài nguyên khoáng sản ven biển… đặc biệt thuỷ sản đã, đang và
sẽ có vai trò ngày càng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Khi đất nước bắt đầu thời kỳ đổi mới, các doanh nghiệp thuỷ sản không còn
được bao cấp trong khi thị trường truyền thống là các nước khối xã hội chủ nghĩa bị
mất, những yếu kém của các doanh nghiệp trong ngành càng bộc lộ rõ. Công nghệ
lạc hậu, sản phẩm chủ yếu là dạng sơ chế, xuất khẩu hầu như lệ thuộc hoàn toàn vào
thị trường Nhật….
Kinh tế thế giới ngày nay đã đạt đến sự phát triển cao dưới sự tác động mạnh
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi
xuất khẩu. Trên con đường đổi mới kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng nắm bắt được
xu thế phát triển khách quan này, từ đó nhận thức được những tiềm năng quý giá của
đất nước là yếu tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế và sớm đưa Việt Nam hoà
nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đạt được mục đích này, Đảng
và Nhà nước cùng các cơ quan hữu quan đã đề ra những chính sách, biện pháp để
thúc đẩy ngành thuỷ sản phát triển, tiếp tục giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
I./ TỔNG QUAN VỀ NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM.
1. Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam.
Việt Nam có 3260 km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên, trải qua 13 vĩ độ, từ
8o23' bắc đến 21o39' bắc. Diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải của Việt Nam rộng
226.000 km2 và vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2, rộng gấp 3 lần diện tích
đất liền.
3
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Trong vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo, trong đó có nhiều đảo lớn
như Cô Tô, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Hòn Mê, Phú Quí, Côn Đảo, Phú Quốc, v.v... có
cư dân sinh sống, là nơi có tiềm năng để phát triển du lịch đồng thời đã, đang và sẽ
được xây dựng thành một tuyến căn cứ cung cấp các dịch vụ hậu cần, trung chuyển
sản phẩm cho đội tàu khai thác hải sản, đồng thời làm nơi trú đậu cho tàu thuyền
trong mùa bão gió.
Trong vùng biển có nhiều vịnh, vụng, đầm, phá, cửa sông, chằng hạn vịnh Hạ
Long, vịnh Bái Tử Long, vịnh Cam Ranh, phá Tam Giang, v.v... và trên 400 nghìn
hécta rừng ngập mặn, là những khu vực đầy tiềm năng cho phát triển giao thông, du
lịch, đồng thời cũng rất thuận lợi cho phát triển nuôi, trồng thuỷ sản và tạo nơi trú
đậu cho tàu thuyền đánh cá.
Về mặt kỹ thuật trong lĩnh vực khai thác hải sản, người ta thường chia vùng
biển nước ta thành 4 vùng nhỏ, nhiều khi cũng ghép thành 3 vùng, đó là vùng biển
Bắc Bộ, vùng biển miền Trung và vùng Đông - Tây Nam Bộ. Vùng biển Bắc Bộ và
Đông - Tây Nam Bộ có độ sâu không lớn, độ dốc nền đáy nhỏ, trên 50% diện tích
vùng biển có độ sâu nhỏ hơn 50m. Vùng biển miền Trung có nét khác biệt lớn với
các vùng trên, mang đặc tính biển sâu, nền đáy rất dốc.
Biển Việt Nam có trên 2.000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài cá có giá trị
kinh tế. Theo những đánh giá mới nhất, trữ lượng cá biển trong toàn vùng biển là 4,2
triệu tấn, trong đó sản lượng cho phép khai thác là 1,7 triệu tấn/năm, bao gồm 850
nghìn tấn cá đáy, 700 nghìn tấn cá nổi nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi đại dương.
Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1.600 loài giáp xác,
sản lượng cho phép khai thác 50 - 60 nghìn tấn/năm, có giá trị cao là tôm biển, tôm
hùm và tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý
nghĩa kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc (cho phép khai thác 60 - 70 nghìn
tấn/năm); hằng năm có thể khai thác từ 45 đến 50 nghìn tấn rong biển có giá trị kinh
tế như rong câu, rong mơ v.v... Bên cạnh đó, còn rất nhiều loài đặc sản quí như bào
ngư, đồi mồi, chim biển và có thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai, v.v...
4
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Bị chi phối bởi đặc thù của vùng biển nhiệt đới, nguồn lợi thuỷ sản nước ta có
thành phần loài đa dạng, kích thước cá thể nhỏ, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao. Chế độ
gió mùa tạo nên sự thay đổi căn bản điều kiện hải dương học, làm cho sự phân bố
của cá cũng thay đổi rõ ràng, sống phân tán với quy mô đàn nhỏ. Tỷ lệ đàn cá nhỏ có
kích thước dưới 5 x 20m chiếm tới 82% số đàn cá, các đàn vừa (10 x 20m) chiếm
15%, các đàn lớn (20 x 50m trở lên) chỉ chiếm 0,7% và các đàn rất lớn (20 x 500m)
chỉ chiếm 0,1% tổng số đàn cá. Số đàn cá mang đặc điểm sinh thái vùng gần bờ
chiếm 68%, các đàn mang tính đại dương chỉ chiếm 32%.
Phân bố trữ lượng và khả năng khai thác cá đáy tập trung chủ yếu ở vùng biển
có độ sâu dưới 50m (56,2%), tiếp đó là vùng sâu từ 51 - 100m (23,4%). Theo số liệu
thống kê, khả năng cho phép khai thác cá biển Việt Nam bao gồm cả cá nổi và cá đáy
ở khu vực gần bờ có thể duy trì ở mức 600.000 tấn/năm. Nếu kể cả các hải sản khác,
sản lượng cho phép khai thác ổn định ở mức 700.000 tấn/năm, thấp hơn so với sản
lượng đã khai thác ở khu vực này hằng năm trong một số năm qua. Trong khi đó,
nguồn lợi vùng xa bờ còn lớn, chưa khai thác hết.
Theo vùng và theo độ sâu, nguồn lợi cá cũng khác nhau. Vùng biển Đông
Nam Bộ cho khả năng khai thác hải sản xa bờ lớn nhất, chiếm 49,7% khả năng khai
thác cả nước, tiếp đó là Vịnh Bắc Bộ (16,0%), biển miền Trung (14,3%), Tây Nam
Bộ (11,9%), các gò nổi (0,15%), cá nổi đại dương (7,1%),
2. Vài nét về ngành thuỷ sản Việt Nam.
Việc khai thác các nguồn lợi thuỷ sản để phục vụ những nhu cầu đa dạng của
con người như làm thực phẩm, đồ trang sức, thuốc chữa bệnh, ... đã có từ lâu đời
cùng với sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Tuy vậy, trải qua hàng
nghìn năm, nghề cá Việt Nam, trước hết là nghề đánh bắt cá vẫn mang nặng nét đặc
trưng của một nền sản xuất tự cấp, tự túc và chỉ đóng vai trò một nghề phụ cho dân
cư. Mãi cho đến nửa đầu của thế kỷ này, nghề cá vẫn hết sức thô sơ, lạc hậu và chưa
được xem như một ngành kinh tế.
Đến ngày 5 tháng 10 năm 1961, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ban hành Nghị định 150 CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
5
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Tổng cục Thuỷ sản. Đây là thời điểm ra đời của ngành Thuỷ sản Việt Nam như một
chính thể ngành kinh tế - kỹ thuật của đất nước, phát triển một cách toàn diện về khai
thác, nuôi trồng, hậu cần dịch vụ, chế biến, nghiên cứu khoa học và mở rộng hợp tác
quốc tế để phát triển. Cũng trong thời kỳ đó, nghề cá phía Nam được quản lý bởi Nha
Ngư nghiệp thuộc chính quyền Sài Gòn.
Từ khi thành lập cơ quan quản lý Nhà nước đầu tiên của ngành và cũng chính
là thời điểm ra đời của một ngành kinh tế - kỹ thuật mới của đất nước, đến năm 2000,
ngành Thuỷ sản đã đi qua chặng đường 40 năm xây dựng và trưởng thành. Đó là một
chặng đường dài với nhiều thăng trầm, biến động. Song đứng về góc độ tổng quan,
có thể chia thành 2 thời kỳ chính.
Thời kỳ thứ nhất, trước năm 1980, ngành Thuỷ sản Việt Nam về cơ bản vẫn là
một ngành kinh tế tự cấp, tự túc, thiên về khai thác những tiềm năng sẵn có của thiên
nhiên theo kiểu "hái, lượm" : Cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung kéo dài, tiêu thụ
theo cách giao nộp sản phẩm đã khiến chúng ta quen đánh giá thành tích theo tấn,
theo tạ, bất kể giá trị, triệt tiêu tính hàng hoá của sản phẩm. Điều đó dẫn tới sự suy
kiệt của các động lực thúc đẩy sản xuất, đưa ngành tới bờ vực suy thoái vào cuối
những năm 70.
Thời kỳ thứ hai, từ năm 1980 đến nay, được mở đầu bằng chủ trương đẩy
mạnh xuất khẩu và thử nghiệm cơ chế "Tự cân đối, tự trang trải" mà thực chất là chú
trọng nâng cao giá trị của sản phẩm làm ra nhằm tạo nguồn đầu tư để tái sản xuất mở
rộng đã tạo nguồn động lực mới cho sự phát triển. Ngành Thuỷ sản có thể coi là một
ngành tiên phong trong quá trình đổi mới, chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong quá trình đó, từ những nghề sản
xuất nhỏ bé, ngành đã có vị thế xứng đáng và đến năm 1993 đã được Đảng và Nhà
nước chính thức xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Tổng sản lượng thuỷ sản đã vượt qua ngưỡng 1 triệu tấn vào năm 1990. Đặc biệt,
nước ta đã đứng vào hàng ngũ những nước có sản lượng khai thác hải sản trên 1 triệu
tấn kể từ năm 1997. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã vượt qua mức 500 triệu đôla
năm 1995 và đến năm 2002 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2.023 tỷ USD. So với
6
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
năm 1980, đến năm 2002 tổng sản lượng tăng gấp 6 lần, còn giá trị kim ngạch xuất
khẩu tăng tới 180 lần. (Xem Bảng1.1)
Bảng 1.1: Bảng tổng kết một số chỉ tiêu của ngành thuỷ sản Việt Nam
Sản lượng Sản Giá trị Tổng số Diện tích mặt Số lao
Tổng sản khai thác lượng xuất khẩu tàu nước nuôi động
Năm lượng thủy hải sản nuôi thủy (1.000 thuyền trồng thuỷ (1.000
sản (tấn) (tấn) sản (tấn) USD) (chiếc) sản (ha) người)
1990 1.019.000 709.000 310.000 205.000 72.723 491.723 1.860
1991 1.062.1630 714.253 347.910 262.234 72.043 489.833 2.100
1992 1.097.830 746.570 351.260 305.630 83.972 577.538 2.350
1993 1.116.169 793.324 368.604 368.435 93.147 600.000 2.570
1994 1.211.496 878.474 333.022 458.200 93.672 576.000 2.810
1995 1.344.140 928.860 415.280 550.100 95.700 581.000 3.030
1996 1.373.500 962.500 411.000 670.000 97.700 585.000 3.120
1997 1.570.000 1.062.000 481.000 776.000 71.500 600.000 3.420
1998 1.668.530 1.130.660 537.870 858.600 71.799 626.330 3.560
1999 1.827.310 1.212.800 614.510 971.120 73.397 630.000 3.570
2000 2.773.585 1.787.200 986.358 1470.00 73.976 810.420 3.623
2001 3.320.754 2.187.700 1.133.054 1760.00 74.253 879.640 3.790
2002 3.816.981 2.342.540 1.474.441 2023.00 74.824 896.253 3.980
7
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Nguồn: Báo cáo tổng kết hằng năm của Bộ Thủy sản
II./ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THUỶ SẢN TRONG NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM.
1. Ngành thuỷ sản xuất khẩu với vấn đề tăng trưởng kinh tế.
Từ lâu thuỷ sản đã được coi là một ngành hàng thiết yếu và đựơc ưa chuộng tiêu
dùng ở rất nhiều nước trên thế giới. Với 3260 km bờ biển và vùng biển đặc quyền
kinh tế rộng trên 1 triệu cây số vuông nước ta có một vị trí địa lý và điều kiện tự
nhiên ưu đãi giúp thuận lợi cho việc khai thác, nuôi trồng thuỷ sản. Mặc dù chưa có
đủ điều kiện cần thiết để điều tra và đánh giá đầy đủ các nguồn lợi, đặc biệt là ngoài
khơi, nhưng theo số liệu thống kê hàng năm cho thấy Việt Nam khai thác được
khoảng 1,2-1,4 triệu tấn thuỷ sản. Trong đó ngoài cá còn có khoảng 50-60 nghìn tấn
tôm biển, 30-40 nghìn tấn mực và nhiều đặc sản có giá trị kinh tế cao.
Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn, ta thấy được vai trò quan trọng cuả
ngành thuỷ sản trong sự phát triển kinh tế xã hội . Đặc biệt trong 15 năm qua với
nhịp độ phát triển kinh tế nhanh chóng, sản lượng khai thác và gía trị xuất khẩu tăng
mạnh, ngành thuỷ sản ngày càng được xác định rõ là ngành kinh tế mũi nhọn và là
một trong những hướng ưu tiên của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
hiện nay.
Các kết quả trong quá khứ đã cho thấy nghề đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản có
vai trò quan trọng như thế nào trong việc hỗ trợ công ăn việc làm ở vùng nông thôn.
Nó cũng đã chứng minh tiềm năng của ngành thuỷ sản đóng góp cho thu nhập ngoại
tệ và thương mại quốc tế. Theo báo cáo của Bộ Thủy sản, trong khoảng 10 năm qua,
lao động thuỷ sản cũng đã tăng lên gần 10 lần: từ 380.000 người vào năm 1980 lên
3.350.000 người vào năm 1998 và đến năm 2002 là 3.980.000 người. Năm 2002, với
tổng sản lượng 3.816.981 tấn thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu đạt 2.022 tỷ đôla.1
1
Theo tài liệu trên trang web của Bộ Thuỷ sản www.vasep.com.vn.
8
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Những năm qua là giai đoạn tăng trưởng liên tục của ngành thuỷ sản trên mọi
mặt. Ngoài các hoạt động đầu tư, đổi mới quản lý nhằm tạo ra sản phẩm bắt kịp với
yêu cầu của các thị trường nhập khẩu, Bộ Thủy sản đã cùng các doanh nghiệp đổi
mới các hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp thị. Ngành thuỷ sản chủ động tổ chức
đoàn doanh nghiệp đi tìm kiếm khách hàng, tham gia các hội chợ quốc tế lớn về thuỷ
sản để giới thiệu sản phẩm, tiếp xúc giao lưu tìm đối tác mới. Bằng cách đó, ngành
thuỷ sản Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng ngay cả trong những thời kỳ
khó khăn nhất, như thời kỳ khủng hoảng kinh tế khu vực 1998 cũng đạt mức tăng
10%.
Bảng 1.2. Tỉ lệ đóng góp GDP của các ngành kinh tế Việt Nam năm 2002.
Các lĩnh vực kinh tế Tỷ lệ trong Mức đóng góp
GDP (%) (nghìn tỷ VND).
Nông nghiệp (kể cả thuỷ sản) 25,3 112,9
Công nghiệp, xây dựng 36.6 157,3
Dịch vụ 38,1 183,9
GDP 100,0 454,1
Nguồn: Bộ Thương mại, Tổng cục thống kê.
Ngành thuỷ sản thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn đóng góp 7% GDP,
dự tính đến năm 2010 sẽ thu hút khoảng 4,4 triệu lao động trong cả nước. Ngoài ra,
ngành thuỷ sản cũng góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng trên vùng biển của Tổ
quốc.
Bên cạnh đó ngành thuỷ sản đóng góp khá mạnh mẽ vào kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá nói chung của Việt Nam. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản là 2,022
tỷ USD, chiếm 10,24% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, chỉ sau xuất khẩu
dầu thô 3,501 tỷ USD và dệt may 2,592 tỷ USD1. Các xí nghiệp thuộc ngành thuỷ
sản nằm trong số các xí nghiệp đầu tiên được hưởng lợi ích đầy đủ khi chính phủ cho
1
Báo cáo chính phủ.
9
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
phép tự do hoá các xí nghiệp Nhà nước. Điều này đã dẫn đến việc hình thành một
trong những ngành xuất khẩu năng động nhất Việt Nam.
Xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu là tôm. Trong năm 1998, kim ngạch xuất khẩu đã
tăng dần trong những năm gần đây, đặc biệt ngày 1/10/2000, ngành thuỷ sản vượt
ngưỡng xuất khẩu 1 tỷ đôla. Ngành cũng vượt kế hoạch 1.940.000 tấn tổng sản lượng
thuỷ sản trước thời gian 2 tháng. Điều này càng khẳng định vị trí của ngành như một
mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
2. Ngành thuỷ sản xuất khẩu với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nhìn lại chặng đường phát triển của ngành thuỷ sản trong thời gian qua,
ngoài sự tăng trưởng đánh dấu bằng những con số nêu trên, có thể thấy được những
biến đổi về chất thực sự góp phần vào sự lớn mạnh tiếp tục của ngành.
Nghề thuỷ sản từ tự cung tự cấp đã trở thành một nghề có khả năng phát triển
kinh tế hàng hoá. Từ chỗ nuôi trồng chỉ phục vụ cho nhu cầu cá tươi nội địa, đến nay
ngoài tôm, các thuỷ đặc sản xuất khẩu cũng đã được xác định là đối tượng chủ yếu để
phát triển nuôi trồng và mang lại lợi nhuận cao. Phát triển nuôi trồng thủy sản sẽ góp
phần làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện
mức sống cho nông, ngư dân, góp phần xây dựng trật tự xã hội, an ninh nông thôn,
vùng biển, biên giới, vùng sâu, vùng xa. Cả nước hiện có hơn 600.000 hécta nuôi
trồng thuỷ sản ngọt, mặn, lợ. Đáng kể là sản lượng tôm phục vụ ở nước ta đã đứng
vào hàng thứ 5 trên thế giới. Khảo sát mới đây của Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy
sản II cho thấy, vùng nuôi tôm tập trung của cả nước là đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài ra, việc nuôi cá biển có giá trị xuất khẩu cao như: song, hồng, cam, giỏ,
vược… cũng được nhiều địa phương cho ngư dân vay vốn đầu tư. Theo yêu cầu của
thị trường EU (Liên minh châu Âu), ta cũng tiến hành việc nuôi nhuyễn thể hai mảnh
vỏ ven bờ để xuất khẩu.
Công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu mà chủ yếu là công nghiệp đông
lạnh, cho đến nay, toàn ngành đã có trên 250 nhà máy chế biến công nghiệp. Công
suất chế biến theo thiết kế vào khoảng 1.000 tấn thành phẩm mỗi ngày, tăng gấp 2,5
lần về số lượng nhà máy và gấp ba lần về công suất so với năm 1999. Đặc biệt, đến
10
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
nay đã có 61 nhà máy được EU cấp mã số xuất khẩu vào tất cả các nước trong thị
trường này và 100 nhà máy được công nhận áp dụng HACCP (Hệ thống phân tích tại
điểm kiểm soát tới hạn) để xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Đây là một sự tiến bộ rất
lớn nếu so với bốn năm trước đây hoàn toàn không có nhà máy nào đáp ứng được
những yêu cầu này.
Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ đã được xây dựng và áp dụng
trong 15 năm gần đây. Trước hết phải kể đến kỹ thuật sinh sản nhân tạo để tạo nguồn
tôm giống vào cuối những năm 80, cung cấp hàng năm hơn 1 tỷ con giống các cỡ.
Trong đánh bắt dần tạo ra các công nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác, du
nhập công nghệ mới và các phương tiện hiện đại từ nước ngoài để có thể vươn ra
khai thác xa bờ.
Hoạt động hợp tác quốc tế xét cả ba mặt: thị trường xuất khẩu, nguồn vốn
nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt những kết quả khích lệ. Từ cơ chế lấy
phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác và nuôi
trồng, qua thời kỳ Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, đến nay sản phẩm thuỷ
sản của nước ta đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới với một số sản phẩm bắt đầu có
uy tín trên những thị trường khó tính.
3. Ngành thuỷ sản xuất khẩu với vấn đề xã hội.
Dưới đây là một số mặt đạt được khi phát triển ngành nuôi trồng, đánh bắt và
xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam :
- Tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập và mức sống của các cộng đồng
đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
- Tăng sự đóng góp của ngành thuỷ sản vào sự phát triển kinh tế và xã hội
trong nước, bao gồm ổn định xã hội và an ninh quốc gia.
- Cải thiện tiêu chuẩn dinh dưỡng của nhân dân bằng cách cung cấp cá và hải
sản cho tiêu thụ nội địa.
- Tăng xuất khẩu và thu ngoại tệ.
11
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Dân số Việt Nam có khoảng 78 triệu người trong đó có khoảng 62,4 triệu
người, chiếm 80% sống ở vùng nông thôn và 15,6 triệu người chiếm 20% sống ở đô
thị. Tỷ lệ nữ là 55,6% và nam là 44,4%.
Bảng 1.3 Số lao động trong nghề đánh bắt cá ở Việt Nam.
Đơn vị 1000 người
Năm 1986 1990 1995 1996 1997 2001 2002
Số lao động 1.270 1.860 3.030 3.120 3.210 3.740 3980
Nguồn: Thông tin khoa học và công nghệ Thủy sản số tháng 3/2002
Lao động nghề cá với hơn 3 triệu người, chiếm 10% tổng số lao động xã hội
trong đó nhiều nhất là nuôi trồng thủy sản có 2.219.400 người, đánh bắt 435.000
người, chế biến 250.000 người.
Số lao động sống phụ thuộc vào ngành Thủy sản ngày càng tăng. Năm 2002
tăng thêm 2710 người tức bằng 313.38% so với năm 1986. Dân số nước ta ngày càng
nhiều, đặc biệt vẫn tăng mạnh ở các vùng nông thôn thì đây là một ngành quan trọng
thu hút lao động giảm bớt thất nghiệp cho một đất nước còn nghèo và lạc hậu như
nước ta.
Sự đóng góp của ngành thuỷ sản với mục tiêu dinh dưỡng quốc dân cũng được
tăng cường. Cung cấp cá và các sản phẩm thuỷ sản cả nước tăng từ mức 11,5 kg năm
1998 lên 17,5 kg một đầu người năm 2002. Mức tăng trưởng này có tính đến nhu cầu
dinh dưỡng của số dân tăng.
Việc đẩy mạnh hiện đại hóa và công nghiệp hoá nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản
sẽ tăng cường năng lực của ngành này. Bằng cách đó sẽ tăng sự đóng góp của ngành
đối với xã hội. Hiện đại hoá và phát triển sẽ giúp thiết lập các ngành công nghiệp mới
và những ngành công nghiệp đã hoàn thiện tại các vùng ven biển và sẽ nâng cao vai
trò của ngành thuỷ sản đối với việc phát triển kinh tế xã hội.
III./ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM ĐỐI VỚI NGÀNH THUỶ SẢN VÀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN.
Thực hiện tiến trình đổi mới, bằng nỗ lực to lớn Việt Nam đã phấn đấu vươn
lên trở thành một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Với sự tăng trưởng đó
12
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể về nền tảng kinh tế – xã hội, trở thành
thành viên tích cực ở khu vực Đông Nam Á và trong cộng đồng quốc tế.
Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho chương trình phát triển kinh tế đối ngoại của
Đảng ta là “mở rộng thị trường, đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất
khẩu có khối lượng và giá trị lớn. Củng cố thị trường quen thuộc, khôi phục quan hệ
với thị trường truyền thống, tìm thị trường và bạn hàng mới, lâu dài;giảm xuất nhập
khẩu qua thị trường trung gian .Thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu”.1
Trong sự phát triển chung đó, ngành thuỷ sản đã có đóng góp quan trọng.
Vào những năm 80, sản xuất kinh doanh thuỷ sản còn ở mức rất khiêm tốn, đến nay
đã vươn lên đứng thứ 19 về sản lượng, xếp thứ 30 về giá trị kim ngạch xuất khẩu, thứ
5 về sản lượng tôm nuôi trên thế giới. Vị thế của thuỷ sản Việt Nam trên trường quốc
tế không ngừng được củng cố và mở rộng. Để đẩy mạnh phát triển thuỷ sản, bên
cạnh việc phát huy cao độ nguồn lực bên ngoài, kết hợp với những chính sách thích
hợp của Đảng và Nhà nước ta đã tạo thêm nguồn lực cho thuỷ sản phát triển. Văn
kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định vai trò của thuỷ sản trong chương trình phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn: “Phát triển nghề nuôi trồng thuỷ hải sản, tổ
chức tốt các dịch vụ hậu cần phục vụ nuôi trồng. Quản lý tốt việc khai thác, bảo vệ
các nguồn lợi thủy hải sản, khuyến khích hỗ trợ ngư dân tự sắm phương tiện và tổ
chức khai thác thuỷ hải sản nhất là các nghề đánh bắt xa bờ. Tiếp tục điều tra, nghiên
cứu tài nguyên sinh vật biển để có kế hoạch khai thác, bảo vệ, chống ô nhiễm môi
trường biển, sông ngòi, ao hồ. Đến năm 2002 có diện tích nuôi trồng thủy sản trên 80
vạn ha, khai thác khoảng 2,2-2,3 triệu tấn (nuôi trồng khoảng 1,4 triệu tấn), xuất
khẩu thuỷ hải sản khoảng 2,0-2,1 tỷ USD”2
Ngoài ra, thuỷ sản cũng là một trong những ngành được “đầu tư vốn để phát
triển mạnh”3 tương đương với các ngành khác như chè, cà phê, cao su ,thịt,sữa…
1
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.26
2
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.50.
13
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Từ Đại hội Đảng VIII năm 1996 đến năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 251/1998/QĐ-TTg ngày2/12/1998 phê duyệt chương trình phát triển
xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005. Chương trình này được thực hiện với mục tiêu:
Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá ngành thuỷ sản, kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã tăng nhanh, đạt 1,1 tỷ đôla vào năm 2000 và 2,5 tỷ đôla
vào năm 2005; đưa kinh tế thuỷ sản phát triển thành ngành mũi nhọn trong nền kinh
tế đất nước, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, cải thiện
bộ mặt nông thôn và ven biển, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề về môi
trường sinh thái.
Gắn chế biến, xuất khẩu thuỷ sản với nuôi trồng, khai thác, bảo quản nguyên
liệu và tiêu thụ sản phẩm, tạo cơ sở vững chắc cho sản xuất và khai thác có hiệu quả
tiềm năng thuỷ sản, nâng cao chất lượng, giảm giá thành, tăng hiệu quả và tăng tích
luỹ là để tái sản xuất mở rộng, nâng cao khả năng cạnh tranh, giữ vững và phát triển
thị trường tiêu thụ hàng thuỷ sản Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra trước mắt đối với ngành thủy sản
là:
Phát triển nuôi trồng, khai thác, đảm bảo đủ nguyên liệu phục vụ cho chế biến
thuỷ sản xuất khẩu. Đưa nuôi trồng thuỷ sản trở thành nguồn chính cung cấp nguyên
liệu cho xuất khẩu. Phát triển nuôi tôm, tổ chức rộng rãi việc nuôi cá biển có giá trị
xuất khẩu cao, mở rộng và khuyến khích việc nuôi các loài thuỷ sản nước ngọt phục
vụ xuất khẩu.
Tiếp tục cải tiến nghề nghiệp và công nghệ khai thác hải sản, từng bước xây
dựng đội tàu đánh cá xa bờ để khai thác hợp lý nguồn lợi ven biển đi đôi với khai
thác có hiệu quả nguồn lợi hải sản xa bờ, nhằm tăng nhanh tỷ trọng sản lượng hải sản
có giá trị xuất khẩu trong tổng sản lượng hải sản khai thác đạt 20 đến 25% vào năm
2003 và trên 22 đến 24% vào năm 2005.
Tăng cường trang thiết bị và phương tiện bảo quản trên các tàu cá, từng bước
đầu tư đóng mới đội tàu chuyên môn hoá để bảo quản, vận chuyển sản phẩm hải sản,
cung cấp các dịch vụ ngoài khơi; xây dựng mới nâng cấp hệ thống cảng cá, chợ cá để
14
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
thay đổi công nghệ bảo quản sau thu hoạch, nhằm nâng cao chất lượng nguyên liệu
chế biến xuất khẩu.
Khuyến khích việc nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản để chế biến tái xuất khẩu,
tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng kim ngạch xuất khẩu và sử
dụng có hiệu quả công suất của các cơ sở chế biến thuỷ sản để tiếp tục đầu tư nâng
cấp và xây dựng mới, cụ thể là:
- Đầu tư xây dựng mới một số cơ sở chế biến đi đôi với mở rộng, nâng cấp
đồng bộ cả về cơ sở hạ tầng, điều kiện sản xuất, đổi mới công nghệ, đổi mới trang
thiết bị, thực hiện đầu tư chiều sâu cho số cơ sở chế biến thuỷ sản hiện có, có đủ điều
kiện mở rộng nâng cấp trên cơ sở tính toán kỹ về hiệu quả kinh tế của từng cơ sở,
nâng công suất chế biến lên 1.300 tấn sản phẩm /ngày vào năm 2003 và 1.500 tấn sản
phẩm/ ngày vào năm 2005; đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất
lượng tiên tiến phấn đấu đến năm 2003 các cơ sở chế biến thuỷ sản đều được áp dụng
hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến,đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và chất
lượng sản phẩm xuất khẩu.
- Mở rộng chủng loại và khối lượng các mặt hàng thuỷ sản chế biến có giá trị
gia tăng, đưa tỷ trọng mặt hàng có giá trị gia tăng từ 17,5% hiện nay lên 25% đến
30% vào năm 2003 và 40% đến 45% vào năm 2005.
- Nâng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản tươi sống từ 4% đến 5%
trong tổng sản phẩm xuất khẩu hiện nay lên 12% vào năm 2003 và 14% vào năm
2005. Quyết định nêu rõ các giải pháp để thực hiện, đó là giống (tôm, cá, bảo tồn
giống) thức ăn cho thuỷ sản; thị trường; khoa học công nghệ, đổi mới quan hệ sản
xuất; đào tạo cán bộ, chính sách đầu tư, chính sách thuế và về hợp tác đầu tư nước
ngoài.
Kế tục và phát huy tinh thần của Đại hội Đảng VIII, Đại hội Đảng IX cũng
đưa ra những chính sách và chiến lược phát triển kinh tế, trong đó có phát triển kinh
tế biển. Báo cáo chính trị của có nêu rõ: “Phát triển mạnh kinh tế biển kết hợp với
bảo vệ vùng biển: mở rộng nuôi trồng và đánh bắt, chế biến hải sản, tiến ra biển xa;
15
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
khai thác và chế biến dầu khí; phát triển vận tải viễn dương, du lịch và dịch vụ; bảo
vệ môi trường và an ninh vùng biển”. 1
1
Báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng, báo “Nhân dân” số 16639, ngày 3/2/2001.
16